Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Sự kiện và lễ hội, du lịch và truyền thống những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ trường hợp Tây Ban Nha và FIJI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.1 MB, 18 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>s ụ KIỆN VÀ LẺ HỘI, DU LỊCH </b>


<b>VA TRUYỀN THỐNG </b>



<b>NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM </b>


<b>CHO VIỆT NAM </b>



<b>TỪ TRƯỜNG HỢP TẨY BAN NHA VÀ FIJI</b>



<i><b>D avid Harrison*</b></i>


T

ôi xin chân thành cám ơn các nhà tổ chức hội thảo đã tạo điều kiện cho tơi có mặt tại dây. Tôi rất vinh hạnh được thay
mặt cho các đồng nghiệp ở Đại học South Paciíìc gửi lời chào trân trọng
tới toàn thể các quí vị đại biểu.


Bài báo cáo của tôi gồm bốn phần. Đầu tiên, tơi sẽ trình bày về lễ
hội và mối liên hệ của chúng đối với di sản và du lịch. Tiếp đến, tôi sẽ
nêu ví dụ về hai nỗ lực tương đối khác nhau nhàm tôn vinh và quáng bá
"di sản". Cuối cùng, tôi sẽ thử áp dụng một số bài học rút ra từ hai
nghiên cứu đó vào đề xuất của Việt Nam lên UNESCO để hội Gióng
của xã Phù Đơng (Gióng), huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội dược
công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.


<b>Giới thiêu</b>


Tôn giáo, du lịch và di sản có mối gắn kết rất lâu đời. Việc hành
hương đều rất phổ biến trong nhiều những tôn giáo lớn của thế giới (và
việc hành hưcmg này cũng dễ dàng gắn liền với các hoạt động thế tục)1.
Lề hội, dù mang tính chất tơn giáo hay tính chất khác thì đều đã có từ
lâu. Các Đại hội toàn Hy Lạp của người Hy Lạp cổ đại, đặc biệt các
Thế vận hội Olympic, là những ví dụ ban đầu về “các sự kiện nồi bật”,
và chúng kéo dài đến mãi tận thời kỳ La Mã. khi những trị giải trí



<b>* GS. TS. Trườne Ọuán lý Khách sạn và Du lịch, Khoa Kinh tế - Thương mại, Đại học </b>
<b>South Paciíìc.</b>


<b>1 Coleman, </b> s. <b>and Elsner, J. (1995) </b> <i><b>Pilgrimage: Past and Present in the World </b></i>
<i><b>Religions (Hành hương: Trong quá khứ và ngày nay’ trong các tôn g iá o cùa thế giới). </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

ngoạn mục ở những nơi như đấu trường La Mã được tạo ra cho cho
đông đao người dân thành Rom e1. Vào thời Trung cồ. ở khắp châu Âu,
"nhừng ngày của Thánh" (ví dụ. đc tương nhớ các vị thánh Cơ đốc
uiáo) đã từng được ký niệm tù' rất lâu. ngày càng theo chiều hướng thế
tục. Trên thực tế. Giáng sinh, hay lồ ký niệm ngày Chúa ra đời. ban
đầu dựa trên những lỗ hội từ thời tiền Thiên Chúa, đã bị trộn lẫn với
<i>nhiều đặc điểm "truyền thống” khác, và yếu tố truyền thấm* ve bên </i>
ngoài giờ đây thường bị nlũrna toan tính thương mại và cá nhừníi toan
tính khác bao phù.


Với sự phát triên cua ngành du lịch, tâm quan trọng cua các lỗ hội
cũng được cúng cố và một số lượng lư liệu đáng kể về chúng đã được
viết ra (Quinn. 2009). Một số người quáng há hay ùng hộ lễ hội coi lỗ
hội là phương tiện kỳ thuật dê cơ cấu lại các khu vực thành thị bị bo
quên, mang lại "sự phát triền” và thúc đấy sự phục hồi của các khu vực
đó; một số người khác chú ý đến những ý nghĩa phi kinh tế cua lễ hội. ví
dụ nlur lỗ hội có thể là dấu ấn cho bán sắc cá nhàn hay một nhóm, hay là
địa điểm nai các cá nhân riêng lò và những bèn liên quan bị cuốn vào
một cuộc đấu tranh giành quyền lực và anh hưởng2.


Một cách tổng quát hơn. khi du lịch trở nên ngày càng quan trọng,
nhiều hình thức hoạt động khác nhau, bao gồm cả những hoạt dộng liên
quan đến lề hội. được xếp dồng hạng thành những hoạt động có sức thu


hút. “Các sự kiện đặc biệt" bao gồm lề hội và nghi lề, “các sự kiện nôi
bật" và thậm chí "các sự kiện có qui mô lớn” ngày nay được gộp chung
vào phạm trù “du lịch sự kiện", tức là các sự kiện được lên kẻ hoạch
theo cách tiếp cận hội nhập đối với phát triển và tiếp thị” . H rn nữa.
phạm vi của những “hoạt động có sức thu hút” này, bao gồm các hoạt
động kỷ niệm văn hóa và chính trị cua nhà nước, nghệ thuật và giải trí.


<b>1 Casson, L. (1974) </b> <i><b>Travel in the Ancient World (Du lịch trong thế giới c ổ đại). </b></i>


<b>Baltimore: The John Hopkins University Press, tr. 76-82. 136-137.</b>


<b>2 Ọuinn, B. (2000) Festivals, Events and Tourism (Lễ hội, sự kiện và du lịch trong T. </b>


<b>Jamal và M. Robinson, chu biên. </b><i><b>The Saạe Hcindbook ofTourism Studies</b></i><b> (Sách tliani </b>
<b>kháo về nghiên cứu du lịch cua Sage). London. Sage, tr. 485-496.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

các sụ kiện thương mại và giáo dục. thê thao và trò liêu khiên, và thậm
chí cá các sự kiện cá nhàn (như dược nêu ở I lình 1). hây tiiừ lệ thuộc
vào cái được gọi nghê tô chức sự kiện. Ngành ntĩhề dó tạo ra cô nu việc
và thu nhập và là một nghề kinh doanh lớn.


