Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Sở hữu trí tuệ và quyền văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.27 KB, 11 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ QUYỀN VĂN HĨA</b>


<i><b>TS. Nguyễn Bích Thảo </b></i>
<i>(Bộ mơn Luật Dân sự, Khoa Luật ĐHQG Hà Nội) </i>
<b>1.</b> <b>Tổng quan về quyền sở hữu trí tuệ </b>


Quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với các tài
sản trí tuệ, bao gồm ba nhóm quyền: quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền
tác giả; quyền sở hữu công nghiệp; quyền đối với giống cây trồng.


Đối tượng của quyền tác giả là các sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học,
nghệ thuật, khoa học (gọi là các “tác phẩm”) như tác phẩm văn học, khoa học, sách
giáo khoa, giáo trình; bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác; tác phẩm báo chí; tác
phẩm âm nhạc; tác phẩm sân khấu; tác phẩm điện ảnh; tác phẩm tạo hình, mỹ thuật
ứng dụng; tác phẩm nhiếp ảnh; tác phẩm kiến trúc; bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản
vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, cơng trình khoa học; tác phẩm văn học, nghệ
thuật dân gian; chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu.


Quyền liên quan đến quyền tác giả là quyền của các tổ chức, cá nhân tuy
không trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm nhưng có vai trị lớn trong việc đưa tác phẩm
đến với công chúng, bao gồm quyền đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình,
chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.


Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với các thành
quả sáng tạo (chủ yếu trong lĩnh vực cơng nghiệp) do mình tạo ra hoặc sở hữu như
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh
doanh, quyền đối với các chỉ dẫn thương mại như nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ
dẫn địa lý, và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.


Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống
cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng


quyền sở hữu, quyền này chủ yếu phát sinh trong lĩnh vực nơng nghiệp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

chúng có quyền tự do tiếp cận, sử dụng các thành quả sáng tạo đã có để tiếp tục cải
tiến, nâng cấp, sáng tạo ra các đối tượng mới, nhờ đó khơng ngừng thúc đẩy sự phát
triển của khoa học công nghệ và văn học, nghệ thuật, nâng cao chất lượng cuộc
sống của con người, đem lại lợi ích cho tồn xã hội.


<b>2.</b> <b>Mối liên hệ giữa bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và quyền văn hóa </b>


Bảo hộ quyền SHTT có mối liên hệ chặt chẽ với việc bảo đảm quyền văn hóa
– một nhóm quyền con người cơ bản được ghi nhận trong pháp luật quốc tế và pháp
luật quốc gia. Theo TS. Phạm Quỳnh Phương, quyền văn hóa bao hàm 5 khía cạnh
chính: i) quyền được tham gia và hưởng thụ văn hóa; ii) quyền được tiếp cận văn
hóa/cơ sở văn hóa; iii) quyền được tự do sáng tạo, thể hiện và thực hành văn hóa;
iv) quyền được tôn trọng và thể hiện sự khác biệt mà không bị kỳ thị và phân biệt
đối xử; v) quyền được bảo hộ các quyền lợi về tinh thần và vật chất phát sinh từ
những sáng tạo của cá nhân và cộng đồng.92 Mối liên hệ giữa quyền SHTT và
quyền văn hóa được thể hiện theo hai chiều: một mặt, bảo hộ quyền SHTT thúc đẩy
quyền văn hóa (hướng chủ đạo) nhưng mặt khác, bảo hộ quyền SHTT có khả năng
xung đột với quyền văn hóa (trong một số trường hợp nhất định).


Bảo hộ quyền SHTT vừa tạo động lực khuyến khích sự sáng tạo văn hóa,
đồng thời thúc đẩy, tạo điều kiện cho công chúng thực hiện quyền tiếp cận và
hưởng thụ văn hóa thơng qua cơ chế cân bằng lợi ích giữa các chủ thể sáng tạo và
tồn xã hội.


