Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Đánh giá thực trạng công tác cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.87 KB, 20 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một trong những hướng quan trọng của quá trình
cải cách doanh nghiệp nhà nước- bộ phận không thể thiếu trong thành phần kinh tế nhà
nước. Theo hướng đó, Đảng ta đã lựa chọn cổ phần hóa như một phương thức có hiệu quả
để đổi mới các doanh nghiệp nhà nước như các Nghị quyết 3 và Nghị quyết 9 của Ban
chấp hành Trung ương khóa IX đã nêu rõ.
Thực tế, kinh nghiệm của các nước trên thế giới đã cho thấy, cải cách chế độ cổ
phần được coi là một đột phá lý luận kinh tế. Cụ thể, Trung Quốc từ năm 1997 đến 2001,
xí nghiệp cổ phần tăng từ 7.200 lên tới gần 300.000, số lao động từ 6.437 triệu người lên
đến 27.466 triệu người, doanh thu từ 813.1 tỷ nhân dân tệ lên 5.673,3 tỷ NDT. Thực tế đó
có sức thuyết phục, đem lại nhận thức đúng đắn về vai trò của cổ phần hóa trong xây dựng
kinh tế đất nước.
Cổ phần hóa tại Việt Nam được thực hiện từ năm 1992. Vậy cho đến nay, chính
sách ấy được thực hiện như thế nào, mang lại hiệu quả ra sao? Với mong muốn giải quyết
các vấn đề ấy, tôi đã chọn chủ đề ‘Đánh giá thực trạng công tác cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước và các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước’
cho tiểu luận của mình.
II. MỤC TIÊU CỦA TIỂU LUẬN
I Tìm hiểu mục tiêu của cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước.
T Tìm hiểu thực trạng cổ phần hóa DNNN ở nước ta trong thời gian qua.
T Đưa ra giải pháp để đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa.
III. KẾT CẤU TIỂU LUẬN
Để giải quyết các mục tiêu trên, tiểu luận lần lượt nghiên cứu 03 phần chính như sau:
Đ Phần 1 - Chính sách nhà nước trong vấn đề cổ phần hóa: tìm hiểu các vấn đề như
mục tiêu cổ phần hóa, danh mục phân loại Doanh nghiệp nhà nước trong cổ phần hóa,
phương pháp, lộ trình cổ phần hóa ….
p Phần 2 - Thực trạng tình hình cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam trong thời gian qua:
trình bày những kết quả đạt được cũng như các vấn đề còn tồn tại trong quá trình cổ phần
hóa.
h Phần 3 - Giải pháp nhằm đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước


trong giai đoạn 2006 – 2010.

I. CHÍNH SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG VẤN ĐỀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC
Ngay từ đầu thập niên 90, cùng với việc đổi mới cơ chế chính sách kinh tế- xã hội,
Đảng ta đã sớm có chủ trương chuyển đổi sở hữu một số doanh nghiệp nhà nước (DNNN)
nhằm huy động vốn của toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp;
tạo điều kiện để những người góp vốn, nhất là cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp
nâng cao vai trò làm chủ thực sự, tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu
quả; tăng cường sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp, bảo đảm hài hòa lợi ích của
Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.
Để thực hiện thành công chủ trương trên, Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định, Quyết
định nhằm tạo một hành lang pháp lý, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa
(CPH) các DNNN tại Việt Nam.
I.1 Mục tiêu cổ phần hóa DNNN
Theo Nghị định số 64/2002/NĐ-CP, ngày 19 tháng 6 năm 2002, của Chính phủ, về chuyển
doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, mục tiêu của việc chuyển doanh nghiệp nhà
nước thành công ty cổ phần là nhằm:
1. Góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp; tạo ra
loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động; tạo
động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp để sử dụng có hiệu quả
vốn, tài sản của Nhà nước và của doanh nghiệp.
2. Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm: cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp.
3. Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông; tăng cường
sự giám sát của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp; bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước,
doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động.
Thật vậy, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ
sở hữu trong đó có đông đảo người lao động, phát huy vai trò làm chủ thực sự của người
lao động.

