Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - KĨ THUẬT CỦA CÔNG TY BÁNH KẸO HẢI HÀ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.36 KB, 17 trang )

Những đặc điểm KINH Tế - Kĩ THUậT của công ty
BáNH KẹO hảI Hà
I. KHáI QUáT CHUNG Về CÔNG TY BáNH KẹO HảI Hà
1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty bánh kẹo Hải Hà
Công ty bánh kẹo Hải Hà là một doanh nghiệp Nhà Nớc thuộc Bộ công nghiệp
có tên giao dịch là HAIHA COMPANY (gọi tắt là HAPACO). Công ty chuyên kinh
doanh tất cả các mặt hàng bánh kẹo, chế biến thực phẩm do Nhà nớc đầu t vốn và quản
lý với t cách là ngời chủ sở hữu.
Hiện nay, trụ sở chính của Công ty đặt tại số 25 đờng Trơng Định - Quận Hai
Bà Trng- Hà Nội. Hiện tại, Công ty bánh kẹo Hải Hà đang là một công ty có uy tín
trên toàn quốc, các sản phẩm của công ty đang đợc a chuộng và có mặt ở nhiều nơi
trong cả nớc và cả thị trờng nớc ngoài. Tuy nhiên, để đạt đợc những thành công nh
hiện nay, công ty đã phải trải qua nhiều khó khăn. Quá trình hình thành của công ty đ-
ợc chia thành năm giai đoạn chính:
* Giai đoạn 1959 _ 1961:
Mảnh đất với diện tích 22.500 m2 của nhà t sản Hàn Lâm bị tịch thu, xung
quanh là cảnh ao tù nớc đọng thuộc khu vực Hoàng Mai nay là phờng Trơng Định,
Tổng công ty nông thổ sản Miền Bắc trực thuộc Bộ Nội thơng đã cho xây dựng một cơ
sở thí nghiệm để nghiên cứu hạt chân trâu vào tháng 1/1959. Số lao động ban đầu chỉ
có 9 ngời, do đồng chí Võ Chi làm giám đốc, đây là lớp cán bộ đầu tiên của nhà máy.
Sau đó từ giữa năm 1959 đến tháng 4/1960, thực hiện chủ trơng của Tổng công ty
nông sản miền Bắc, Công ty bắt đầu nghiên cứu mặt hàng sản xuất miến. Công việc
chủ yếu là làm thủ công, dây chuyền sản xuất miến gồm: ngâm đỗ, xay xát, phơi miến.
Đến tháng 4/1960, công trình đã thành công.
Ngày 25/12/1960, Xởng miến Hoàng Mai chính thức ra đời đánh dấu bớc
ngoặt đầu tiên cho sự hình thànhvà phát triển của nhà máy sau này.

Giai đoạn 1962_1976:
Bắt đầu từ năm 1962, Xí nghiệp miến Hoàng Mai trực thuộc Bộ Công Nghiệp
nhẹ quản lý. Thời kỳ này xí nghiệp đã thử nghiệm và thành công đa vào sản xuất các
mặt hàng nh xì dầu tinh bột ngô cung cấp cho nhà máy in Văn Điển. Đến năm 1965,


