TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ KẾ TOÁN CHO
VAY TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG
1.1 Tín dụng Ngân hàng và vai trò của tín dụng trong nền kinh tế quốc dân.
1.1.1 Tín dụng Ngân hàng
Tín dụng ra đời cùng với sự xuất hiện của tiền tệ. Khi một chủ thể kinh tế
cần một lượng hàng hoá cho nhu cầu tiêu dùng hoặc sản xuất trong khi chưa có
tiền hoặc số tiền hiện có chưa đủ để họ có thể sử dụng thì hình thức vay mượn có
thể đáp ứng nhu cầu. Có hai cách vay mượn: vay chính loại hàng hoá có nhu cầu
hoặc vay tiền để mua loại hàng hoá đó. Quan hệ vay mượn như vậy gọi là quan hệ
tín dụng. Như vậy sự ra đời và phát triển của tín dụng không những thoã mãn nhu
cầu “điều hoà” vốn trong xã hội mà còn là động lực thúc đẩy sự tăng trưởng của
nền kinh tế.
Hệ thống Ngân hàng thương mại ra đời với chức năng là trung gian tài chính
ra đời là một tất yếu khách quan, làm “cầu nối” giữa những người thừa vốn và
người thiếu vốn. Nói cách khác trong mối quan hệ này Ngân hàng đóng vai trò
vừa là người đi vay vừa là người cho vay.Như vậy tín dụng Ngân hàng là giao
dịch tài sản giữa Ngân hàng (TCTD) với bên đi vay (là các tổ chức kinh tế, cá nhân
trong nền kinh tế) trong đó Ngân hàng (TCTD) chuyển giao tài sản cho bên đi vay
sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, và bên đi vay có trách
nhiệm hoàn trả vô điều kiện cả vốn gốc và lãi cho Ngân hàng (TCTD) khi đến hạn
thanh toán. (Nguồn: Giáo trình kế toán Ngân hàng-NXB Thống kê/2005).
1.1.2 Vai trò của tín dụng Ngân hàng
Sự phát triển nền kinh tế sản xuất và lưu thông hàng hoá kéo theo sự ra đời
và phát triển của tiền tệ và các tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Ngân hàng
thương mại tham gia trên thi trường với tư cách là trung gian tài chính lớn nhất
trong nền kinh tế quốc dân, hay Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa cung và cầu
vốn, từ đó góp phần đầu tư phát triển kinh tế, nói các khác nó là đòn bẩy thúc đẩy
nền kinh tế phát triển.
Trong nền kinh tế hàng hoá tiền tệ thì bất kỳ thời điểm nào cũng xuất hiện
một hiện tượng là có những chủ thể thừa vốn đồng thời lại có những chủ thể thiếu
vốn. Thông qua Ngân hàng thương mại các nguồn vốn được chuyển một cách gián
tiếp từ người thừa vốn sang người thiếu vốn. Cách đầu tư gián tiếp này mang lại
người thừa vốn thu đươc một khoản tiền với độ an toàn cao, đồng thời các chủ thể
thiếu vốn cũng đáp ứng được nhu cầu với khối lượng và thời hạn phù hợp…một
cách nhanh chóng nhất. Trong khi đó, việc đầu tư trực tiếp gặp khó khăn do khó có
sự phù hợp về khối lượng vốn, thời gian và lòng tin giữa các chủ thể (người có vốn
và người cần vay vốn). Sự xuất hiện của Ngân hàng còn cung ứng cho thị trường
hàng loạt tiện ích như : dịch vụ thanh toán, chuyển tiền, tư vấn…
Dưới hình thức đi vay để cho vay, các Ngân hàng thương mại có thể chia
nhỏ sản phẩm tiền gửi với giá trị lớn thành sản phẩm tín dụng có giá trị nhỏ đáp
ứng nhu cầu người tiêu dùng và hộ sản xuất, người có thu nhập thấp…Đồng thời
tập trung những khoản tiền gửi nhỏ thành những khoản tín dụng lớn đáp ứng các
nhu cầu khác nhau của nền kinh tế.