Cụ thể, người lao động được ưu tiên mua cổ phiếu của doanh nghiệp được cổ phần
hoá với giá ưu đãi, được tiếp tục tham gia và hưởng quyền về bảo hiểm xã hội và được cấp
sổ bảo hiểm xã hội nếu là lao động mới. Người lao động được đào tạo lại nghề nếu thuộc
diện phải đào tạo lại nghề để tiếp tục làm việc ở công ty cổ phần. Người lao động nghèo
được hưởng các ưu đãi kể cả khi mua cổ phần như mua chịu, mua với giá ưu đãi, v.v.
Những người lao động dôi dư do cổ phần hoá được hưởng các chính sách hỗ trợ
đối với lao động dôi dư theo quy định của Nghị định số 41/2002/NĐ-CP, ngày 11 tháng 4
năm 2002, của Chính phủ.
I.2 Danh mục phân loại DNNN trong cổ phần hóa
- Theo Quyết định số 58/2002/QĐ-TTg, ngày 26 tháng 4 năm 2002, của Thủ tướng Chính
phủ, ban hành tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp nhà nước và Tổng công ty nhà
nước:
1. Những doanh nghiệp nhà nước thuộc diện Nhà nước sẽ nắm giữ 100% vốn:
1 Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực độc quyền nhà
nước; trong các ngành, lĩnh vực then chốt, sản phẩm quan trọng có vốn nhà nước từ 20 tỷ
đồng trở lên, có mức thu nộp ngân sách bình quân 3 năm liền kề từ 3 tỷ đồng trở lên, đi
đầu trong việc ứng dụng công nghệ mũi nhọn, công nghệ cao và góp phần quan trọng ổn
định kinh tế vĩ mô; doanh nghiệp đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho phát triển sản xuất và
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào nông thôn, đồng bào dân tộc ở miền
núi, vùng sâu, vùng xa; doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có tính chất đặc thù.
n Doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích quan trọng; doanh nghiệp thực hiện các
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; doanh nghiệp đóng tại các địa bàn chiến lược quan trọng
kết hợp kinh tế với quốc phòng.
2. Những doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hoá, Nhà nước sẽ nắm giữ cổ phần chi
phối:
Những doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh trong những ngành, lĩnh vực
quan trọng có vốn nhà nước từ 10 tỷ đồng đến dưới 20 tỷ đồng, mức thu nộp ngân sách
nhà nước bình quân 3 năm liền kề từ 1 tỷ đồng trở lên và một số loại doanh nghiệp hoạt
động công ích.
3. Những doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hoá, Nhà nước sẽ không nắm giữ cổ

phần chi phối
Những doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hoá, Nhà nước không nắm giữ trên
50% tổng số cổ phần của doanh nghiệp hoặc cổ phần đặc biệt, thì cơ quan nhà nước có
thẩm quyền căn cứ vào điều kiện cụ thể của doanh nghiệp quyết định Nhà nước giữ cổ
phần mức thấp hoặc không giữ cổ phần.
4. Những doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hoá, Nhà nước không nắm giữ cổ phần
chi phối nhưng nắm giữ cổ phần đặc biệt
Đó là những doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong một số lĩnh vực quan trọng,
khi cổ phần hoá, Nhà nước không nắm giữ trên 50% tổng số cổ phần của doanh nghiệp,
nhưng sẽ nắm giữ cổ phần đặc biệt để quyết định một số vấn đề quan trọng, theo quyết
định của Thủ tướng Chính phủ.
- Ngày 24.8.2004 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành QĐ số 155/2004/QĐ-TTg để quy định
cụ thể các tiêu chí, danh mục phân loại các công ty nhà nước cần giữ 100%, 51% vốn và
tiêu chí các TCty, đối chiếu với QĐ 58/2002/QĐ-TTg ngày 26 tháng 4 năm 2002 của Thủ
tướng Chính phủ thì không còn DNNN hoạt động trong lĩnh vực độc quyền nhà nước và
bỏ những DNNN hoạt động công ích. Theo các tiêu chí quy định tại QĐ số 155/2004/QĐ-
TTg, các bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ,
chủ tịch UBND cấp tỉnh, HĐQT TCty 91 tiếp tục phân loại các công ty nhà nước trình Thủ
tướng CP trong tháng 10.2004.