chấp hành chỉ thị của Bộ công nghiệp nhẹ, Công ty sử dụng nguyên liệu tại chỗ nhằm
giảm nhẹ khâu vận chuyển. 36 ngời ở Xí nghiệp miến do đồng chí Dơng Xuân Phong
phụ trách đã lên xây dựng và giúp đỡ nhà máy miến Hoà An ở Cao Bằng. Khi lên giúp
đỡ, Công ty chấm dứt sản xuất miến ở Nhà máy. Năm 1966, Viện thực phẩm lấy nơi
này vừa sản xuất vừa nghiên cứu các đề tài thực phẩm. Từ đó phổ biến cho các địa ph-
ơng nhằm giải quyết hậu cần tại chỗ. Từ đây Nhà máy đợc đổi tên thành Nhà máy thực
nghiệm thực phẩm Hải Hà. Ngoài nhiệm vụ sản xuất tinh bột ngô nhà máy còn sản
xuất viên đạm, nớc chấm lên men, nớc chấm hoá giải, dầu đậu tơng, bánh mì bột dinh
dỡng trẻ em và bắt đầu nghiên cứu sản xuất mạch nha. Nhiệm vụ mới rất nặng nề,
thêm vào đó những cơ sở nhà máy vơn lên để hoàn thành nhiệm vụ lại không hoàn
toàn thuận lợi vì nhà máy vừa sản xuất vừa thực nghiệm nên khi thử những các đề tài
khác nhau, Nhà máy buộc phải thay đổi quy trình công nghệ, thiết bị khác nhau. Mặt
khác trình độ công nhân viên không đáp ứng đủ kip thời, hầu hết vẫn là lao động thủ
công. Đứng trớc tình hình đó, lãnh đạo Nhà máy đã đề ra những biện pháp giải quyết
kịp thời và đã đợc Bộ trang bị những máy móc để phục vụ cho sản xuất. Đầu 1967,
tình hình trong nớc trở nên căng thẳng khó khăn nhng đội ngũ lãnh đạo cùng toàn thể
anh chị em công nhân trong Nhà máy đã kiên trì bám trụ và giữ vững Nhà máy, thực
hiện khẩu hiệu "Việc sự an toàn cho chờ máy chứ không để máy chờ việc", " Bám
điện, bám máy, bám việc". Công nhân làm việc cả tháng, cả năm không nghỉ. Chị em
phụ nữ với tinh thần 3 đảm đang đã vơn lên trong khó khăn để đạt tiêu chuẩn thi đua
tốt. Với những thành tích xuất sắc đó, cuối 1967 nhà máy đợc Hội đồng Nhà nớc tặng
Huân chuơng Lao động hạng 3. Tháng 12/1967, Nhà nớc phê chuẩn phơng án thiết kế
mở rộng Nhà máy Hải Hà với công suất 6000 tấn/ năm. Đến giữa tháng 6 năm 1970,
thực hiện chỉ thị của Bộ lơng thực thực phẩm, Nhà máy đã chính thức tiếp nhận phân
xởng kẹo của Hải Châu bàn giao với công suất 900 tấn/ năm . Số lợng máy móc thiết
bị 1 máy dập hình kẹo cứng, 2 máy cắt, 1 máy cán. Bắt đầu thời kỳ mới, nhà máy có
phơng hớng sản xuất rõ ràng. Nhiệm vụ lúc này là sản xuất thêm một số loại kẹo, đờng
nha và giấy tinh bột. Để phù hợp với nhiệm vụ mới Nhà máy đổi tên thành Nhà máy
thực phẩm Hải Hà. Năm 1971, Nhà máy đã lắp đặt một dây chuyền sản xuất nha gồm
có các máy móc thiết bị để phục vụ sản xuất. Năm 1972, Nhà máy lắp đặt hoàn chỉnh