Với chức năng là trung gian tín dụng các Ngân hàng thương mại góp phần
tích cực cho sự phát triển của nền kinh tế, góp phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển
hàng hóa và vòng quay vốn. Là một bộ phận không thể thiếu trong nền kinh tế hiện
nay.
Tín dụng Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho xã hội góp phần thúc đẩy nền
kinh tế phát triển.
Do quá trình sản xuất kinh doanh trong xã hội là thường xuyên liên tục, do
vậy nhu cầu vốn để đáp ứng cho hoạt động này cũng nảy sinh thường xuyên liên
tục với mức độ cao. Tín dụng Ngân hàng khai thác tối đa các nguồn vốn trong và
ngoài nước, cung cấp vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện phát triển các
ngành kinh tế mũi nhọn, khu công nghiệp. Bên cạnh đó TDNH còn cung cấp vốn
ưu đãi cho các thành phần kinh tế kém phát triển tạo đà cho tất cả các thành phần
kinh tế cùng phát triển.
Việc phân phối lại tín dụng đã góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế, làm
cho nền kinh tế được hoạt động một cách trôi chảy. Có thể nói tín dụng là “cầu
nối” giữa tiết kiệm và đầu tư, là động lực để kích thích tiết kiệm đồng thời cũng là
phương tiện đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển kinh tế.
Thông qua tín dụng các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư
trong xã hội được tập trung lai và sẽ được đầu tư trở lại nền kinh tế. Điều này sẽ
làm cho hoạt động đầu tư được mở rộng, góp phần nâng cao sản lượng trong sản
xuất kinh doanh, phát triển nền kinh tế. Ngoài ra tín dụng còn kích thích cạnh
tranh, và liên kết giữa các thành phần kinh tế. Từ đó thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế.
Tín dụng Ngân hàng đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp,
tổ chức, cá nhân để họ có thể đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật cũng như
thực hiện các kế hoạch của mình. Làm cho quá trình phát triển kinh doanh được
trôi chảy, thúc đẩy lưu thông hàng hoá, tăng tốc độ luân chuyển vốn trong nền kinh
tế quốc dân, thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng.
Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn và phân phối vốn
cho nền kinh tế.
Bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có vốn. Và nhu
cầu vốn trong xã hội luôn diễn ra một cách thường xuyên, liên tục. Để giải quyết
nhu cầu về vốn một cách nhanh chóng và có hiệu quả thì tín dụng Ngân hàng là
công cụ tốt nhất và quan trọng nhất. Tín dụng Ngân hàng không chỉ đáp ứng nhu
cầu về vốn của nền kinh tế mà còn giúp các doanh nghiệp phát huy được thế mạnh
về lao động, kỹ thuật của mình.
Thông qua việc huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức,
cá nhân trong xã hội, Ngân hàng hình thành nên nguồn vốn cho vay.Trên cơ sở đó
Ngân hàng đầu tư vào các lĩnh vực có nhu cầu về vốn. Như vậy nhờ có hoạt động
tín dụng Ngân hàng vốn được điều chuyển từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn để
tiến hành sản xuất kinh doanh, góp phần làm cho tốc độ chu chuyển vốn được liên
tục và có hiệu quả.
Tuy nhiên hoạt động tín dụng không phải là đáp ứng tất cả các nhu cầu về
vốn của chủ thể, mà việc đầu tư chỉ có thể được thực hiện cho những khách hàng
có khả năng về tài chính, kinh doanh có hiệu quả. Do đó tín dụng Ngân hàng đã
kích thích các doanh nghiệp sử dụng vốn một cách có hiệu quả, đầu tư có trọng
điểm, có phương huớng,đồng thời đẩy nhanh quá trình tập trung vốn và tập trung
sản xuất ở những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, đưa được các thành tựu khoa
học kỹ thuật và sản xuất, nâng cao được chất lượng sản phẩm, năng suất lao động,
thúc đẩy cạnh tranh. Từ đó nâng cao trình độ sản xuất của nền kinh tế, đồng thời
làm tăng lợi ích của người tiêu dùng và người lao động trong xã hội . Góp phần
thúc đẩy quá trình phát triển xã hội.