I.3 Phương pháp xác định giá trị DNNN khi cổ phần hóa
Theo Thông tư số 79/2002/TT-BTC, ngày 12 tháng 9 năm 2002, của Bộ Tài chính, hướng
dẫn xác định giá trị doanh nghiệp khi chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ
phần, có 2 phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hoá, gồm:
Phương pháp thứ 1: Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước theo tài sản
Là phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp dựa trên cơ sở giá trị thực tế của toàn bộ tài
sản hữu hình, vô hình của doanh nghiệp tại thời điểm định giá.
Đối tượng áp dụng là các doanh nghiệp nhà nước và các đơn vị phụ thuộc của
doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong các ngành nghề sản xuất, kinh doanh trừ những
doanh nghiệp được định giá theo phương pháp dòng tiền chiết khấu (DCF) dưới đây.
Phương pháp thứ 2: Phương pháp dòng tiền chiết khấu (DCF)

Là phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp dựa trên khả năng sinh lời của doanh nghiệp
trong tương lai, không phụ thuộc vào giá trị tài sản của doanh nghiệp.
Phương pháp này được áp dụng đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động
trong các ngành dịch vụ thương mại, dịch vụ tư vấn, thiết kế xây dựng, dịch vụ tài chính,
kiểm toán, tin học và chuyển giao công nghệ: có tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở
hữu bình quân 5 năm liền kề của doanh nghiệp trước cổ phần hoá cao hơn lãi suất trái
phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm ở thời điểm gần nhất trước thời điểm xác định giá trị
doanh nghiệp.
I.4 Lộ trình cổ phần hóa DNNN- Các chính sách mới
Thay vì chỉ cổ phần hoá (CPH) những DN nhỏ, yếu kém và đơn vị phụ thuộc của
các Cty, Nghị định 187/2004/NĐ-CP của Chính phủ và Thông tư 126/2004/TT-BTC của
Bộ Tài chính ban hành ngày 24.12 đã bổ sung thêm đối tượng CPH là Cty nhà nước có quy
mô lớn không thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn. Như vậy, các TCty, Cty, ngân
hàng thương mại và các tổ chức tài chính nhà nước đều nằm trong diện CPH.
Nghị định mới cũng xoá bỏ việc xác định giá trị DN theo cách tổ chức hội đồng để
nâng cao tính chuyên nghiệp và minh bạch trong hoạt động định giá, đẩy nhanh tiến độ
CPH. Việc xác định giá trị DN sẽ do các tổ chức chuyên nghiệp thực hiện.
Tuy nhiên, với DN quy mô nhỏ, tổng giá trị tài sản dưới 30 tỉ đồng, nếu không thuê
định giá thì cơ quan quyết định CPH có thể giao cho DN tự xác định giá trị DN.
Việc bán cổ phần sẽ thực hiện thông qua đấu giá. Nếu tổng mệnh giá cổ phần dưới
1 tỉ đồng, Ban chỉ đạo CPH sẽ tổ chức bán. Từ trên 1 tỉ đồng đến 10 tỉ đồng phải qua đấu
giá tại các tổ chức tài chính trung gian và trên 10 tỉ đồng phải thực hiện đấu giá tại Trung
tâm Giao dịch chứng khoán.
Bên cạnh cơ chế bán cổ phần ưu đãi cho người lao động trong DN, Nghị định 187
đã chú trọng tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư chiến lược tham
gia góp vốn mua cổ phần. Chính sách mới không khống chế quyền mua của các nhà đầu tư.
Riêng nhà đầu tư nước ngoài hiện nay theo quy định của Luật Khuyến khích đầu tư trong
nước, thì tỉ lệ nắm giữ tối đa là 30%.
Các nhà đầu tư chiến lược được mua cổ phần với giá ưu đãi giảm 20% so với giá
đấu thành công bình quân, người lao động trong DN được mua theo giá ưu đãi giảm 40%

và được tự do chuyển nhượng cổ phần ưu đãi. Lượng cổ phần người lao động được mua
ưu đãi tối đa là 100 cổ phần/1 năm công tác tại khu vực nhà nước.