Tại sao lại xay ra lất ca nlùrng điều này? Bơi vì khách du lịch
thích đến tham dự nhữnu sự kiện này và bởi vì người dân ờ các diêm
đèn. hay lì nhất một số nmrời tro nu dó. muôn thúc dây du lịch vì nhũng
lợi ích kinh tế mà các sự kiện có thê dem lại. Và điều này chăng phai là
lý do khiến chúng ta đều có mặt ở dâ\ sao? ít nhất, một lý do đổ tỉm chồ
đứng trong danh sách di san thế giới cua UNESCO - hay bất kỳ một
danh sách di sản nào - là dê nâng cao vị thế của một nơi chon hoặc một
hoạt động cụ thê. "Di san" thè hiện danh hiệu cao. và do đỏ, nỏ khiến
diêm đó có thêm lợi thế. Nhiều khách du lịch dồng nghĩa với nhiều thu


<i>nhập hơn. Và nếu việc thúc đây một le hội. hoặc một sự kiện nào đó. </i>
<i>cũng có thê cũng dẫn đốn việc bao tồn nó, thì lại cản lĩ tốt hơn.</i>


<b>Hình 1</b>


ức


<b>THI Đ Á U T H Ê T H A O</b>


- N ghiệp dư /chu yèn
nghiệp


- Q uan sáưtham dự


<b>GIẢI TRl</b>


- Thẻ th a o /T rò chơ i giải tri


<b>CÁC S Ự K I Ẹ N RIẼNG</b>


- Đ ám cư ỡ i
- T iệc


- C ác sự kiện xã hội


<b>(Niiuồn: Getz, 2008: 404)</b>


I lệ thông loại hình các sự kiện dược tô ch


<b>KINH DOANH VÀ </b>


<b>T H Ư Ơ N G MẠI</b>


- Hội họp


- C ác trién lãm tiêu dùng
và th ư ơ n g mại


- Hội chợ


<b>S ự KIẸN GIÁO </b>
<b>D Ụ C -K H O A HỌC</b>


- Hội thảo
- S e m in ar


- C hữ a bệnh tại chỗ


<b>S Ự K IẸ N VÃN HÓA</b>


- Lễ hội
- Carnival
- Lễ tưởng nhớ
- Sự kiện tôn giáo


<b>S ự KIẸN CHỈNH TRỊ VÀ </b>
<b>NHÀ NƯỚC</b>


- Gặp gỡ thượng đỉnh
- Các sự kiện của hồng gia
- Sự kiện chính trị



- Viếng thăm của nguyên thủ


<b>S ự KIẸN NGHẸ T H U Ạ T -G IÀ I </b>
<b>TRÍ</b>


- Hịa nhạc


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Tuy vậy, có một điều cần phái thận trọng. Trong khi tất cả những
điều này có thể đúng, vẫn cịn có vơ vàn khó khăn bất ngờ trên con
đường đạt được danh hiệu di sản và những bài học kinh nghiệm từ nơi
khác. Công việc mà chúng ta đang thực hiện không phải là vấn đề kỹ
thuật đơn thuần. Như tơi đã trình bày: Những tranh luận và bất đồng <b>ý </b>


kiến về “di sán” diễn ra trong một kịch bàn không ngừng biến đổi, nơi
mà “các thành tựu đạt được’' của một tầng lớp, một tộc người, một
quốc gia - dân tộc, một thời đại. luôn luôn phải được thỏa thuận và
đánh giá lại bởi một tầng lớp/nhóm/quốc gia/và thời đại kế tiếp. Lịch
sử sẽ được điều chỉnh, trình bày và trình bày lại đê phù hợp với nhu
cầu và đòi hỏi của hiện tại. Người man rợ luôn không được coi trọng,
nhưng những người man rợ của ngày hôm nay lại là người có ảnh
hưởng tới ngày m ai1.


<b>Lễ hội Alarde ở Fuentarribia (Tây Ban Nha)</b>


Fuentarribia (Basque, Hondarribia) là một thị trấn của tộc người
Baxco nổi tiếng ở miền Bẳc Tây Ban Nha, giáp biên giới Pháp. Giống
như thành phố Irun lân cận, tại đây, hàng năm đều diễn ra một lễ hội với
hai mươi cuộc diễu hành khác nhau đại diện cho những vùng lân cận và
các nhóm nghề nghiệp, kỷ niệm chiến thắng lẫy lừng đánh bại người


Pháp vào năm 16382.


<b>1 Haưison, D. (2005a) Contested narratives in the Domain o f World Heritage (Những </b>


<b>câu chuyện bị tranh cẵi trong lĩnh vực di sàn thế giới) trong D. Harrison và M. </b>
<b>Hitchcock, chú biên, </b> <i><b>The Poliiìcs o f w orld Herituge: Negotiating Tourism and </b></i>
<i><b>Conservation (Chính trị của di sản thế giới: Thóa thuận giữa du lịch và bào ton). </b></i>


<b>Clevedon, Channel View, tr. 9</b>


<b>2 Greenvvood, D. (1977) Culture by the Pound: An Anthropological Perspective on </b>


<b>Tourism as Cultural Commoditization (Văn hóa như thế cùng: Quan điểm nhân chùng </b>
<b>học về du lịch như một sự hàng hóa hóa văn hóa) trong V. Smith, chù biên. </b><i><b>H osts and </b></i>
<i><b>Guests: The Anthropoiogy ofTourism (Chú và khách: Nhân học du lịch).</b></i><b> Philađelpliia, </b>
<b>University o f Pennsylvania Press, tr. 133.</b>


<b>- Bray, </b> z. <b>(2002) Boundaries and Identities in Bidasoa-Txingudi, on the </b>
<b>Franco-Spanish Frontier (Ranh giới và bản sắc ở Bidasoa-Txingudi, trên biên giới </b>
<b>Pháp - Tây Ban Nha). Luận án tiến sỹ nộp tại Viện Đại học châu Âu (European </b>
<b>University Institute): Florence, tr. 115-132.</b>