<i><b>2.1. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ góp phần thúc đẩy và bảo đảm quyền văn </b></i>
<i><b>hóa thơng qua việc khuyến khích hoạt động sáng tạo </b></i>


Đặc trưng của các tài sản trí tuệ là tính chất vơ hình, dễ lan truyền, dễ phổ


biến, khơng mang tính loại trừ và khơng hao mịn, nghĩa là tại cùng một thời điểm,
nhiều chủ thể có thể khai thác, sử dụng tài sản trí tuệ đó mà khơng làm hao mịn giá
trị tài sản, khơng loại trừ việc khai thác, sử dụng của các chủ thể khác. Ví dụ, cùng
một lúc, ở nhiều địa điểm khác nhau, nhiều chủ thể có thể cùng thưởng thức một
bản nhạc, cùng xem một bộ phim, cùng đọc một tác phẩm văn học. Đặc tính này
hồn tồn khác với tính chất “loại trừ” của tài sản hữu hình (chỉ một hoặc một số
chủ thể hữu hạn có thể sử dụng tài sản tại cùng một thời điểm). Đặc trưng vơ hình
của tài sản trí tuệ khiến cho việc xâm phạm quyền SHTT diễn ra rất dễ dàng, tràn
lan, phổ biến, nhất là với sự hỗ trợ của các công nghệ hiện đại. Nếu như khơng có
một hệ thống bảo hộ quyền SHTT, các chủ thể sáng tạo sẽ dần dần nản lòng, mất đi
động lực sáng tạo trước tình trạng “đứa con tinh thần” của họ dễ dàng bị người khác
sao chép, sử dụng miễn phí, thậm chí xuyên tạc, bóp méo, mà bản thân họ khơng hề
nhận được lợi ích tinh thần, vật chất nào từ chính thành quả lao động trí tuệ của


92<sub> Phạm Quỳnh Phương, Quyền văn hóa: từ lý luận đến thực tiễn ở Việt Nam, Tạp chí Văn hóa học, số 4(8) – </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

mình. Hệ quả là xã hội sẽ khơng bao giờ được thụ hưởng lợi ích từ những tiến bộ
khoa học công nghệ và sáng tạo văn học nghệ thuật.


Để tạo động lực khuyến khích hoạt động sáng tạo, hệ thống bảo hộ quyền
SHTT đã ra đời với triết lý “trao thưởng” cho các nhà sáng tạo cũng như các chủ thể
đầu tư cho hoạt động sáng tạo bằng cách ghi nhận cho họ các quyền nhân thân và
quyền tài sản, tức là các độc quyền khai thác tài sản trí tuệ, ngăn cấm người khác sử
dụng tài sản trí tuệ của họ mà không xin phép, không trả thù lao. Các quyền này
được ghi nhận trong hiến pháp và pháp luật SHTT mỗi quốc gia và được bảo đảm
bằng một hệ thống cơ quan thực thi quyền SHTT khi có hành vi xâm phạm xảy ra.


Một minh chứng rõ nét cho thấy tầm quan trọng của bảo hộ quyền SHTT đối
với việc thúc đẩy hoạt động sáng tạo là Hoa Kỳ. Bản hiến pháp đầu tiên trên thế
giới ghi nhận quyền SHTT chính là Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1789. Cách đây hơn


200 năm, các nhà lập hiến Hoa Kỳ đã nhận ra tầm quan trọng của quyền SHTT đối
với một quốc gia mới thành lập, non trẻ, nghèo nàn, dân số ít ỏi và tài nguyên hạn
chế như Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ XVIII. Điều I, khoản 8, mục 8 của Hiến pháp Hoa
Kỳ trao cho Quốc hội thẩm quyền ban hành luật bảo hộ độc quyền của các tác giả
và các nhà sáng chế “trong một thời hạn nhất định” nhằm “thúc đẩy sự tiến bộ của
khoa học và cơng nghệ hữu ích”.93<sub> Điều khoản quan trọng và mang tầm nhìn vượt </sub>
thời gian đó đã đưa tới sự ra đời của một hệ thống bảo hộ quyền SHTT phát triển
mạnh vào loại bậc nhất thế giới, góp phần đưa Hoa Kỳ trở thành siêu cường kinh tế
vào cuối thế kỷ XIX và trung tâm sáng tạo đổi mới của cả thế giới. Hệ thống bảo hộ
quyền SHTT mang tính khuyến khích cao độ đã động viên, cổ vũ các nhà sáng chế
và các tác giả khơng ngừng sáng tạo.94<sub> Các quy trình, máy móc, sản phẩm, hợp chất </sub>
mới và những cải tiến của chúng, cũng như các giống cây trồng mới cùng với phần
mềm, sách, báo, nhạc, phim và các tác phẩm nghệ thuật mới được tạo ra hàng ngày,
hàng giờ. Như vậy, một điều khoản nhỏ trong Hiến pháp có thể nói đã làm thay đổi
nước Mỹ, và tầm ảnh hưởng của nó có lẽ cịn vượt ra ngoài lãnh thổ một quốc gia,
bởi nhân loại cũng được thụ hưởng rất lớn từ các thành quả sáng tạo của Mỹ như
Internet, cơng cụ tìm kiếm Google, mạng xã hội Facebook, các tác phẩm âm nhạc,
điện ảnh có giá trị nghệ thuật cao v.v…