dây chuyền sản xuất tinh bột duy nhất trên cả nớc để sản xuất giấy tinh bột để gói lót
kẹo.
Năm 1975, Nhà máy lắp đặt hoàn chỉnh một hệ thống nồi hoà đờng để thay thế
khâu hoà đờng bằng thủ công cũ.
Ngay từ 1970, Nhà máy đã đa vào sử dụng nhà 2 tầng với diện tích 800 m2,
tổng số lợng lao động là 555 ngời. Lao động thủ công nhiều nên đa số là lao động nữ.
Bộ máy quản lý cũng luôn đợc củng cố hoàn thiện và ngày càng phát huy vai trò trong
việc thúc đẩy sản xuất.
Giá trị tổng sản lợng đạt đợc qua các năm tăng lên 1 cách rõ rệt. Năm 1971, giá
trị sản lợng chỉ có 7.460.000đ nhng chỉ sau 4 năm giá trị này đã tăng đột biến: năm
1975, giá trị sản lợng đã đạt tới 11.055.000đ.
* Giai đoạn 1976 đến 1980: Thời kỳ này, Nhà máy thực phẩm Hải Hà vẫn trực
thuộc Bộ lơng thực và thực phẩm với tổng diện tích mặt bằng khoảng 300.000m2. Nhà
máy tiến hành khởi công xây dựng Nhà máy sản xuất chính với diện tích là 2.500m2,
cao hai tầng.
Năm 1980, Nhà máy này đợc đa vào sản xuất. Số lợng công nhân viên chức của
Nhà máy qua từng năm có thay đổi để đáp ứng yêu cầu sản xuất và quy mô của nhà
máy.
Năm 1976: tổng cán bộ công nhân viên: 800 ngời
Năm 1978: tổng cán bộ công nhân viên: 887 ngời
Năm 1979: tổng cán bộ công nhân viên: 911 ngời
Năm 1980: tổng cán bộ công nhân viên: 900 ngời
Năm 1980: quán triệt Nghị quyết trung nông lần thứ 6 khoá 5, Nhà máy chính
thức thành lập bộ phận sản xuất phụ và rợu và thành lập nhóm kiến thiết cơ bản. Có
thể nói trong những năm 76 đến 80, lãnh đạo Nhà máy rất quan tâm đến việc củng cố,
xây dựng đội ngũ, nâng cao chất lợng cán bộ và bồi dỡng tay nghề cho công nhân. Kết
quả của công tác này đã tạo điều kiện thuận lợi để Nhà máy thực hiện cải tiến quản lý,
áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật đáp ứng yêu cầu sản xuất phục vụ trong nớc
và xuất khẩu. Trong thời kỳ này Nhà máy đã có phòng y tế để khám sức khoẻ định kỳ
cho công nhân viên và thực hiện cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch. Công tác này đã

mang lại hiệu qủa kinh tế đáng đợc khích lệ. Trong thời kỳ này, việc nâng bậc lơng cho
công nhân viên cũng đợc chú ý nhiều. Số cán bộ công nhân viên đợc nâng hàng năm
trung bình 15 - 20%.
*Giai đoạn 1981 đến 1991:
Từ năm 1981 đến 1985 là thời gian ghi nhận những bớc chuyển biến của Nhà
máy từ giai đoạn sản xuất thủ công có một phần cơ giới sang sản xuất cơ giới hoá có
một phần thủ công. Cũng bắt đầu từ năm 1981, Nhà máy đợc chuyển giao sang cho Bộ
công nghiệp thực phẩm quản lý với tên gọi là Nhà máy Thực phẩm Hải Hà. Năm 1982,
Nhà máy sản xuất thêm kẹo mè xửng xuất khẩu. Năm 1983, Nhà máy sản xuất thêm
các loại kẹo chuối, lạc vừng, cà phê và lần đầu tiên sản xuất kẹo cứng có nhân. Đến
năm 1985, Nhà máy có 6 chủng loại kẹo bao gồm: Kẹo mềm, kẹo cà phê, kẹo chuối,
kẹo vừng lạc, kẹo vừng xốp, kẹo mềm socola, kẹo cứng nhân các loại. Để phù hợp với
tình hình và nhiệm vụ sản xuất từ năm 1987, Nhà máy thực phẩm Hải Hà một lần nữa
lại đổi tên thành Nhà máy kẹo Xuất khẩu Hải Hà và trực thuộc Bộ nông nghiệp và
công nghiệp thực phẩm. Năm 1988, nhà vệ sinh công nghiệp hai tầng với diện tích
820m
2
và nhà điều hành sản xuất 4 tầng với diện tích là 1.400m
2
đã đa vào sử dụng.
Năm 1989, bằng nguồn vốn tự có Nhà máy đã tiến hành thi công nhà cầu hành lang
rộng 200m
2
và nhà hoà đờng tập trung. Đến 1990, nhà ăn ca và hội trờng lớn với diện
tích hơn 1.000m
2
đã đợc đa vào sử dụng tạo thêm nhiều thuận lợi cho việc tổ chức
quản lý sản xuất cũng nh các hoạt động khác. Trong năm này, nhiều sản phẩm đã đợc
nghiên cứu thành công và đa vào sản xuất. Nhìn chung tốc độ tăng trởng sản lợng hàng
năm tăng 10% 15% và sản xuất từ chỗ thủ công đã dần dần tiến lên cơ giới hoá