<b>- Bullen, M. (2003) </b><i><b>Basque Gender Studies (Nghiên cứu về giới ờ Basque).</b></i><b> Reno: </b>
<b>Trung tâm Nghiên cứu về Basque, Đại học Nevada, tr. 252-270.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>Lễ hội Alarde của Fuentarribia là đối tượng của những nghiên </i>
cứu nối tiếng và sớm nhất về việc thương mại hóa trong du lịch. Theo
mơ tả của Greenvvood1, cùng với việc khuyến khích du lịch từ phía các
quan chức phụ trách du lịch, chính quyền thành phố đã ban hành sắc
lệnh rằng lễ hội Alarde cần dược mờ rộng ra cho khách du lịch và nó


phải được trình diễn hai lần một ngày. Kết quả, như Greenvvood nói. là
những người dân Fuentarribia không muốn tham gia vào lễ hội đó nữa,
đến mức người ta thậm chí xem xét việc trả tiền để họ tham gia. Theo
Greenvvood, "tác động do hành động của hội đồng thật là gây choáng
váng. Vì những động cơ tiền bạc dơn thuần, lễ hội Alarde đã được biến
<i>thành cuộc trình diễn mở rộng cho người ngoài - những người mà vì </i>
<i>tầm quan trọng kinh tế của họ đối với thị trấn, họ có quyền được xem </i>
lễ hội...


... Trong vòng hai năm, một nghi lễ cuốn hút và sinh động đã trớ
thành một trách nhiệm bị người ta lảng tránh.... Nghi lễ biến thành buổi
biểu diễn vì tiền và ý nghĩa của nó hồn tồn mất đi"2 (ơng nhấn mạnh).


Sau đó, ơng bo sung: Người dân Puentarribia chỉ thế hiện sự bối
rối và lo lắng của mình về lễ hội Alarde; họ biết rằng có điều gì đó
khơng ốn nhưng lại khơng biết chính xác là điều gì khơng ổn và cần làm
gi đối với điều đó. Đổi với họ, lễ hội Alarde đang chết dần và họ khơng
có khả năng đảo ngược q trinh. Chính quyền thành phố chỉ mất có vài
phút đê biên văn hóa của họ thành một buôi trình diễn cơng cộng;
nhưng cùng với việc làm đó, một nghi lễ 350 tuổi đã bị mất đi3.


I lơn thế nữa, lễ hội Alarde đã trở thành “một sự kiện chính trị
quan trọng” gắn liền với những dụng độ với cảnh sát4.


Bài viết của Greenwood ra đời năm 1977, trong vòng hơn một
thập kỷ, đã xác lập một hướng tiếp cận học thuật chính thống đối với
ngành du lịch, theo đó, ngành du lịch (bị cho là) đã giải thiêng văn hóa,
biến văn hóa thành một cuộc trưng bày, và hoàn toàn đi ngược lại với ý
nguyện của người dân địa phương.



<b>1 Greenvvood, D. (1977), bđd, tr. 134-136.</b>


<b>: Greemvood, D. (1977), bđd, tr. 135.</b>
<b>’ Greenvvood, D. (1977), bđd. tr. 137.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Mặc dù vậy, đàv không phải là phàn kết cua câu chuyén. Câu
chuyện có hai doạn kết; một đoạn kết trong số đó được ít biết iến. và
đoạn kết còn lại, theo tôi được biết, dã gần như hoàn toàn bị giới học
thuật lờ đi. Doạn kết thứ nhất liên quan đến bản thân Greenvvood. Trong
quá trình chuẩn bị cho tập thứ 2 những bài viết của Smith. ông trờ về
Fuentarribia và chinh sửa lại phân tích cùa mình vê lễ hội Alard;. Thừa
nhận ràng bài viết ra đời năm 1977 của mình được trình bày “gióng như
là một sự biểu lộ cảm xúc pha trộn giữa giận giữ và lo lắng"1, ôig ngạc
nhiên nhận thấy ràng lề hội Alarde vẫn tiếp tục được diễn ra, dù chỉ như
một buối trình diễn cho cơng chúng. Thêm vào đó, nó thấm đầm "ý
nghĩa chính trị đương thời, là một phần cua cuộc tranh giành quyên lực
chính trị khu vực ở Tây Ban Nha . Tóm lại, ý nghĩa của lễ hội Alarde
đã bị thay đổi. và (theo như một nhà bình luận sau này) các hcạt động
kỷ niệm ngày càng thế hiện cuộc tranh luận xung quanh vấn đề bản sắc
người Baxco3.


<i>Điếm lý thú là, mặc dù ở đâu đó có những ý kiến phê phin quan </i>
điểm ban đầu của ông về lễ hội Alarde , Grcenvvood chưa bao ịiờ phân
<i>tích kỹ hơn về lễ hội Alarde cùa Puentarribia (hoặc phan ứng tnh cám </i>
ban đầu và rất thực cùa mình). Người ta chỉ có thế tự hỏi là ơngđã phản
<i>ứng như thế nào đối với những thay dôi cơ bản sau này về cách mà lễ </i>
hội được diễn ra. Nhũng diều này, một lần nữa. cho thấy mộ1 sự thật
hoàn toàn khác về tồn bộ bức tranh.


Điều mà Greemvood khơng làm rõ. kê cả ơ bài viêt vào nim 1977


và bài viết có chỉnh sửa vào năm 1989, là trong khi cá nam giá và phụ
nữ đều tham gia vào lễ hội Alarde thì những người trong đám dều hành
<i>lại chu yếu là nam giới, trong vai những người lính, và chỉ có rú ít phụ</i>


<b>1 Greenvvood, D. (1989) Culture by the Pound: An Anthropological Persiective on </b>


<b>Tourism as Cultural CommoditÌ7.ation (Văn hóa như thế cùng: Quan điểmnhân học </b>


<b>về du lịch như một sự hàng hóa hóa văn hóa) trong V. Smith, chủ biên, </b><i><b>ỉo sts and </b></i>
<i><b>Guests: The Anthropoỉogy o/Tourism (Chu và khách: Nhãn học du lịch).</b></i><b> Phladelphia, </b>
<b>Universitv o f Pennsylvania Press, tr. 181.</b>