Nếu như cách đây 200 năm, việc ghi nhận quyền SHTT trong Hiến pháp
được coi là đi trước thời đại, thì ngày nay, khơng ai cịn có thể phủ nhận tầm quan
trọng của quyền SHTT. Hầu hết các bản hiến pháp hiện đại đều đã trang trọng ghi
nhận quyền SHTT như là một trong những quyền con người, quyền công dân cơ
bản được hiến pháp bảo hộ. Chẳng hạn, Điều 44 Hiến pháp Liên bang Nga năm


93<sub> Article I, Section 8, Clause 8 of the U.S. Constitution (“To promote the progress of science and useful arts, by securing </sub>


for limited times to authors and inventors the exclusive right to their respective writings and discoveries”).


94<sub> Xuan-Thao Nguyen (2013), </sub><i><sub>Luật Sở hữu trí tuệ: Án lệ, Lý thuyết và Bài tập vận dụng</sub></i><sub>, NXB. Đại học Quốc </sub>



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

1993 quy định: “Mọi người được bảo đảm quyền tự do hoạt động sáng tạo văn học,
nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật và các loại hình hoạt động sáng tạo khác, và tự do
giảng dạy. Quyền sở hữu trí tuệ được pháp luật bảo hộ”.95<sub> Điều 22 Hiến pháp của </sub>
Hàn Quốc quy định “(1) Mọi cơng dân có quyền tự do học tập và sáng tạo. (2)
Quyền của các tác giả, nhà sáng chế, nhà khoa học, kỹ sư và nghệ sĩ được Luật bảo
hộ.”96<sub> Hiến pháp của Trung Quốc năm 1982 (sửa đổi gần đây nhất năm 2004) có hai </sub>
điều liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Điều 20 quy định: “Nhà nước khuyến khích
sự phát triển của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, phổ biến tri thức khoa học
và công nghệ, khen thưởng đối với các thành tựu nghiên cứu khoa học, đổi mới
công nghệ và sáng chế”.97<sub> Hiến pháp Cộng hòa liên bang Đức, tương tự như Hiến </sub>
pháp Mỹ, tuy không ghi nhận quyền sở hữu trí tuệ ở phần các quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân, nhưng lại ghi nhận ở điều khoản về các quyền hạn của Quốc hội
liên bang, trong đó có quyền ban hành luật về “bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp,
quyền tác giả và xuất bản” (Khoản 9 Điều 73).98


Quyền SHTT đã được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam ở một chừng mực
nào đó ngay từ Hiến pháp năm 1959, và dần dần được phát triển, bổ sung trong các
bản Hiến pháp sau này. Điều 40 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: “Mọi người có quyền
nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích
từ các hoạt động đó.” Khoản 2 Điều 62 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước
ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển
giao, ứng dụng có hiệu quả thành tựu khoa học và công nghệ; bảo đảm quyền nghiên
cứu khoa học và cơng nghệ; <i>bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ</i>.”