Tín dụng Ngân hàng góp phần hoàn thiện hơn cho chế độ hạch toán của nền
kinh tế.
Khi các doanh nghiệp sử dụng vốn vay của Ngân hàng thì phải có trách
nhiệm hoàn trả gốc và lãi đúng thời hạn nghi trên hợp đồng tín dụng. Đồng thời
cũng phải tôn trọng và thực hiện tốt những diều đã nghi trong hợp đồng điều này
đòi hỏi các doanh nghiệp, các tổ chức cá nhân phải quan tâm đến việc sử dụng vốn
sao cho có hiệu quả, giảm bớt những chi phí không cần thiết, tăng nhanh vòng
quay vốn…Nâng cao được năng lực của mình. Nâng cao hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh. Đưa doanh nghiệp ngày càng phát triển.Trong khi đó một trong
những hoạt động kinh doanh quan trọng nhất đó là công tác hạch toán kinh tế, vì
quá trình hạch toán kinh tế là quá trình quản lý và sử dụng vốn sao cho có hiệu quả
nhất. Để làm tốt công việc này thì hạch toán kinh tế phải giám sát chặt chẽ quá
trình sử dụng vốn để vốn được sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng nhằm thu
được lợi nhuận là lớn nhất. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế
ngày càng hoàn thiện hơn chế độ hạch toán của doanh nghệp mình.Không những
thế đối với Ngân hàng, hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại nguồn thu nhập
lớn nhất cho Ngân hàng. Vì vậy hoạt động tín dụng cần đựơc quản lý một cách có
hiệu quả và công tác kế toán cho vay là điều không thể thiếu.
Hoạt động tín dụng góp phần điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông và
kiểm soát lạm phát.
Khối lượng tiền trong lưu thông tăng lên khi Ngân hàng cho vay ra và giảm đi
khi Ngân hàng thu hồi nợ. Như vậy thông qua hoạt động cho vay tín dụng Ngân
hàng góp phần điều tiết khối lượng tiền tệ lưu thông trong nền kinh tế.
Ngân hàng thường sử dụng lãi suất cho vay và huy động để điều tiết cung
cầu tiền tệ trong nền kinh tế. Mỗi sự biến động của lãi suất có thể làm thay đổi khối
lượng tiền vay. Khi lãi suất tăng lượng tiền vay giảm ngược lại khi lãi giảm thì
lượng tiền vay sẽ tăng. Các Ngân hàng cũng sử dụng hạn mức tín dụng cho các
khách hàng vay nhằm khống chế lượng tiền vay. Đây là một trong những biện pháp
khiểm soát lạm phát. Bởi vì khi Ngân hàng kiểm soát được khối lượng tiền trong
lưu thông tức thoã mãn được nhu cầu tiền của nền kinh tế từ đó kiểm soát được gía
cả, đồng thời kiểm soát được lạm phát.
Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện phát triển quan hệ kinh tế quốc tế.
Trong điều kiện hiện nay khi mà xu hướng toàn cầu hóa đang diễn ra một
cách nhanh chóng, nền kinh tế của mỗi nước đều gắn liền và trở thành một bộ phận
của nền kinh tế thế giới thì quan hệ thương mại quốc tế ngày càng được mở rộng
hơn. Tín dụng Ngân hàng trở thành một phương tiện nối liền kinh tế giữa các nước
với nhau.
Thông qua quá trình nhận và cho vay, tài trợ xuất nhập khẩu của các Ngân
hàng cũng như của các tổ chức tín dụng, cùng với sự tham gia trực tiếp vào quan
hệ thanh toán quốc tế. Tín dụng Ngân hàng làm tăng quan hệ tốt đẹp giữa các nước
với nhau, đồng thời thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, thúc đẩy quá trình phát
triển sản xuất trong nước. Từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển.