<b>J Greemvood, D. (1989), bđd, tr. 181.</b>


<b>Young, troníí Soííeld. T. (2003) </b> <i><b>Empcnverment for Sustainable Tovrism </b></i>
<i><b>Development (Trau quyền đẽ củ một sự phát triên du lịch bén vững.</b></i><b> Oxĩord: </b>
<b>Elsevievv Science Ltd. tr. 19.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

nữ đi cùng họ trong vai hầu gái. Chính là tnrờng họp này, rõ ràng đã
được thánh hóa theo thời gian, đến năm 1993. bị một bộ phận người
Baxco ủng hộ thuyết nam nữ bình quyền ờ Fuentarribia chống đối lại,
khởi đầu cho một cuộc tranh cãi phức tạp và kéo dài1. Không còn thỏa
mãn với vai trò hầu gái, những người phụ nữ muốn tham gia với tư cách
là thành viên của quân đội. Và khi đó, điều rắc rối đâ xảy ra. Họ bị buộc
tội là đã đi quá xa truyền thống, xuyên tạc lịch sử và thiếu tôn trọng tổ
tiên2, và người ta đã phải mở một phiên tòa mở rộng với nhiều tranh cãi.
Cuối cùng, vào năm 1997, những người phụ nữ đã giành được quyền
được diễu binh với nam giới. Tuy nhiên, mãi đến tận năm 2003 mới có
cuộc diễu binh nam nữ đầu tiên được bắt đầu vào buổi sáng sớm, sớm
hon thời gian “hành lễ truyền thống của lễ hội Alarde, và diễu hành


dưới sự hảo vệ của cảnh sát. Cuộc diễu hành tiếp tục gặp phải sự phản
đối công khai rộng rãi, gồm cả bị lăng mạ và người ta cịn mở ơ đen để
ngăn không cho khách tham dự nhìn thấy những người phụ nữ khi họ
diễu hành qua. Trên thực tế, vào cuối năm 2009, những người phụ nữ
tham gia diễu hành và người ủng hộ họ đã bị tấn công và cô lập khi họ
cố gắng tham gia các hoạt động kỷ niệm (Fuchs, 2009).


Ngoài việc phát triển thái độ hoài nghi dối với những lời cơng bố
chính thức có tính nhân học, chúng ta có thể học hỏi được gì từ nghiên
círu này? Đó là


]. Những gì chúng ta hiểu về lễ hội và sự kiện được xác định một
cách chủ quan và được đóng khung trong thời gian và không gian;


<i>2. Những ỷ nghĩa mà người tham gia ghi nhận có vẻ là khác biệt </i>
qua thời gian và không gian;


3. Lễ hội có thể là nơi xuất phát của những tranh cãi thù địch
không ngừng và là nơi đấu tranh quyền lực giữa những bên liên quan,
điều mà ít nhất cũng phản ánh một phần điều kiện và tình hình chính trị
bên ngồi.


<i>4. Những gì mà người cầm quyền muốn có thể khơng được phản </i>
ánh trong hành động của những bên liên quan.


<b>1 Bray, </b>z <b>(2002), tlđd, tr. 115-132.</b>
<b>- Bulllen và Egido, 2004.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<b>“Di sản" Levuka, Fiji</b>



Trong khi lề hội Alarde ở Fuentarribia là một ví dụ về một di sản
phi vật thể “truyền thống” cho đến tận bây giờ vẫn đang tiếp tục thay
đổi và gây tranh cãi, thành phố nhỏ Luvuka. Fiji (rõ ràng) là một ví dụ
về di sản phi vật thể dưới hình thức địa danh.


Như đã được mô tả chi tiết trong các bài viết khác (Harrison, 2004
và 2005b), Levuka nằm trên hòn đảo nhỏ Ovalau. ở Fiji. Ban đầu. ơ đây
chỉ có những người bị “sóng đánh dạt vào bờ biển” (beachcombers) từ
châu Âu, chủ yếu là New South Wales, New Zealand và Bắc Mỹ. Năm
1874, khi người Anh chiếm Levuka làm thuộc địa, họ biến nó thành thủ
phủ đâu tiên của mình và trong vịng một vài năm sau đó nó dã phát triên
rất thịnh vượng, lấy làm kiêu hãnh vì có tờ báo Fiji đầu tiên, nhiều khách
sạn, nhà nghỉ Masonic, trường học, nhà thờ, một ngân hàng và rất nhiều
cửa hiệu. Tuy nhiên, bất chấp những nỗ lực nhằm cải tạo cơ sở hạ tầng, ở
đây khơng có điều kiện để mở mang và kết quả là năm 1882, thủ phú bị
chuyển tới Suva ở Viti Levu. Từ đó, ngoại trừ việc mở thêm một nhà
máy chế biến cá, Levuka khơng có thay đổi đáng chú ý nào. Thành phơ
khơng có lực lượng lao động lành nghề, khơng có nền tảng kinh tế vũng
vàng, thuế thu nhập không đủ để duy trì cơ sở hạ tầng hiện có, cịn để tài
trợ cho công việc bảo tồn và trùng tu thì phải cần hơn thế nhiều. Vì the,
nơi đây là một di tích mê hoặc lịng người của một thời kỳ đã qua, trong
khi người dân bản xứ kiên định tìm kiếm nguồn tài trợ từ các nơi khác.


Mãi đến những năm 1970, một vài cư dân bản xứ (chủ yếu là
những người có nguồn gốc châu Âu) và ngành công nghiệp du lịch,
đáng chú ý là các nhà tư vấn du lịch và Hiệp hội Du dịch châu Á Thái
Bình Dương (PATA) mới bắt đầu nghiêm túc xem xét thành phố này
dưới góc độ của một điểm đến du lịch hấp dẫn. Người ta cảm thấy rằng,
với tư cách là “chiếc nôi của Fiji hiện đại”, Levuka có thể hấp dẫn được
du khách quốc tế và chỉ ra cho người dân thấy thành phố được đánh giá