Hệ thống bảo hộ quyền SHTT nhằm khuyến khích hoạt động sáng tạo văn
hóa được vận hành như sau:


<i>Thứ nhất, Nhà nước ban hành một hệ thống pháp luật về SHTT để ghi nhận, </i>
<i>cơng nhận chính thức quyền của các chủ thể đối với thành quả sáng tạo của mình </i>


<i>và quyền của các chủ thể đầu tư cho hoạt động sáng tạo</i>. Hệ thống pháp luật này
quy định rõ các điều kiện bảo hộ đối với từng đối tượng của quyền SHTT, chủ thể,
nội dung, thời hạn bảo hộ, cơ chế xác lập quyền, khai thác quyền và bảo vệ quyền
SHTT khi có hành vi xâm phạm.


Quyền tác giả được pháp luật ghi nhận bao gồm các quyền nhân thân (quyền
đặt tên cho tác phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu
tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền công bố hoặc
cho phép người khác công bố tác phẩm; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm) và


95<sub> </sub>
96<sub> </sub>


97<sub> </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

các quyền tài sản (quyền làm bản sao tác phẩm, quyền làm tác phẩm phái sinh,
quyền phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm, quyền biểu diễn tác
phẩm trước công chúng, quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng, quyền cho thuê
bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính). Quyền nhân thân
chỉ thuộc về tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm, không thể chuyển giao
cho người khác (trừ quyền công bố). Quyền tài sản và quyền cơng bố tác phẩm có thể
chuyển giao cho người khác, và thuộc về chủ sở hữu quyền tác giả. Trường hợp tác
giả sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật chất - kỹ thuật của mình để sáng tạo ra tác
phẩm thì tác giả đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả và có cả các quyền nhân thân
và các quyền tài sản. Trường hợp tác giả sáng tạo ra tác phẩm trên cơ sở được người
khác giao nhiệm vụ hoặc giao kết hợp đồng thì tổ chức, cá nhân giao nhiệm vụ hoặc
giao kết hợp đồng với tác giả là chủ sở hữu quyền tác giả và nắm giữ quyền công bố
tác phẩm cũng như các quyền tài sản, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.


Chủ sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp có các độc quyền sau đây:


quyền sử dụng hoặc cho phép người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp,
quyền ngăn cấm người khác sử dụng, và quyền định đoạt đối tượng sở hữu công
nghiệp. Tác giả của các đối tượng sở hữu công nghiệp mang tính sáng tạo như sáng
chế, kiểu dáng cơng nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp có một số quyền nhân thân
như quyền được ghi tên trên văn bằng bảo hộ, được nêu tên là tác giả trong các tài
liệu công bố, giới thiệu về sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, và có
quyền tài sản là quyền nhận thù lao từ chủ sở hữu khi đối tượng sở hữu công nghiệp
được đưa vào khai thác, sử dụng.


Như vậy, pháp luật SHTT phân chia hài hịa lợi ích của chủ thể trực tiếp sáng
tạo (tác giả) và chủ thể đầu tư cho hoạt động sáng tạo (chủ sở hữu quyền tác giả,
chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp) nhằm tạo động lực khuyến khích các
hoạt động sáng tạo và đầu tư, từ đó thúc đẩy việc tạo lập các sản phẩm trí tuệ phục
vụ đời sống vật chất, tinh thần của con người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

ích kinh tế to lớn cho người nắm giữ nó. Chính vì vậy, chỉ những đối tượng sáng tạo
thực sự xứng đáng, có đóng góp đáng kể cho xã hội mới được nhà nước trao độc
quyền dưới hình thức cấp văn bằng bảo hộ, và nhà nước quy định một quy trình
thẩm định chặt chẽ để xác định đối tượng sáng tạo có đáp ứng các điều kiện bảo hộ
theo luật định hay khơng. Chính vì vậy, trong lịch sử, ngay từ thời điểm ban đầu khi
pháp luật SHTT mới hình thành, đã có các quy định về cơ chế xác lập quyền SHTT
chặt chẽ thông qua thủ tục đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền. Như vậy, đăng ký
quyền SHTT đóng vai trị quan trọng trong việc bảo đảm cân bằng lợi ích giữa chủ
thể quyền SHTT và toàn xã hội. Một mặt, chủ thể quyền được xác lập độc quyền
thông qua cơ chế đăng ký, thẩm định và cấp văn bằng bảo hộ; mặt khác, xã hội được
hưởng lợi từ việc tiếp cận nguồn tri thức vô tận, quý giá mà chủ thể quyền phải bộc lộ
công khai khi nộp đơn đăng ký và được tự do khai thác, sử dụng đối tượng SHTT sau
khi hết thời hạn bảo hộ quyền SHTT, từ đó ngày càng thúc đẩy hoạt động nghiên cứu,
sáng tạo, không ngừng cải tiến khoa học kỹ thuật và công nghệ.