Cty cổ phần được hưởng ưu đãi như DN mới thành lập mà không cần phải có thủ
tục chứng nhận ưu đãi đầu tư nhằm giảm bớt những thủ tục hành chính không cần thiết.
Cty cổ phần niêm yết ngay trên thị trường chứng khoán sẽ được hưởng thêm một số ưu đãi
khác. Điều quan trọng là đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại Cty cổ phần được
quyền quyết định việc bán tiếp cổ phần thuộc sở hữu nhà nước tại Cty cổ phần thông qua
niêm yết, đấu giá mà không phải đợi đủ 3 năm như quy định cũ.
Các chuyên gia phân tích tài chính cho rằng, chính sách mới sẽ dỡ bỏ các rào cản
lâu nay đã làm chậm tiến trình CPH. Việc CPH sẽ được tiến hành thực chất và chất lượng
hơn. Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ có nhiều cơ hội hơn để đầu tư vào trong nước và các
DN trong nước cũng có cơ hội để thu hút vốn và công nghệ, quản lý hiện đại từ nước
ngoài. Các nhà quản lý đang kỳ vọng cuộc "đại phẫu" này sẽ mở ra một triển vọng mới cho
việc nâng cao nội lực của DN trong nước.
NQ 34/NQ-TW đã "mở rộng diện DNNN cần CPH, kể cả một số TCty và doanh
nghiệp lớn trong các ngành như điện lực, luyện kim, hoá chất, phân bón, ximăng, xây
dựng, vận tải đường bộ, đường sông, hàng không, hàng hải, viễn thông, ngân hàng, bảo
hiểm...". Như vậy, đã mở rộng cả quy mô lên đến DN lớn và TCty, mở rộng cả ngành nghề
trước đây giữ độc quyền, hàng hoá bán ra thị trường nhiều hơn, có chất lượng hơn.
Trong 5 năm 2006-2010, sẽ chưa thực hiện cổ phần hóa hoàn toàn đối với những
tổng công ty có quy mô lớn, có vai trò quan trọng trong nền kinh tế.
Cụ thể, đối với những tổng công ty này, sẽ thực hiện cổ phần hóa hầu hết các
doanh nghiệp thành viên và chuyển các doanh nghiệp thành viên còn lại sang hoạt động
dưới hình thức công ty một chủ sở hữu là Nhà nước, đồng thời chuyển tổng công ty sang
hoạt động theo mô hình công ty mẹ – công ty con.
Những tổng công ty còn lại có thể tiến hành cổ phần hóa toàn tổng công ty, sau đó
hình thành cơ cấu công ty mẹ – công ty con hoặc chuyển tổng công ty sang hoạt động theo
mô hình công ty mẹ – công ty con, trong đó công ty mẹ không do Nhà nước nắm giữ 100%
vốn điều lệ.
Trong khi đó, những tổng công ty không giữ được vai trò tổng công ty Nhà nước,

căn cứ vào tiêu chí phân loại công ty Nhà nước chuyển các doanh nghiệp thành viên thành
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn
2 thành viên trở lên.
II. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở
VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA:
II.1 Kết quả đạt được:
Trên mười năm qua, những đổi mới về cơ chế, chính sách cổ phần hóa DNNN đã
và đang được triển khai và phát huy tác dụng, tiến độ cổ phần hóa DNNN từng bước được
đẩy mạnh.
Theo Bộ KHĐT, từ năm 1992 đến hết năm 2005, cả nước đã cổ phần hoá được
2.996 DNNN, trong đó riêng năm 2005 CPH được 724 DN. Khảo sát hơn 850 DN đã CPH
của Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển DN cho thấy, trong năm 2005 số vốn điều lệ tăng
bình quân tới 44%, doanh thu tăng 24%, lợi nhuận tăng 140%, thu nhập của người lao
động tăng 12%.