cao. Thành phố có khả năng để tập trung sự chú ý của tất cả các nhóm
cộng đồng khác nhau trên khu vực đảo Fiji vào một bản sắc dân tộc
thống nhất, bàng cách đó nhấn mạnh đến di sản chung của họ và thúc
đẩy ý thức và tinh thần dân tộc1.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Năm 1987, chính phủ đưa thị trấn Luveka vào danh sách Thành
phố di sản quốc gia (National Heritage Town) và đồng thời đặt tên nó là
Thành phố lịch sử (Historic Town) đầu tiên của F iji\ Trong những năm
tiếp theo, một loạt các cơ quan chính quyền và các nhóm cộng đồng
hoạt động đơn lẻ ở Levuka tiếp tục thúc đẩy việc bảo tồn thành phố, bỏ
qua lời cảnh báo từ các nhà tư vấn bên ngoài, gây áp lực với chính
quvền Fiji nhàm tìm cách đưa Levuka vào danh sách Địa danh Di sản
Thế giới của UNESCO2. Để thực hiện mục đích này, chính quyền địa
phương nhận được sự giúp đỡ rất nhiều từ các viên chức UNESCO,
nhừng người nóng lòng hướng đến các vùng kém phát triển, đặc biệt là
các nước đảo Thái Bình Dương, nơi có rất ít đại diện trong Danh sách
Di sản Thế giới3. Kết quả của tất cả những nồ lực đó là vào năm 1999,
Levuka và Ovalau (cả thành phố và đảo), cùng với ba địa danh khác
(Sigatoka Sand Dunes, Sovi Basin và Khu bảo tồn Kỳ giơng có mào
Yaduataba) được xếp vào Danh sách đề cử của UNESCO.


Từ khi những địa danh dó được đưa vào Danh sách đề cử, có rất ít
bước tiến triển trong việc xây dựng các điều kiện hành chính và pháp lý
đế đạt được danh hiệu Di sản Thế giới, hoặc để cho thấy nhận thức của
người dân địa phương về những tiêu chuẩn đánh giá đó được nâng lên
nhiều. Điều này một phần được giải thích bởi thực tế rằng từ khi được
công nhận vào danh sách đề cử, Fiji trải qua những bất ổn chính trị
nghiêm trọng với đảo chính vào năm 2000 và 2006. Và nắm quyền tại
Fiji từ tháng 4-2009 đến nay là một chính phủ quân đội trái hiến pháp
không qua bầu cử. Theo tuyên bo của chính phủ hiện thời, các cuộc


tuyển cử sẽ không được tiến hành cho tới năm 2014, do vậy, khơng có
vẻ là tình trạng chậm trễ này sẽ nhanh chóng được cải thiện.


Tuy nhiên, cũng còn những yếu tố khác đưa lại những bài học bổ
ích đối với bất cứ ai đang nghĩ đến chuyện nhận được danh hiệu di sản
thế giới:


<b>1 Fisher, D. (2000) The Socio-economic Consequences o f Tourism in Levuka, Fiji </b>


<b>(Những hệ quả kinh tế - xã hội của du lịch tại Levuka, Fiji). Luận án Tiến sỹ, Đại học </b>
<b>Lincoln: Christchurch.</b>


<b>2 Harrison, D. (2005b) Levuka, Fiji: Contested Heritage? [Levuka, Fiji: Di sản bị </b>


<b>tranh cãi] trong D. Harrison và M. Hitchcock, chù biên, </b> <i><b>The Politics o f w orld </b></i>
<i><b>Herilage: Negotiating Tourism and Conservation (Chính trị của di sàn thế giới: Thoa </b></i>
<i><b>thuận giữa du lịch và báo ton).</b></i><b> Clevedon, Channel View, tr. 74.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

1. Fiji không phải là một xã hội thuần nhất. Ngược lại, đó là n ọt
xã hội đa tộc, trong dỏ các nhóm sắc tộc khác nhau “trộn lẫn nhưng
khơng kết hợp” 1.


<i>2. Levuka thì rõ ràng và dễ nhận thấy là một thành phố châu Ấu, </i>
cả về kiến trúc và thành phần dân tộc. Như Fisher nhận xét, người Fiji
bản địa và cư dân gốc châu Âu có những nhận thức về “di sản” khác
nhau rõ rệt: đổi với người Fiji bản xứ “các cơng trình kiến trúc và đồ tạo
tác có ít giá trị hơn so với đất đai”. Trong khi đó, đổi với người châu Âu,
“cả người đang sống tại Fiji và cả du khách,... các cơng trình kiến trúc
là điều căn bản, khơng có nó, ý nghĩa trở nên khó hiểu, mơ hồ”2.



3. Quan điểm của người dân thành phố Levuka và khả nãng bảo
tồn nó có xu hướng đi theo nhóm sắc tộc. Đối với người Fiji bản xứ,
<i>thành phố đó phi Fiji, đơi khi cịn bị coi là “một xã hội con lai”. Những </i>
người gốc Âu và mang một phần gốc châu Âu (“những người khác”) có
<i>xu hướng đề cao công việc bào tồn thành phố, với điều kiện họ nhận </i>
được sự hồ trợ về tài chính đú để đáp ứng các chi phí tăng thêm mà việc
bảo tồn địi hỏi. Trong khi đó, những chù hiệu người Trung Quốc và Ân
Độ, tuy khơng ác cảm gì với việc bảo tồn, thì coi trọng hơn số lượng du
khách tăng thêm mà họ được khuyến khích tin rằng danh hiệu di sản thế
giới có thê dưa lại.


4.

về phía chính phủ Fiji và UNESCO, đưa cả thành phố tự trị


Levuka và đảo Ovalau thành một đơn vị trong Danh sách đề cử là né
<i>tránh một cách có chủ đích vấn đề di sản của ai sẽ được bảo tồn.</i>


Cho đến thời điểm này, tôi đã tập trung vào những vấn đề xuất
hiện từ hai trường hợp điển cứu khác biệt, một lễ hội ở Tây Ban Nha và
Fiji và sơ bộ vạch ra điều mà tôi tin là cơ sở của hội Gióng Phù Đổng.
Trước hết, từ những thảo luận về Alarđe ở Fuentarribia, chúng ta nhận
thấy rằng ý nghĩa cá nhân và tập thể của lễ hội là hết sức mang tính chủ
quan, được đóng khung (và ihay đổi theo) thời gian và không gian, và
rằng lễ hội có thể là địa điểm cho những tranh cãi thù địch liên tuc và
cạnh tranh quyền lực giữa các bên liên quan, phản ánh những điều kiện


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<i>chính trị bên ngồi và những điều kiện khác nữa. Chúng ta cũng nhận </i>
<i>thấy rằng điều các cấp chinh quyền muốn có thể khơng dược phản ánh </i>
trong hành vi của những bên liên quan khác!