Hơn nữa, như trên đã phân tích, đặc trưng của tài sản trí tuệ là tính chất vơ
hình, do đó, tại một thời điểm có thể có một số lượng khơng hạn chế các chủ thể
cùng sử dụng một đối tượng quyền SHTT. Việc sử dụng của chủ thể này không loại
trừ việc chủ thể khác sử dụng, chẳng hạn như nhiều chủ thể khác nhau có thể cùng
khai thác một sáng chế, hoặc cùng sử dụng một kiểu dáng công nghiệp trong hoạt
động kinh doanh…. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa quyền SHTT và các tài sản
hữu hình. Đối với tài sản hữu hình, tại một thời điểm chỉ có thể có một hoặc một số
ít chủ thể khai thác, sử dụng tài sản. Yếu tố “chiếm hữu” – một yếu tố quan trọng để
thực hiện nguyên tắc suy đoán quyền sở hữu đối với động sản hữu hình - khơng đặt
ra đối với quyền SHTT. Đặc tính vơ hình của quyền SHTT cũng dễ dẫn đến khả
năng xảy ra tranh chấp liên quan đến việc xác định ai có quyền gì đối với tài sản trí
tuệ cũng như tranh chấp về xâm phạm quyền SHTT. Vì vậy, cần có cơ chế đăng ký
quyền SHTT để dễ minh định các chủ thể quyền SHTT và xác định hành vi xâm
phạm quyền SHTT.


Đăng ký xác lập quyền làm gia tăng đáng kể giá trị của đối tượng SHTT, tạo
thuận lợi cho việc khai thác và bảo vệ quyền SHTT. Nếu quyền SHTT không được
xác lập ngay từ đầu thì khơng thể nói đến việc khai thác giá trị do quyền đó mang lại,
càng khơng thể nói đến việc chống lại hành vi xâm phạm quyền như sử dụng trái
phép. Cơ chế đăng ký xác lập quyền tạo ra nguồn thông tin SHTT phong phú và hữu
ích để cơng chúng có thể tiếp cận và tiếp tục nghiên cứu, phát triển, sáng tạo các đối
tượng SHTT mới, bảo đảm cân bằng lợi ích giữa chủ thể quyền và toàn xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

cho chủ thể nộp đơn. Các thành quả của hoạt động sáng tạo vô cùng phong phú, đa
dạng, do đó khơng thể áp dụng cơ chế đăng ký đối với mọi đối tượng SHTT vì như
vậy vơ hình trung sẽ cản trở sự sáng tạo, tạo ra rào cản về mặt thủ tục; mặt khác,
nhà nước cũng không thể có đủ nguồn lực để xử lý đơn đăng ký xác lập quyền đối
với mọi đối tượng. Ngoài ra, đối với bí mật kinh doanh, do đặc thù của nó là chủ sở
hữu phải thực hiện các biện pháp bảo mật thì bí mật kinh doanh mới đủ điều kiện để
được pháp luật bảo hộ bảo hộ nên việc đăng ký xác lập quyền là không phù hợp. Vì


vậy, quyền tác giả, quyền liên quan, quyền SHTT đối với bí mật kinh doanh, tên
thương mại, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh được xác lập một cách tự
động, không phải thông qua thủ tục đăng ký. Đăng ký quyền tác giả, quyền liên
quan khơng có ý nghĩa xác lập quyền, mà chỉ nhằm cơng khai hóa và tạo chứng cứ
rõ ràng về việc chủ thể có quyền đối với tác phẩm, thuận lợi cho việc giải quyết
tranh chấp. Việc pháp luật quy định quyền tác giả, quyền liên quan phát sinh tự
động không cần đăng ký cũng chính là nhằm khuyến khích sự sáng tạo, tạo điều
kiện cho mọi người trong xã hội đều có thể tham gia vào hoạt động sáng tạo văn
hóa, nghệ thuật và được pháp luật bảo hộ thành quả sáng tạo của mình.