70% 80%.
* Từ 1992 đến nay:
Theo đề nghị của đồng chí giám đốc Nhà máy kẹo xuất khẩu Hải Hà và Vụ tr-
ởng Vụ tổ chức cán bộ lao động, Nhà máy kẹo xuất khẩu Hải Hà đổi tên thành Công
ty bánh kẹo Hải Hà chính thức từ 10/7/1992. Năm 1993, Công ty đã liên doanh sản
xuất bánh kẹo với hãng KOTOBUKI của Nhật Bản. Việc liên doanh này đã nâng cao
uy tín của công ty về chất lợng cũng nh chủng loại sản phẩm trên thị trờng. Năm 1994,
Xí nghiệp thực phẩm việt trì là Xí nghiệp thành viên của Công ty. Công ty đã liên
doanh với MiWon của Hàn Quốc để sản xuất mì chính. Năm 1996, Xí nghiệp bột dinh
dỡng Nam Định trở thành Xí nghiệp thành viên của Công ty. Tháng 12/2002, Công ty
đã đầu t nhập một dây truyền sản xuất kẹo Chew của Đức với số vốn 25 tỷ. Ngoài ra
công ty còn nhập thêm một số máy nh máy gói cho kẹo cứng...
Đến nay, công ty đã có 7 xí nghiệp thành viên trong đó có 5 xí nghiệp đóng tại
cơ sở chính (25 Trơng Định - Hà Nội) là: Xí nghiệp kẹo cứng, xí nghiệp kẹo mềm, xí
nghiệp bánh, xí nghiệp kẹo chew, xí nghiệp phụ trợ. Hai xí nghiệp còn lại là xí nghiệp
thực phẩm Việt Trì và nhà máy bột dinh dỡng Nam Đinh.
2. Chức năng và nhiệm vụ chính của Công ty bánh kẹo Hải Hà
* Chức năng của Công ty bánh kẹo Hải Hà
- Sản xuất kinh doanh những loại bánh kẹo trên thị trờng.
- Xuất khẩu các sản phẩm của Công ty và sản phẩm liên doanh đồng thời nhập
khẩu các loại máy móc công nghệ, nguyên vật liệu phù hợp với sản phẩm đáp ứng nhu
cầu đang ngày một nâng cao.
- Ngoài việc sản xuất các loại bánh kẹo chính, Công ty còn kinh doanh những
loại mặt hàng khác để không ngừng nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên, củng cố
vị trí và thúc dẩy phát triển ngày một lớn mạnh của Công ty.
* Nhiệm vụ của Công ty bánh kẹo Hải Hà
- Công ty là một trong những Công ty có vốn Nhà nớc giao nên việc bảo toàn và
phát triển vốn đợc giao là một trong những nhiệm vụ hàng đầu đợc Công ty quan tâm.
- Cũng nh các doanh nghiệp khác nói chung, Công ty bánh kẹo Hải Hà phải
thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ và nghĩa vụ đối với Nhà nớc.