Theo số liệu khảo sát 559 doanh nghiệp cổ phần hóa của Viện nghiên cứu quản lý
kinh tế Trung ương cho tháy 87.53% số doanh nghiệp có kết quả hoạt động tài chính tốt
hơn hoặc tốt hơn rất nhiều so với trước cổ phần hóa. So sánh năm đầu cổ phần hóa với
năm cuối của mô hình doanh nghiệp nhà nước cho thấy lợi nhuận sau thuế tăng tới 48.8%
ngay sau khi cổ phần hóa. Ngay trong năm sau cổ phần hóa, năng suất lao động của các
doanh nghiệp đã tăng lên 26%, tiền lương bình quân tăng trên 20% và đầu tư tài sản cố
định tăng 23.1% so với khi còn là DNNN. Tốc độ tăng trưởng nói trên của 559 doanh
nghiệp tiếp tục được duy trì trong suốt quá trình hoạt động dưới mô hình công ty cổ phần.
Doanh thu tăng 13.4%/năm, lợi nhuận trước thuế đạt mức tăng trưởng 9.4%, lợi nhuận sau
thuế tăng 54.3%; năng suất lao động tăng 18.3%/năm; đầu tư tài sản cố định tăng 11.5%;
lương bình quân tăng 11.4%.
Nhìn chung, các DNNN đã giảm mạnh về số lượng, và cải thiện đáng kể về quy mô
vốn. Cơ cấu DNNN đã bắt đầu chuyển đổi theo hướng chỉ nắm giữ những ngành, lĩnh vực
then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đối với các sản phẩm và dịch vụ
chủ yếu. Đa số doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa đều có tình hình tài chính tốt hơn so với
trước khi chuyển đổi. Năng suất lao động, tiền lương, đầu tư tài sản cố định đều tăng đáng

kể.
Năm 2005, cả nước đã sắp xếp đổi mới được 933 doanh nghiệp nhà nước (DNNN),
trong đó cổ phần hoá (CPH) 693 DNNN, chiếm 77,2% số DN sắp xếp, giao bán 44 DNNN.
Năm 2005 đã có những DN quy mô vừa và lớn đã CPH, như: Cty khoan và dịch vụ dầu
khí; các nhà máy điện: Sông Hinh - Vĩnh Sơn, Thác Bà, Phả Lại; Cty giấy Tân Mai; Cty
vận tải xăng dầu đường thuỷ I...
Trong 1.557 DN đã CPH, các DN thuộc tỉnh chiếm 74%, các DN thuộc TCty 90 và
trực thuộc Bộ chiếm 20%. Chỉ có 6% thuộc TCty 91. Hầu hết các DN được CPH đều có
quy mô vừa và nhỏ, máy móc kỹ thuật lạc hâu, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn.
Chỉ rất ít DN có vốn lớn, sản xuất kinh doanh hiệu quả như Vina Milk với 1.500 tỉ đồng
vốn nhà nước, Mía đường Lam Sơn 92 tỉ đồng, Đường La Ngà 82 tỉ đồng. Chỉ 15%
DNNN đã CPH Nhà nước nắm được CP chi phối (trên 50%).
Kết quả nghiên cứu 500 DN sau CPH hoạt động trên 1 năm cho thấy: Doanh thu
tăng 43%, vốn điều lệ tăng từ 1,5 - 2 lần, nộp ngân sách tăng 16%, lợi nhuận tăng hơn
243%, thu nhập người lao động tăng 54%, cổ tức bình quân được chia 15,5%, số lao động
được sử dụng tăng 12%, phần vốn nhà nước có tại DNCP đã tăng thêm từ 10 - 50% nhờ cổ
tức được chia đầu tư trở lại. Vai trò của người lao động trong DN cũng được nâng lên, từ
chỗ làm chủ tập thể, nay được thêm quyền với tư cách là cổ đông, người lao động làm chủ
thực sự đối với DN trên tất cả các mặt từ xây dựng phương án sản xuất, phương án tích
luỹ, phân phối lợi nhuận, bầu và giám sát ban lãnh đạo DN... thực sự đã góp phần tạo ra
động lực quan trọng trong sự đi lên của DN.
Bằng các hình thức sáp nhập hợp nhất, giải thể, phá sản, giao bán, khoán, cho thuê
và CPH, nếu như đầu năm 1992 cả nước có hơn 12.000 DNNN, thì đến cuối năm 2003 chỉ
còn 4.296 DNNN, 18 TCty 91, 74 TCty 90. Trong đó CPH được 1.557 DN và bộ phận DN.