<i>Thứ ba, Nhà nước thiết lập một hệ thống cơ quan thực thi quyền SHTT để </i>
<i>giúp chủ thể quyền bảo vệ quyền SHTT của họ khi có hành vi xâm phạm xảy ra</i>, bao
gồm các cơ quan hành chính như thanh tra, quản lý thị trường, hải quan, cơng an, bộ
đội biên phịng, cảnh sát biển, ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan tư pháp như
tòa án, viện kiểm sát. Tùy theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, các cơ quan này có
thể áp dụng các biện pháp thực thi quyền SHTT như biện pháp dân sự (khởi kiện vụ
án dân sự yêu cầu chấm dứt hành vi xâm phạm và bồi thường thiệt hại), biện pháp
hành chính (xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực SHTT của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền), biện pháp hình sự (truy tố, xử lý về hình sự đối với các tội
xâm phạm quyền SHTT), biện pháp kiểm soát biên giới (ngăn chặn hàng hóa nhập
khẩu vi phạm quyền SHTT ngay tại biên giới) để xử lý hành vi xâm phạm quyền
SHTT, bảo vệ quyền lợi cho chủ thể quyền SHTT.


<i><b>2.2. Bảo hộ quyền SHTT góp phần bảo đảm quyền tiếp cận văn hóa của </b></i>
<i><b>cơng chúng thơng qua các quy định về giới hạn quyền SHTT </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

về bảo vệ lợi ích của cơng chúng sẽ khơng tạo động lực khuyến khích sự sáng tạo,
hệ quả là công chúng cũng không được tiếp cận, thụ hưởng văn hóa. Vì vậy, pháp
luật SHTT tạo sự cân bằng lợi ích bằng các quy định giới hạn quyền SHTT. Khác
với quyền sở hữu tài sản thông thường, quyền SHTT bị giới hạn về thời gian, không


gian và phạm vi bảo hộ. Giới hạn về thời gian có nghĩa là các độc quyền của chủ thể
sáng tạo đối với tài sản trí tuệ của mình chỉ được bảo hộ trong một thời hạn nhất
định, hết thời hạn đó, tài sản trí tuệ thuộc về cơng chúng, bất kỳ ai cũng có quyền
khai thác, sử dụng tài sản trí tuệ mà khơng phải xin phép, khơng phải trả thù lao cho
tác giả hay chủ sở hữu tài sản trí tuệ. Giới hạn về khơng gian có nghĩa là quyền
SHTT mang tính chất lãnh thổ triệt để; quyền này phát sinh trên lãnh thổ quốc gia
nào thì chỉ được bảo hộ trong phạm vi lãnh thổ quốc gia đó. Giới hạn về phạm vi
bảo hộ là các trường hợp công chúng được phép khai thác, sử dụng tài sản trí tuệ mà
khơng phải xin phép, không phải trả thù lao kể cả khi quyền SHTT đang trong thời
hạn bảo hộ.


Trong lĩnh vực quyền tác giả, quyền nhân thân được bảo hộ vô thời hạn (trừ
quyền công bố tác phẩm), các quyền tài sản và quyền cơng bố nhìn chung được bảo
hộ suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả qua đời. Trong thời hạn bảo hộ
quyền tác giả, cơng chúng có thể sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép,
không phải trả tiền nhuận bút, thù lao nếu thuộc trường hợp quy định tại Điều 25
Luật Sở hữu trí tuệ hoặc sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng
phải trả tiền nhuận bút, thù lao nếu thuộc trường hợp quy định tại Điều 26 Luật Sở
hữu trí tuệ. Thời hạn bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp thường ngắn hơn so với thời
hạn bảo hộ quyền tác giả. Ví dụ, bằng độc quyền sáng chế có hiệu lực từ ngày cấp
và kéo dài đến hết 20 năm kể từ ngày nộp đơn; bằng độc quyền kiểu dáng cơng
nghiệp có hiệu lực từ ngày cấp và kéo dài đến hết 5 năm kể từ ngày nộp đơn, có thể
gia hạn hai lần liên tiếp, mỗi lần 5 năm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân; Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không
làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình; Trích dẫn
tác phẩm mà khơng làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong
chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu; Trích dẫn tác phẩm để giảng
dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, khơng nhằm mục đích thương
mại; Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu; Biểu


diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt
văn hóa, tun truyền cổ động khơng thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào; Ghi âm,
ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy; Chụp ảnh,
truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng
bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó; Chuyển tác phẩm
sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị; Nhập khẩu bản sao tác
phẩm của người khác để sử dụng riêng. Như vậy, các trường hợp sử dụng hợp lý tác
phẩm theo pháp luật Việt Nam nhìn chung nhằm mục đích phi thương mại như giáo
dục, nghiên cứu khoa học, nhân đạo, hoặc hoạt động cộng đồng. Quy định này có ý
nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm quyền tiếp cận văn hóa của cơng chúng. Tuy
nhiên, các trường hợp sử dụng tác phẩm không phải xin phép, không phải trả tiền
nhuận bút, thù lao chỉ áp dụng đối với tác phẩm đã công bố, và không áp dụng đối
với tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính; đồng thời kèm
theo điều kiện là việc sử dụng khơng được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình
thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu
quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm.


Điều 26 Luật Sở hữu trí tuệ quy định các trường hợp sử dụng tác phẩm
không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao. Đó là: Tổ chức phát
sóng sử dụng tác phẩm đã cơng bố để phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền
dưới bất kỳ hình thức nào khơng phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù
lao theo thỏa thuận cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng. Tổ chức phát
sóng sử dụng tác phẩm đã cơng bố để phát sóng khơng có tài trợ, quảng cáo hoặc
khơng thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào khơng phải xin phép, nhưng phải trả tiền
nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng theo quy định của
Chính phủ. Việc sử dụng này không áp dụng đối với tác phẩm điện ảnh và cũng
kèm theo điều kiện khơng được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác
phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả;
phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm.



<i><b>2.3. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ có thể xung đột với quyền văn hóa </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

và thực hành văn hóa có thể bị hạn chế bởi các quy định pháp luật về bảo hộ quyền
tác giả. Ví dụ, quyền làm tác phẩm phái sinh (tác phẩm được tạo ra trên cơ sở một
tác phẩm khác như tác phẩm dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú
giải, tuyển chọn) thuộc độc quyền của chủ sở hữu quyền tác giả, người nào muốn
làm tác phẩm phái sinh phải xin phép và trả thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả.
Một ví dụ khác là hiện nay, các tác phẩm đa phương tiện, mang tính chất tổng hợp
như trị chơi trực tuyến, các phần mềm giáo dục, giải trí, các tác phẩm điện ảnh phải
sử dụng rất nhiều chất liệu có thể lấy từ tác phẩm của người khác như âm thanh,
hình ảnh, một đoạn nhạc v.v…, việc tìm và xin phép tất cả chủ sở hữu của những tư
liệu đó đơi khi là điều bất khả thi (khơng tìm được chủ sở hữu, hoặc quá mất thời
gian, quá tốn kém), ảnh hưởng đến tiến độ tạo ra tác phẩm hoặc thậm chí người
sáng tạo ra tác phẩm tổng hợp đó ngần ngại, sợ bị coi là xâm phạm quyền tác giả
nên đã từ bỏ không tiếp tục sáng tạo và phát hành tác phẩm đó. Trên thực tế, ở Việt
Nam đã có trường hợp người tạo ra phần mềm dạy tiếng Anh đa phương tiện khi đi
đăng ký quyền tác giả đã gặp khó khăn trong việc tìm kiếm và xin phép chủ sở hữu
quyền tác giả đối với các bài tập, các hình ảnh mà mình đưa vào chương trình, đồng
thời gặp khó khăn trong việc định danh tác phẩm của mình thuộc loại hình nào?
Chương trình máy tính, hay sưu tập dữ liệu, hay tác phẩm nghe nhìn? Cục bản
quyền tác giả cũng gặp vướng mắc và từ chối đăng ký cho chương trình đó.