Như vậy qua hoạt động của mình tín dụng Ngân hàng đã góp phần thúc đẩy
sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Đồng thời tín dụng Ngân hàng còn góp phần
thực hiện tốt chính sách kinh tế của Đảng và nhà nước đề ra. Ngoài ra tín dụng
Ngân hàng còn là yếu tố quan trọng cùng các hoạt động khác giúp cho Ngân hàng
nói riêng và toàn bộ hệ thống tài chính nói chung tồn tại và phát triển trên thị
trường hiện nay.
1.1.3 Các hình thức cấp tín dụng.
a) Cho vay bằng tiền.
Là hình thức cấp tín dụng cho khách hàng bằng cách cho vay trực tiếp bằng
tiền, tức Ngân hàng chuyển giao một số tiền nhất định cho bên đi vay sử dụng
trong một thời gian theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều
kiện cả gốc và lãi cho Ngân hàng khi đến hạn thanh toán. Đây là hình thức tín dụng
thuần tuý sơ khai nhất của Ngân hàng.
Theo quyết định 1627 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành tháng
12/2002. Hiện nay các Ngân hàng Thương mại Việt Nam đang áp dụng 8 phương
thức cho vay. (Các phương thức này sẽ được trình bày kỹ hơn ở phần sau).
1. Phương thức cho vay từng lần.
2. Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng.
3. Cho vay theo dự án đầu tư.
4. Cho vay hợp vốn.
5. Cho vay trả góp.
6. Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng.
7. Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
8. Cho vay theo hạn mức thấu chi.
b) Chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá.
Cho vay chiết khấu thực chất là nghiệp vụ tín dụng trong đó, Ngân hàng
Thương mại mua lại thương phiếu và các giấy tờ có giá theo giá trị hiện tại tại thời
điểm mua, và có được trái quyền đối với người phát hành ra thương phiếu khi đến
hạn.
Về phía Ngân hàng Thương mại, cho vay chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ
tín dụng ngắn hạn, trong đó khách hàng chuyển nhượng phiếu chưa đến hạn thanh
toán cho Ngân hàng để nhận một số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ đi số
tiền chiết khấu và hoa hồng phí (nếu có). Chiết khấu thương phiếu vừa là nghiệp
vụ sinh lời, vừa duy trì năng lực thanh toán của Ngân hàng Thương mại khi các
Ngân hàng mang thương phiếu đến tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước.
Xét trên góc độ quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia, có hai loại
chiết khấu:
1. Chiết khấu miễn truy đòi.
2. Chiết khấu truy đòi.
c) Cho thuê tài chính.
Cho thuê tài chính là hình thức cho thuê tài sản trong đó phần lợi ích và rủi ro
của tài sản thuê được chuyển giao sang bên đi thuê. Vậy đây thực chất là tín dụng
trung và dài hạn, trong đó Ngân hàng theo đơn đặt hàng của khách hàng sẽ mua tài
sản về cho thuê và cuối hợp đồng khách hàng có thể mua lại tài sản theo giá thoả
thuận trong hợp đồng thuê.
Đứng ở góc độ tín dụng, cho thuê tài chính là loại hình tín dụng trung, dài hạn
để bổ sung cho tín dụng trung, dài hạn thông thường nhằm giúp cho các doanh
nghiệp giải quyết khó khăn về tài chính (Vốn để đầu tư vào tài sản cố định).
Ở hình thức này ngoài việc phải đảm bảo đúng quy trình kỹ thuật của loại tín
dụng “đặc thù” này, còn phải tuân thủ quy chế tín dụng, kỹ thuật kế toán cho vay
nói chung cảu Ngân hàng Thương mại.
d) Nghiệp vụ bảo lãnh.
Bảo lãnh Ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh)
với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho
khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã
cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và trả nợ cho tổ chức tín
dụng số tiền đã được trả thay.