Những bài học tương tự cũng được rút ra từ trường hợp Levuka.
Giống như Fuentarribia. nhưng còn hơn thế, Fiji không phải là một xã


hội đồng nhất, và có những quan niệm khác nhau về “di sản”. Sự ủng hộ
việc đưa Levuka vào Danh sách Di sản Thế giới chắc chắn là không
<i>mang tính phố quát, và trên thực tế, giá trị của chính quyền tự trị </i>
Levuka đối với "di sản” của Fiji cũng bị tranh cãi.


Thứ hai, trong Công ước Bảo vệ Di sản Văn hóa Phi vật thể năm
2003, chính quyền và các cộng dồng được trao những trách nhiệm rõ
ràng (đặc biệt trong Điều 12 tới 1 5) báo vệ di sản phi vật thế của họ.
Trong trường hợp Fiji, phần lớn những người đại diện chính quyền và
người dân đều không ý thức về những trách nhiệm này, Và rõ ràng, đó
vẫn cịn là một câu hỏi mang tính thực nghiệm về việc những người dân
ở nước khác biết gì. hav ủng hộ như thế nào những nguyện vọng của
chính phủ họ trong việc nỗ lực đưa các di sản văn hóa vật thê hay phi
vật thể vào Danh sách Di sản Thế giới của UNESCO.


<b>Hội Gióng xã Phù Đổng</b>


Cấu trúc cơ bản của câu chuyện kể vẫn dược giới thiệu rộng rãi.
Lễ hội được tồ chức để tưởng nhớ Thánh Gióng, một người anh
hùng huyền thoại đã chiến đấu chống giặc ngoại xâm phương Bắc...


.... Truyền thuyết kể rằng, ngày xửa ngày xưa có một người phụ
nữ nghèo ở làng Gióng đi thăm ruộng và nhìn thấy một dấu chân rất lớn.
Tị mò, bà ướm thử chân minh vào dấu chân đó. Chẳng bao lâu sau bà
có thai và sinh ra một người con trai đặt tên là Gióng. Đã 3 tuổi mà cậu
bé vẫn không biết nói biết cười. Thế rồi khi đất nước bị xâm lược, cậu
bé bỗng nhiên cất tiếng và yêu cầu nhà vua ban cho một con ngựa sắt,
một áo giáp sắt và một cái roi sắt để đi đánh giặc ngoại xâm. Cậu bé lớn
nhanh như thổi...



</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

... Lễ hội này được xem là một chứng cứ rõ ràng về tinh thần bất
khuất của dân tộc Việt Nam chiến đấu chống lại kẻ xâm lược ngoại
bang. Diễn biến của lễ hội thuật lại trận chiến đấu của Thánh Gióng, khi
qn lính của ơng tấn công chống lại những kẻ xâm lược, do quần
chúng của ba làng ở Phù Đổng tham gia diễn hội trận1.


Khơng có gì ngạc nhiên, cách diễn giải câu chuyện vừa nêu là
cách diễn giải chính thức của chính phủ vì nó nằm trên website của họ.
Tuy nhiên, dựa vào vốn tri thức ngày nay (Trần Quốc Vượng, 1995), rõ
ràng huyền thoại đó, như được mô tả ở trên, là sản phấm của nhiều biến
đổi xảy ra trong quá trình kể đi kế lại trong vòng hơn 900 năm. Phản
<i>ánh nhiều thế kỷ của lịch sử Việt Nam, một thần linh của thuyết linh vật, </i>
gắn liền với đá và cây, được tích hợp vào Phật giáo, được nhân tính hóa
thơng qua sự gẳn kết với một người đấu tranh ẩn mặt, hay một nhà sư,
sau đó được phát triển cao hơn với sự thêm thắt của íblklore Chăm và


<i>Indra, một vị thần Ấn Độ, được kết hợp với các huyền thoại khác, và </i>


(như được phản ánh trong thời gian lễ hội), gắn với vịng đời nơng
nghiệp và nhu cầu cần mưa hàng năm. Giống như cố GS. Trần Quốc
Vượng đã tổng kết: Thần Gióng là một nhân vật trong thần thoại dân
gian được hình thành từ rất lâu trước thế kỷ XIV và XV,.... một nhân
vật với nhiều hiện thân (thần cây, thần đá, giông tố, sấm chớp...), dần
dần được tập họp lại, cho đến thế kỷ XI, ngài trở thành Thiên Vương
Đại thánh, đó là Ngọc Hồng hay Indra, và sau đ ó .... Vào thế kỷ X V ...
ngài có được một hình hài hồn tồn mang tính tổng họp - một cậu bé 3
tuổi nhờ ăn cơm mà lớn nhanh như thổi thành một vị Thánh và đánh
thắng giặc ngoại xâm rồi bay về trời .


Cố GS. Vượng cũng chủ giải rằng: Hội Gióng truyền thống và các


nghi lễ nông nghiệp cầu mưa và thờ mặt trời, trước thay đổi của thời
gian lịch sử, đã trở thành đức tin vào các vị anh hùng chống giặc và là
dịp để hát lên những bản anh hùng ca và trình diễn lại những hình ảnh
sử thi. Ngày nay, huyền thoại về các anh hùng ván hóa đã đi vào tiềm


<b>1 truy cập ngày I -9.</b>
<b>2 Trần Quốc Vượng (1995). The Legend o f Ong Dong from the Text to the Fieid </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

thức nhưng cuộc chiến cứa người anh hùng chống giặc ngoại xâm vẫn
còn lại trong ý thức. Ngày nay, các lễ ký niệm nông nghiệp đã đi vào
tiềm thức, và các nghi lễ thể hiện hình tượng thiên anh hùng ca như hội
Gióng đang làm nên một phần cùa ý thức tập thể cùa người Việt N a m 1.


<i>r</i>


✓ ^ 1 Ạ I •> • Ạ . I • /V


<b>Câu hỏi xuât hiện</b>


Một số những bài học từ trường hợp Fiji có rất nhiều điểm chung
với những gì xuất hiện từ Irường hợp của Tây Ban Nha. Khi đó, vấn đề
là, liệu những bài học này có điểm gì thích hợp với mong muốn hiện tại
là trình hội Gióng làng Phù Đống, huyện Gia Lâm, Hà Nội vào Danh
sách Đe cử Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.