Từ 2001 - 2003 CPH được 979 DN. Riêng năm 2003, có 611 DN được CPH.
Theo nguồn tin khác từ Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, từ năm
2001 đến hết năm 2005, cả nước đã sắp xếp lại được 3.349 doanh nghiệp Nhà nước trong
tổng số 5.655 doanh nghiệp.
Trong đó cổ phần hóa 2.188 doanh nghiệp; giải thể 252 doanh nghiệp, sáp nhập
416 doanh nghiệp, giải thể 184 doanh nghiệp, chuyển thành công ty trách niệm hữu hạn

một thành viên 124 doanh nghiệp và các hình thức khác là 182 doanh nghiệp... Và tính
riêng trong năm 2005 đã sắp xếp được 588 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hoá 444 doanh
nghiệp. Đây là kết quả của sự nỗ lực từ việc cải cách chính sách, cơ chế của Nhà nước, sự
sáng tạo vươn lên của các doanh nghiệp trong môi trường kinh tế cởi mở và hội nhập hiện
nay.
Thông qua việc sắp xếp, chuyển đổi sở hữu, các doanh nghiệp nhỏ, thua lỗ đã giảm
mạnh; đồng thời phát triển các doanh nghiệp quy mô lớn cũng như mở rộng diện cổ phần
hoá, đồng thời đã hình thành các tổng công ty, doanh nghiệp đặc thù trong ngành bảo
hiểm, ngân hàng, dầu khí, bưu chính viễn thông... Các cơ quan chức năng cũng đang xây
dựng đề án thí điểm hình thành các tập đoàn như điện lực, công nghiệp tàu thuỷ, công
nghiệp xi măng, dệt may...
Công cuộc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đã và đang thực sự trở bước
chuyển mình quan trọng để sắp xếp lại, tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu
quả doanh nghiệp Nhà nước và bước đầu đã gắn với thực hiện bán cổ phần, niêm yết, đăng
ký giao dịch tại các trung tâm giao dịch chứng khoán Việt Nam.
Cũng theo Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, từ năm 2001 đến hết
năm 2005, cả nước đã sắp xếp lại được 3.349 doanh nghiệp nhà nước trong tổng số 5.655
doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa 2.188 doanh nghiệp, giải thể 252 doanh nghiệp, sáp
nhập và hợp nhất 416 doanh nghiệp, giải thể phá sản 184 doanh nghiệp, chuyển thành công
ty trách niệm hữu hạn một thành viên 124 doanh nghiệp và các hình thức khác là 182
doanh nghiệp.
Theo đánh giá, việc bước đầu cổ phần hóa một số doanh nghiệp quy mô lớn như
Công ty Khoan và Dịch vụ Dầu khí, các nhà máy điện Sông Hinh-Vĩnh Sơn, Thác Bà, Phả
Lại, đã thu hút vốn từ xã hội nhiều hơn, nhất là từ các nhà đầu tư chiến lược, tạo điều kiện
đổi mới công nghệ, thay đổi phương thức tổ chức quản lý, nâng cao hiệu quả hoạt động.
Bên cạnh đó, việc cổ phần hóa cũng đã làm cho thị trường chứng khoán ngày càng
sôi động. Năm 2005, đã có thêm 8 công ty được niêm yết trên thị trường chứng khoán với
tổng số vốn 508 tỷ đồng, nâng tổng số doanh nghiệp niêm yết lên 34, trong đó 29 đơn vị là
các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa.
Năm 2005, doanh nghiệp Nhà nước tiếp tục giữ vững vai trò nòng cót trong nền

kinh tế, đóng góp 40% GDP cả nước, với tổng doanh thu đạt 680.000 tỷ tăng 12% so với
năm 2004.
Việc CPH một số DN quy mô lớn, Nhà nước giữ cổ phần chi phối đã thu hút được
nhiều vốn từ xã hội, tạo điều kiện đổi mới công nghệ, thay đổi phương thức tổ chức quản
lý nâng cao hiệu quả hoạt động...