- Công ty cũng thực hiện phân phối theo lao động, chăm lo đời sống vật chất và
tinh thần cho cán bộ công nhân viên, chú trọng nâng cao trình độ chuyên môn.
- Công ty cũng phải thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trờng.
3. Thị trờng tiêu thụ của Công ty bánh kẹo Hải Hà
Hiện nay, các sản phẩm của Công ty đang đợc a chuộng ở các tỉnh trong nớc và
nớc ngoài và Công ty có gần 300 đại lý trong toàn quốc. Thị trờng trong nớc của Công
ty đợc chia làm ba khu vực chính, đó là: thị trờng miền Bắc, thị trờng miền Trung, thị
trờng miền Nam. trong đó cụ thể tình hình tiêu thụ ở mỗi loại thị trờng là khác nhau
đòi hỏi Công ty phải có những biện pháp thích hợp:
- Thị trờng miền Bắc là thị trờng chính của Công ty: sản phẩm của Công ty đã
rất quen thuộc với ngời dân miền Bắc. Do sản phẩm của Công ty có chất lợng tốt, cao
cấp và giá thành hơi cao nên ở thị trờng này, nhu cầu bánh kẹo tập trung chủ yếu ở các
thành phố lớn và thị xã còn ở nông thôn thì thị phần của công ty rất ít vì thu nhập của
ngời dân ở đây còn hạn chế.
- Thị trờng miền Trung: Một thực tế thấy rõ là thu nhập của ngời dân miền
Trung thấp hơn hẳn so với ngời miền Bắc và miền Nam do đó họ chủ yếu dùng những
loại sản phẩm bánh kẹo có chất lợng vừa phải, giá thành rẻ và đặc biệt họ ít quan tâm
đến hình thức mẫu mã của sản phẩm nh ngời miền Bắc. Đối với thị trờng này, sản
phẩm chủ yếu là kẹo cốm, kẹo sữa mềm, kẹo bắp.
- Thị trờng miền Nam nhu cầu về sản phẩm có chất lợng cao hơn. Nhu cầu về
bánh kẹo ở thị trờng này rất lớn nhng lợng tiêu thụ sản phẩm của công ty ở đây cha
cao do một số nguyên nhân chủ yếu: thứ nhất là do sự xa cách về mặt địa lý. Thứ hai
là do yếu tố cạnh tranh, hiện nay có rất nhiều công ty bánh kẹo có chất lợng cao nh:
Kinh Đô, Hải Châu . và một số công ty bánh kẹo của n ớc ngoài nh Malaisia, Thái
Lan vì vậy việc chiếm đ ợc thị phần lớn ở thị trờng này rất khó. Điều đó cần sự cố
gắng, nỗ lực rất nhiều của Công ty. Thứ ba, nguyên nhân quan trọng nhất đó là đặc
điểm tâm lý, thị hiếu, thói quen tiêu dùng của khách hàng
Ngoài ra, công ty còn thực hiện xuất khẩu sản phẩm ra nớc ngoài. Trớc đây, thị
trờng chủ yếu của Công ty là Liên Xô và các nớc Đông Âu cũ. Tuy nhiên, từ khi hệ
thống các nớc XHCN tan rã, số lợng tiêu thụ ở thị trờng này còn rất ít. Hiện nay, Công

ty đang mở rộng, thiết lập một số thị trờng mới nh Mông Cổ, Trung Quốc, các nớc
ASEAN và một số thị trờng khác.
4. Kết quả hoạt động của Công ty trong một số năm gần đây
Mặc dù công ty còn nhiều gian nan trong cơ chế thị trờng, phải cạnh tranh chất
lợng uy tín với các công ty bạn song Công ty bánh kẹo Hải Hà với u thế về công nghệ
và thiết bị, với đội ngũ cán bộ năng động sáng tạo nhiệt tình, với đội ngũ công nhân
lành nghề thì công ty đã liên tục trởng thành và phát triển, đã phát huy mọi khả năng
sản xuất kinh doanh của mình để đứng vững trên thị trờng, nâng cao uy tín của công
ty. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đợc thể hiện qua một số chỉ
tiêu ở dới bảng sau:
Bảng số 1: Kết quả hoạt động của Công ty bánh kẹo Hải Hà các năm 2000-2001
Chỉ tiêu Đơn vị 2000 2001 2002
Sản lợng Tấn 11,133 12,726 14,685
Doanh thu Tỷ đồng 214,63 245,49 279,0
Nộp ngân sách Tỷ đồng 18.435 19.913 21.100

×