Tín dụng bảo lãnh thực chất là hình thức tín dụng “bằng chữ ký” trong đó Ngân
hàng đưa ra cam kết bảo lãnh cho khách hàng của mình và sẽ có trách nhiệm trả
thay khách hàng trong trường hợp khách hàng không có khả năng thanh toán.
Như vậy khi đưa ra cam kết bảo lãnh, Ngân hàng chưa phải xuất quỹ để cho
khách hàng sử dụng. Chỉ khi đáo hạn khách hàng không có khả năng thanh toán thì
Ngân hàng mới xuất tiền để thanh toán hộ. Tuy nhiên nghiệp vụ bảo lãnh cũng tạo
ra cơ hội để tăng tổng dư nợ tín dụng lớn hơn trong hoạt động tín dụng
2.1 Kế toán cho vay trong Ngân hàng thương mại
1.2.1 Kế toán cho vay
a) Khái niệm kế toán Ngân hàng
Kế toán là một công cụ quan trọng để quản lý kinh tế tài chính ở mỗi đơn vị,
tổ chức kinh tế cũng như ở phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Kế toán Ngân hàng là việc thu thập, ghi chép, xử lý, phân tích các nghiệp vụ
kinh tế tài chính về hoạt động tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ Ngân hàng dưới hình
thức chủ yếu là giá trị để phản ánh, kiểm tra toàn bộ hoạt động kinh doanh của đơn
vị Ngân hàng, đồng thời cung cấp thông tin cần thiết phục vụ cho công tác quản lý
hoạt động tiền tệ Ngân hàng ở tầm vĩ mô và vi mô, cung cấp thông tin cho các tổ
chức, cá nhân theo quy định của pháp luật.
Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh tiền tệ do đó hầu hết
các nghiệp vụ kế toán Ngân hàng đều liên quan đến các ngành kinh tế khác. Vì vậy
kế toán Ngân hàng không chỉ phản ánh tổng hợp hoạt động cảu bản thân Ngân
hàng mà nó còn phản ánh được đại bộ phận hoạt động kinh tế, tài chính của nền
kinh tế. Những số liệu do kế toán Ngân hàng cung cấp là những chỉ tiêu kinh tế
quan trọng giúp cho việc chỉ đạo, điều hành hoạt động kinh doanh Ngân hàng, là
căn cứ cho việc hoạt dộng thực thi chính sách tiền tệ quốc gia.
b) Khái niệm về kế toán cho vay
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó Ngân hàng giao cho khách
hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả
thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Đây được coi là nghiệp vụ chủ yếu
chiếm tỷ trọng tài sản có sinh lời lớn nhất trong tổng tài sản có của Ngân hàng,
đồng thời cũng đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho Ngân hàng. Theo thống kê ở
Việt Nam giá trị tài sản từ hoạt động tín dụng chiếm 70%-80% tổng tài sản có, thu
nhập từ hoạt động tín dụng chiếm 80%- 90% tổng thu của Ngân hàng.
Kế toán nghiệp vụ tín dụng là công việc ghi chép, phản ánh tổng hợp một
cách đầy đủ, chính xác, kịp thời các khoản tín dụng trong tất cả các khâu từ giải
ngân, thu nợ, thu lãi và theo dõi dư nợ toàn bộ cấp tín dụng của Ngân hàng, trên cơ
sở đó để giám đốc chặt chẽ toàn bộ số tiền đã cấp tín dụng cho khách hàng đồng
thời tham mưu cho nghiệp vụ tín dụng.
c) Vai trò của kế toán cho vay
Thông qua kế toán cho vay Ngân hàng mới thực hiện được việc giải ngân, thu
nợ, thu lãi để đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động của nền kinh tế một cách kịp
thời, chính xác. Đồng thời cũng giúp cho lãnh đạo Ngân hàngnắm bắt chính xác
thông tin, số liệu về dư nợ cho vay, doanh số thu nợ, thu lãi, nợ quá hạn từ đó có
biện pháp xử lý, phương hướng chỉ đạo điều hành hoạt động kinh doanh cho phù
hợp nhằm đạt được mục tiêu cho an toàn và lợi nhuận.