Có tới 87% số DN được khảo sát cho rằng, kết quả hoạt động tài chính của DN sau
CPH tốt hơn nhiều so với trước CPH.
Bà Nguyễn Thị Mai Thanh - Tổng Giám đốc Cty CP cơ điện lạnh (REE) - một
trong những DN CPH đầu tiên lên sàn chứng khoán - cho biết: "Khi bắt đầu CPH năm
1993, Cty chỉ có số vốn 8,5 tỉ đồng. Hiện nay, nguồn vốn của REE đã lên tới 225 tỉ. Lực
lượng lao động tăng gấp 3 lần. Thu nhập bình quân đạt hơn 2,2 triệu đồng/người/tháng.
Quan trọng hơn, thương hiệu REE đã dần trở thành một cái tên hấp dẫn, thu hút sự quan
tâm của nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước...".
Theo thống kê của Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp trung ương, sau
khi CPH, vốn điều lệ bình quân của các DN trong cả nước tăng 44%, doanh thu tăng
23,6%, lợi nhuận tăng 140%, hơn 90% số Cty CP đều làm ăn có lãi, nộp ngân sách bình
quân tăng 24,9%, cổ tức bình quân đạt hơn 17% năm...
Nhờ quá trình CPH, hơn12.411 tỉ đồng của các cá nhân tổ chức, ngoài xã hội đã
được đầu tư vào DN. Phần vốn nhà nước tại các DN CPH không bị giảm đi mà còn được
bảo toàn và tăng lên. CPH tạo cơ sở thúc đẩy quá trình ra đời, phát triển thị trường chứng
khoán VN. CPH mang lại cho các DN cơ chế quản lý năng động, hiệu quả (một điều tra
cho thấy các DN CPH bình quân giảm được 25% chi phí gián tiếp). Bên cạnh đó, CPH
cũng tạo những điều kiện vật chất và pháp lý để người lao động - cổ đông nâng cao vai trò
làm chủ.
Cổ phần hóa đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thu hút vốn đầu tư, lành mạnh
hóa tài chính doanh nghiệp, giúp hoạt động kinh doanh tốt hơn, các chỉ tiêu chủ yếu đều
tăng trưởng khả quan. Sau khi chuyển sang công ty cổ phần, hầu hết các doanh nghiệp đều
hoạt động có hiệu quả hơn; vốn điều lệ tăng từ 44% so với trước khi cổ phần hóa, doanh
thu tăng 23,6%, lợi nhuận tăng tới 139%, thu nhập người lao động tăng 11,8%, mức trả cổ
tức cho các cổ đông bình quân đạt 17%...

Đặc biệt một số doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa, vốn điều lệ đã tăng từ 7 đến 10
lần, thậm chí có trưởng hợp tăng tới 30 lần. Cụ thể như vốn điều lệ Công ty cổ phần Bảo
vệ thực vật An Giang tăng 7 lần, của Công ty cổ phần Cơ điện lạnh tăng 13 lần, Công ty cổ
phần Đại lý liên hiệp vận chuyển tăng tới 30 lần… Đây là những động lực cụ thể nhất cho
quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới. Ngoài ra, thông qua việc
thực hiện cổ phần hóa, đa dạng hóa sẽ thay đổi tận gốc phương thức quản lý trong các
doanh nghiệp nhà nước trước đây để áp dụng phương thức quản lý mới, tự chủ hơn, linh
hoạt và trách nhiệm hơn.
Tính đến cuối năm 2005, cả nước đã thực hiện cổ phần hóa được 3.107 doanh
nghiệp và đơn vị phụ thuộc của công ty nhà nước. Trong đó có 1.245 công ty được chuyển
đổi từ bộ, ngành Trung ương, 1.826 công ty được chuyển đổi từ các công ty thuộc UBND
cấp tỉnh.
Những kết quả trên đã khẳng định tính đúng đắn của Nghị quyết TW3 khóa 9. đặc
biệt sau khi có nghị quyết TW9 khoá 9, đã tạo được sự thống nhất cao trong tư tưởng nhận
thức của cán bộ, đảng viên, công nhân viên, nhân dân và được dư luận quốc tế đồng tình;
cho thấy đa dạng hoá sở hữu trong kinh tế, phát triển kinh tế nhiều thành phần đang là
động lực thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển và có khả năng cạnh tranh hội nhập.