Những thảo luận của tôi về hội Gióng mang tính chất suy đốn,
mặc dù bi tống duyệt mà những người tham dự hội thảo được ưu tiên
chứng kiến quả là rất ấn tượng, cá ở góc độ hàng trăm người dân địa
phương thuộc mọi độ tuổi tham gia vào lễ rước, và cả ớ góc độ hàng
nghìn người xem, tất cá đều có vè thực sự bị cuốn hút vào quá trình lề


hội. Họ là những chứng cứ rõ ràng cho thấy tầm quan trọng của lỗ hội,
một trong những lễ hội lớn nhất ớ miền Bắc Việt Nam. Diều đó được
thể hiện ở đây rỗ hơn rất nhiều so với những video clip, những cành duy
nhất tôi được chúng kiến lúc trước. Dựa vào trái nghiệm ngắn ngủi này
và nghiên cứu thứ cấp, một số câu hỏi xuất hiện.


<b>1. Hội Gióng có ý nghĩa gì đối vói những chủ nhân của lễ hội?</b>


<i>Từ những cuộc phỏng vấn ngẫu nhiên mà tôi thực hiện tại lễ hội. </i>
có vẻ như những chủ nhân của lễ hội thực sự tin tưởng vào tính chính
xác lịch sử của các sự kiện được mô tả trong truyền thuyết. Quan điềm
này càng được củng cố hơn khi tôi đi thăm đền Sóc ở huyện Sóc Sơn,
Hà Nội và chứng kiến cảnh người ta đốt vàng mã để dâng lên không
chỉ Thánh Gióng mà cả mẹ ngài và các thành viên trong quân đội của
ngài. Một minh chứng như vậy cho thấy rằng, bất kể hệ tư tưởng chính
thống của Việt Nam, cịn có những niềm tin liên quan đến một thế giới
thần thánh, tổ tiên và ma quỷ rất khác biệt mà khi dâng lễ một cách
thích hợp, người ta có thể mời gọi những thần thánh, tổ tiên ma quỷ


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

này về để tác động lên đời sống thường ngày của những người sùng
đạo. Tuy nhiên, rõ ràng là cần phải nghiên cứu sâu hơn về ý nghĩa của
lễ hội đối với người tham gia và người quan sát, đặc biệt là ở bốn thôn
của làng Phù Đổng.


Cũng từ bằng chứng đó, có lẽ người ta phải tự hỏi, lễ hội và việc
sùng bái Thánh Gióng quan trọng như thế nào đổi với những người Việt
<i>Nam khác. Rõ ràng lễ hội này đã trở nên mang tầm quan trọng quốc gia, </i>
ở mức độ là Thánh Gióng ngày càng được coi không chi là vị thần hộ
<i>mệnh cho những người nơng dân mà cịn là vị thần hộ mệnh cho nhũng </i>
người đi xe máy, ô tô, bao gồm thành viên của Câu lạc bộ mô tô thể thao


Hà Nội, như được chỉ ra trong bài trình bày của Phạm Nam Thanh tại
hội thảo1.


2. Ai là người cầm trịch trong việc đề xuất rằng hội Gióng cần
phải được đưa vào danh sách đề cử Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện


của nhân loại của UNESCO? Những chứng cứ hiện thấy cho thấy dây
<i>là sáng kiến từ trên xuống của chính p h ủ , nhưng tại sao chính quyền </i>
lại muốn như vậy thì chưa rõ, đặc biệt là (mới đầu) có vẻ như hệ thống
niềm tin của lễ hội rất mâu thuẫn với hệ tư tưởng chính trị cùa chính lễ
hội đó. Sự xuất hiện trờ lại của các vị thánh thần cố đại, một anh hùng
dân gian, mẹ người anh hùng đó, những nhân vật khác trong huyền
thoại, và những ông đồng bà cốt liên quan, khi mới liếc qua, không
phải là những yếu tố di sản văn hóa phi vật thể mà bất cứ chính quyền
cộng sản nào muốn bảo tồn! Ở điểm này, có lễ chúng ta phải suy đốn
rằng, với trải nghiệm tập thể đầy đau đớn về cuộc chiến với Mỹ giờ đã
khơng cịn rõ rệt như vậy trong thế hệ trẻ, người ta cần có những con
đường mới (và những biểu tượng mới) hướng tới bản sắc tập thể. Kết
quả xa hơn của việc hội Gióng được đưa vào Danh sách Di sản Văn
hóa phi vật thể của nhân loại có thể là, niềm tin và thái độ của tất cả
<i>những người tán thành việc tôn thờ Thánh Gióng có thể được điều </i>


<i>chỉnh thành những kênh chấp nhận được và không gây tranh cãi, và </i>


như vậy, sẽ dễ quản lý hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

3. Người ta đã tham khảo ý kiến những người dân xã Phù Đông ở
mức độ nào về khả năng đưa hội Gióng vào Danh sách đề cử Di sản Văn
hóa Thế giới của UNESCO? Và họ có được giải thích để ý thức về
những tác động sau đó, bao gồm cả việc (có thể) sẽ có thêm rất nhiều du


khách nước ngồi và (có thể) việc hàng hóa hóa lễ hội, bao gồm cả sự
xuất hiện của những người kinh doanh từ nơi khác đến?


Thực sự, vấn đề này lại dẫn tới vấn đề khác: hiện tại, ở xã Phù
Đổng, hạ tầng cơ sở còn rất kém, và việc đưa Hội Gióng vào Danh sách
Di sản Văn hóa của UNESCO sẽ đưa đến kết quả là có thêm nhiều
khách nội địa và khách quốc tế sẽ đến đây. Hiện đã có những kế hoạch
nào để đảm bảo ràng việc tăng cường du lịch - cả du lịch nội địa và
quốc tế - có thể đưa đến lợi ích kinh tế và những lợi ích khác cho cộng
dồng địa phương?