Pháp luật Việt Nam chỉ thuần túy liệt kê các trường hợp sử dụng hợp lý tác
phẩm mà khơng đưa ra các tiêu chí về “fair use” như pháp luật nhiều nước, nên tịa
án gặp khó khăn trong việc giải thích và áp dụng luật khi giải quyết tranh chấp.


Ví dụ, theo pháp luật quyền tác giả Hoa Kỳ, có bốn yếu tố để tịa án dựa vào
đó đánh giá một trường hợp sử dụng tác phẩm có phải là “fair use” hay khơng:99


Thứ nhất, mục đích và tính chất của việc sử dụng: mục đích thương mại hay


phi thương mại, có thuộc trường hợp “phê bình, bình luận, học thuật, nghiên cứu,
đưa tin thời sự hay giảng dạy”, mức độ “sáng tạo” (transformative) của việc sử dụng
(có biến đổi so với tác phẩm được sử dụng hay là sao chép nguyên xi. Tiêu chí về
mức độ sáng tạo, biến đổi của việc sử dụng là tiêu chí khá hay, nó thể hiện sự cân
bằng giữa quyền tác giả và quyền tự do sáng tạo, thực hành văn hóa của cơng
chúng. Do đó, pháp luật Mỹ cho phép trường hợp “parody” (bắt chước, nhại lại, chế
lại tác phẩm của người khác để gây cười, trào phúng) cũng có thể được coi là “sử
dụng hợp lý” (fair use), nếu thỏa mãn các tiêu chí khác. Tuy nhiên, tiêu chí về sự
biến đổi mang tính sáng tạo này khơng được ghi nhận trong pháp luật Việt Nam.


Thứ hai, tính chất của tác phẩm được bảo hộ. Một số loại hình tác phẩm có
mức độ sáng tạo cao hơn, do đó cần được bảo hộ ở mức cao hơn so với các tác


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

phẩm khác, ví dụ: tác phẩm điện ảnh được bảo hộ ở mức rất cao, tác phẩm văn học
hư cấu có mức độ sáng tạo lớn hơn so với tác phẩm phi hư cấu. Đối với các tác
phẩm có mức độ sáng tạo cao, khó để chứng minh việc sử dụng là “hợp lý” hơn.


Thứ ba, số lượng và thực chất của phần được sử dụng, trong mối quan hệ với
toàn bộ tác phẩm.


Thứ tư, tác động của việc sử dụng lên thị trường tiềm năng hoặc giá trị của
tác phẩm được bảo hộ.


Việc đánh giá “fair use” phụ thuộc vào các tình tiết cụ thể của từng trường
hợp, trên cơ sở phân tích bốn tiêu chí (yếu tố) kể trên. Mặc dù cách quy định và áp
dụng như vậy dẫn đến tính khơng chắc chắn về kết quả đánh giá, nhưng lại rất linh
hoạt, không cứng nhắc, với mục tiêu vừa bảo vệ quyền tác giả một cách hữu hiệu
vừa bảo đảm quyền tiếp cận văn hóa, quyền tự do sáng tạo của cơng chúng. Đây là
điểm mà các nhà làm luật Việt Nam cần cân nhắc tham khảo, đồng thời cần từng
bước nâng cao năng lực của tòa án trong việc phân tích, đánh giá các tiêu chí xác


định hành vi “sử dụng hợp lý”.


<b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>


1. Phạm Quỳnh Phương, Quyền văn hóa: từ lý luận đến thực tiễn ở Việt Nam,
Tạp chí Văn hóa học, số 4(8) – 2013, tr. 54-65.


2. Lê Thị Nam Giang, Nguyên tắc cân bằng lợi ích của chủ sở hữu trí tuệ và lợi


ích của xã hội, Tạp chí Khoa học pháp lý số 2/2009.


3. Molly Beutz Land, "Intellectual Property Rights and the Right to Participate
in Cultural Life" (2009).Innovation Center for Law and Technology.Book 1.


4. Cultural Rights And Intellectual Property Debates, Human Rights Dialogue:


"Cultural Rights" (Spring 2005), April 22, 2005,


/>3/5152


5. Xuan-Thao Nguyen (2013), <i>Luật Sở hữu trí tuệ: Án lệ, Lý thuyết và Bài tập </i>


</div>

<!--links-->
<a href=' />

×