Thông qua việc bán đấu giá lần đầu 720.000 cổ phần của Công ty Sữa Việt Nam
(Vinamilk), Nhà nước thu thêm được 39,6 tỷ đồng, bình quân tăng 55% so với mệnh giá;
Công ty Bảo hiểm TP.HCM bán đấu giá 434.000 cổ phần lần đầu thu thêm được 30 tỷ
đồng, tăng 223% so với mệnh giá. Đó là những ví dụ sinh động về kết quả cổ phần hoá
(CPH) các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) gần đây.
Trong năm 2005, Tp.HCM đã hoàn thành cổ phần hoá 55 doanh nghiệp, vượt 5
doanh nghiệp so với chỉ tiêu của Chính phủ. Thành phố cũng sắp xếp và chuyển đổi 19
doanh nghiệp sang công ty TNHH 1 thành viên, và thông qua đề án chuyển 17 Tổng Công
ty và công ty lớn sang hoạt động theo mô hình Công ty mẹ-công ty con. Như vậy, qua 5
năm thực hiện chương trình sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước, Tp.HCM đã sắp
xếp và chuyển đổi 285 doanh nghiệp, trong đó có 172 doanh nghiệp được cổ phần hóa, đi
đầu cả nước trong công tác đổi mới doanh nghiệp. Các doanh nghiệp sau cổ phần hóa đều
đạt hiệu quả rõ rệt trong sản xuất kinh doanh và thực hiện được các mục tiêu đề ra, tạo ra

nhiều loại hình sở hữu trong đó người lao động thực sự giữ quyền làm chủ.
II.2 Những tồn tại, vướng mắc:
Nhìn chung, công tác sắp xếp đổi mới DNNN vẫn bộc lộ nhiều yếu kém, việc sắp
xếp, đổi mới, nhất là CPH DNNN theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 chậm so với
mục tiêu đề ra. Trong khi việc sắp xếp lại các DNNN đạt 81% thì CPH DNNN chỉ đạt gần
63%. Sáu tháng đầu năm 2004 chỉ đạt 20%. Hơn nữa, CPH thực hiện hầu hết ở các DN
vừa và nhỏ, mới chỉ gần 6% số vốn có tại DNNN được CPH.
Tiến trình CPH hiện nay vẫn còn rất nhiều hạn chế, tồn tại cần khắc phục: Tốc độ chậm,
quy mô nhỏ, nhiều vướng mắc, lúng túng cả trong lý luận lẫn thực tiễn, quyền lợi của
người lao động chưa được đảm bảo, cả những tiêu cực trong việc biến vốn nhà nước thành
vốn của một nhóm người ở một số nơi...
II.2.1 Tư tưởng và nhận thức chưa được nhất quán trong các cấp, ngành và cơ sở
Nhiều cấp bộ Đảng mới dừng lại ở mức phổ biến nghị quyết, chưa tổ chức học tập nghiên
cứu sâu để đảng viên thấy hết yêu cầu cần thiết và lợi ích của việc CPH DNNN. Tâm lý
hoài nghi, lo lắng trong cán bộ công nhân viên rất phổ biến. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo
DNNN, các cấp chủ quản còn chần chừ do dự, sợ mất quyền, mất lợi ở doanh nghiệp.
II.2.2 Rào cản về chính sách:
Các văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định 64/2002/NĐ-CP chậm, còn bộc lộ nhiều khó
khăn cho DN như: Việc bán tối thiểu 30% số cổ phần còn lại ra ngoài DN qua các đơn vị
tài chính trung gian; việc xác định giá trị DN rất phức tạp, thủ tục rườm rà. Các chỉ thị,
thông tư và quy định của các cấp, các ngành thiếu thống nhất, nhiều chỗ không phù hợp
với Nghị định 64 của Chính phủ cũng đang là ách tắc.
Quy trình CPH còn rườm rà, phức tạp, cứng nhắc, chưa gắn được với cải cách hành chính
làm cho các DN, TCty thậm chí tỉnh, bộ cũng bị động.

×