4. Việc hội Gióng có ý nghĩa quan trọng ở địa phương là một
điều rõ ràng, và như được dề cập đến ở trên, bàng chứng cho thấy
rằng - cùng với những lễ hội khác - hội Gióng cịn mang ý nghĩa quan
trọng ở cấp độ quốc gia. Tuy nhiên, một điếm cần phải tranh luận là
<i>hội Gióng đóng vai trị quan trọng như thế nào ở tầm quốc tế. Hiện tại. </i>
tầm quan trọng của nó có vẻ như chỉ được gói gọn ờ Việt Nam, và lễ
hội cũng chi được nói đến rất ít trong bất cứ sách hướng dần du lịch
phổ biến nào về Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

đưa vào Danh sách Di sán Văn hóa phi vật thể đại diện cùa nhàn loại
của UNESCO, việc đó sẽ ảnh hưởng dến vai trị của hội Gióng như
thế nào./.


H.D
(Người dịch: Đoàn Thị Tuyến


Hiệu đính: Đặng Tuyết Anh
Biên tập: Nguyễn Thị Hiền)



<i>Tài liêu tham klìảo</i>•


Bray, z. (2002) Boundaries and Identities in Bidasoa-Txingudi,
on the Pranco-Spanish Prontier (Ranh giới và bán sắc ờ
Bidasoa-Txingudi, trên biên giới Pháp - Tây Ban Nha). Luận án tiên sỹ
nộp tại Viện Đại học châu Âu (European University Institute):
Florence.


<i>Bullen, M. (2003) Basque Gender Studies (Nghiên cứu về giới ờ </i>


<i>Basque). Reno: Trung tâm Nghiên cứu về Basque, Đại học Nevada.</i>


<i>Bullcn, M. and Egido, J. (2004) Trìstes espectáculos: ỉas mụịeres </i>


<i>y los Alardes de ỉrun y Hondarribia. Bilbao: Universidad del Pais </i>


Vasco.


<i>Casson, L. (1974) Travel ìn the Ancient ÌVorld (Du lịch trong thế </i>


<i>giới cổ đại]. Baltimore: The John Hopkins University Press.</i>


<i>Coleman, s. and Elsner, J. (1995) Pilgrimage: Past and Present </i>


<i>in the World Religions (Hành hương: Trong quá khứ và ngày nay trong </i>
<i>các tôn giáo của thế giới). London: British Museum Press.</i>


Fisher, D. (2000) The Socio-economic consequences o f tourism
in Levuka, Fiji [Những hệ quả kinh tế-xã hội của du lịch tại Levuka,
Fiji]. Luận án Tiến sỳ, Đại học Lincoln: Christchurch.



Fuchs, D. (2009) Jeers as vvomen try to end male reign on parade


<i>cuộc diễn hành). The Observer (Người quan sát), 18/9.</i>


Getz, D. (2008) Event Tourism: Deíĩnition. evolution and
research (Du lịch sự kiện: Định nghĩa, sự phát triển và nghiên cưu).


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Greenxvood, D. (1977) Culture by the Pound: An
Anthropological Perspective on Tourism as Cultural Commoditization
(Văn hóa như thế cùng: Quan điểm nhân chủng học về du lịch như một
<i>sự hàng hóa hóa văn hóa) trong V. Smith, chủ biên. Husts and Guests: </i>


<i>The Anthropology o f Tourism (Chù và khách: Nhún học du lịch). </i>


Philadelphia, University o f Pennsylvania Press: 129-138.


Greenwood, D. (1989) Culture by the Pound: An


Anthropological Perspective on Tourism as Cưltural Commoditization
(Văn hóa như thế cùng: Quan điểm nhân học về du lịch như một sự
<i>hàng hóa hóa văn hóa) trong V. Smith, chủ biên. Hosís and Guests: The </i>


<i>Anthropology o f Tourism (Chù và khách: Nhân học du lịch). </i>


Philadelphia. University o f Pennsvlvania Press: 171-185


Harrison, D. (2004) Levuka, Fiji: tourism, UNESCO and the
World Heritage List (Levuka, Fiji; du lịch, UNESCO và Danh sách di
<i>sản thế giới). Journl o f Pacị/ìc Studies (Tạp chí Nghiên cứu Thái Bình </i>



<i>Dương) 26 (1 và 2): 199-232.</i>


Harrison, D. (2005a) Contested narratives in the Domain of
World Heritage (Những câu chuyện bị tranh cãi trong lĩnh vực di sản
<i>thế giới) trong D. Harrison và M. Hitchcock, chủ biên, The Politics o f </i>


<i>world Herilage: Negotiatỉng Tourism and Conservation (Chính trị cùa </i>
<i>dì sán thế giới: Thỏa thuận giữa du lịch và bào tồn). Clevedon, Channel </i>


View: 1-10.


Harrison, D. (2005b) Levuka, Fiji: Contested Heritage? [Levuka,
Fiji: Di sản bị tranh cãi] trong D. Harrison và M. Hitchcock, chủ biên,


<i>The Politics o f worỉd Heritage: Negotiating Tourism and Conservation </i>
<i>(Chính trị của di sản thế giới: Thoa thuận giữa du lịch và bảo tồn). </i>


Clevcdon, Channel View: 66-89.


<i>Paciíìc Area Travel Association (PATA) (1985) Levuka and </i>


<i>Ovalau: Tourism Development through Community Restoration </i>
<i>(Levuka và Ovalau: Phủi triển du lịch thông qua việc phục hồi cộng </i>
<i>đồng). Sydney: PATA.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

<i>Hundbook ofT ourism Studies (Sách tham khảo về nghiên cứu du lịch </i>


của Sage). London, Sage: 484-503.



<i>Sìeld. T. (2003) Empowerment for Sustainable Tourism </i>


<i>Development (Trao quyền đê cỏ một sự phát triển du lịch bền vững). </i>


Oxíbrd: Elseview Science Ltd.


Trần Quốc Vượng (1995). The Legend of Ong Dong from the
Text to the Field (Truyền thuyết về Ơng Dóng từ nhũng bài viết điền dã)
trong

K.w.

<i>Taylor và J.K. Whitmore. chủ biên, Essays inttì Vietnamese </i>


<i>Pasts (Những bài viết vể quá khứ cua Việt Nam), [thaca. New York: </i>


</div>

<!--links-->
Cải cách hệ thông ngân hàng thương mại Trung Quốc và những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.doc
  • 92
  • 1
  • 8
  • ×