Từ các số liệu của kế toán cho vay có thể thấy được tình hình phát triển
kinh tếcủa từng khu vực, tình hình đầu tư Ngân hàng, các ngành nghề từ đó điều
chỉnh các chính sách phát triển kinh tế.
Xuất phát từ vai trò của mình việc tổ chức bộ máy kế toán trong mỗi Ngân
hàng đều thực sự cần thiết, ở đó việc hạch toán kế toán phải phù hợp với từng
phương thức cho vay, loại cho vay, thời hạn cho vay nhằm mục đích mang lại lợi
nhuận cao nhất và hạn chế rủi ro thấp nhất cho Ngân hàng.
d) Nhiệm vụ của kế toán cho vay
- Tổ chức ghi chép phản ánh đầy đủ, chính xác, kịp thời các khoản cho vay,
thu nợ, theo dõi dư nợ, chuyển nhóm nợ, trích lập dự phòng rủi ro qua đó hình
thành các thông tin kế toán phục vụ quản lý tín dụng. Bảo vệ an toàn vốn cho vay.
- Quản lý hồ sơ cho vay, theo dõi kỳ hạn nợ để thu hồi nợ đúng hạn, hoặc
chuyển nợ quá hạn khi người vay không đủ khả năng trả nợ đúng hạn.
- Tính và thu lãi cho vay chính xác, đầy đủ, kịp thời.
- Giám sát tình hình tài chính của khách hàng thông qua hoạt động của tài
khoản tiền gửi và tài khoản cho vay. Phát hiện kịp thời những khách hàng có khả
năng tài chính không lành mạnh trên cơ sở đó tham mưu cho cán bộ tín dụng để có
biện pháp xử lý kịp thời.
- Thông qua số liệu của kế toán cho vay để phát huy vai trò tham mưu của
kế toán trong nghiệp vụ tín dụng.
e) Tài khoản sử dụng trong kế toán cho vay
Tài khoản kế toán là phương pháp kế toán dùng để phân loại và hệ thống hóa
các nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh theo nội dung kinh tế.
Các tài khoản được sử dụng trong cho vay được căn cứ vào cơ chế nghiệp vụ
tín dụng mà bố trí sắp xếp một các thích hợp, đáp ứng yêu cầu quản lý của nghiệp
vụ tín dụng.
- Tài khoản nội bảng
Các tài khoản phản ánh nghiệp vụ cho vay
Tài khoản này được bố trí ở 2 loại “hoạt động tín dụng” trong hệ thống tài
khoản tổ chức tín dụng do Thống đốc ban hành
Để phản ánh từng loại khách hàng vay vốn, từng kỳ hạn vay( ngắn, trung và
dài hạn), từng loại tiền cho vay( bằng đồng Việt Nam hay ngoại tệ hoặc vàng) và
phản ánh được yêu cầu phân loại nợ, trong 2 loại được bố trí thành các tài khoản
tổng hợp cấp I, II và cấp III.
TK cấp I: TK 20: Cho vay các tổ chức tín dụng khác.
TK21: Cho vay các tổ chức kinh tế, cá nhân trong nước.
TK 22: Chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá đối với các tổ
chức kinh tế, cá nhân trong nước.
TK 23: Cho thuê tài chính.
TK 24: Bảo lãnh.
….
TK cấp II được mã hoá theo thời gian và loại tiền tệ. Ví dụ với TK 21.
TK 211: Cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam.
TK 212: Cho vay trung hạn bằng đồng Việt Nam.
TK 213: Cho vay dài hạn bằng đồng Việt Nam.
TK 214: Cho vay ngắn hạn bằng ngoại tệ.
….
Các tài khoản tổng hợp cấp II được bố trí thành các tài khoản tổng hợp cấp III
để phục vụ việc phân loại nợ của các Ngân hàng Thương mại (5 cấp độ).
TK 2111: Nợ đủ tiêu chuẩn