Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tải Phân tích tác phẩm "Độc Tiểu Thanh ký" của Nguyễn Du (lớp 10) - Những bài văn hay lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.69 KB, 19 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Phân tích bài thơ “Độc Tiểu Thanh ký” của Nguyễn Du</b>
<b>Bài làm 1</b>


Nguyễn Du là một cái tên mà nhắc đến thì ai cũng biết. Tên tuổi của ông thường gắn liền với
Truyện Kiều thế nhưng ơng cịn nhiều sáng tác khác nữa. Có thể nói Nguyễn Du là một người có
sự đồng cảm với những người phụ nữ đương thời. Chính vì thế những bài thơ của ơng thường
khóc cho số phận của những con người hồng nhan bạc mệnh. Ngồi Kiều ra thì chúng ta cịn
thấy Nguyễn Du khóc thương cho nàng tiểu Thanh đời nhà Minh qua tác phẩm độc tiểu thanh
ký. Qua bài thơ Nguyễn Du thể hiện sự thương cảm cho những con người tài sắc nhưng bạc
mệnh. Đồng thời qua đó ơng thể hiện sự day rứt trăn trở cho số phận những người có tài trong đó
có chính bản thân ông.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Mở đầu bài thơ tác giả dựng lên một hình ảnh Hồ Tây đầy những u ám, nó khơng đẹp phảng phất
ngây ngất nữa mà nó mang một nỗi niềm oan ức của người con gái đa tài có nhan sắc kia:


“Tây Hồ hoa uyển tán thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư. ”


(Tây Hồ cảnh đẹp hóa gị hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn. )


Nhắc đến Tây Hồ người ta thường nghĩ đến những cảnh đẹp thế nhưng ở đây Nguyễn Du lại nói
là gị hoang. Có thể nói ở đây ngày xưa đúng là một cảnh đẹp thật đấy nhưng giờ đây thì khơng.
Nó chỉ cịn lại một gị hoang vu mà thôi. ở nơi ấy nàng Tiểu Thanh đã mất đi và chính sự mất đi
ấy đã làm cho cảnh vật nơi đây âm u tràn trong những uất ức mà cơ phải chịu. Nó khơng cịn đẹp
nữa giống như người con gái ấy khơng cịn nữa. Tây Hồ thành gị hoang cũng như cơ ấy đã ra đi
và giờ đây chỉ cịn là một nắm xương khơ mà thôi. Hai chữ “thồn thức” như gợi lên bao đau đớn
buồn thương của người con gái ấy. Tiếng lòng Tiểu Thanh hay chính là tiếng lịng của Nguyễn
Du. Ở đây có một sự đồng điệu về nhân vật và tác giả. Họ cùng chung một sự nghiệp văn
chương cho nên trước sư ra đi của người tài giỏi Nguyễn Du đồng điệu tâm hồn mình.



Đến hai câu thơ sau chúng ta lại thấy được những linh hồn của cô nàng tài sắc ấy vẫn còn vấn
vương trên cõi trần, vẫn ở đâu đó khiên cho nhà thơ cảm nhận được:


“Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư:”


(Son phấn có thần chơn vẫn hận,
Văn chương khơng mệnh đốt cịn vương. )


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Nhà thơ tiếp tục bày tỏ nỗi lịng mình với nàng Tiểu Thanh tài sắc trong hai câu thơ tiếp. có thể
nói rằng những câu thơ như càng ngày càng thấm đẫm sự thương xót người xưa của nhà thơ. Từ
đó ta thấy được nhà thơ đang như “thương người như thể thương thân” vậy:


“Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang. )”


Nỗi hận của nàng Tiểu Thanh là một nỗi hận kim cổ, câu thơ chứa đựng biết bao nhiêu tuyệt
vọng. Không những thế Nguyên Du đã nâng nỗi hận của Tiểu Thanh thành nỗi hận của đời này
truyền sang đời khác. Cái chết oan ức của Tiểu Thanh không thể hết oan ức được. Phong vận ở
câu thơ thứ sáu khơng có nghĩa là sự phong lưu về vật chất mà là sự phong lưu về tinh thần, Nói
cách khác là chỉ cái tâm, cái tài của những kẻ tài hoa. Con người tài hoa là tinh túy của trời đất,
vậy mà sao số phận họ lại nhiều vất vả, truân chuyên đến vậy? đúng là:


“có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần”


Càng thương tiếc Tiểu Thanh bao nhiêu thì Nguyễn Du lại nghĩ đến bản thân mình bấy nhiêu:
“Bất tri tam bách dư niên hậu, .



Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng ?)


Nhà thơ lo lắng cho bản thân mình trước sự trơi chảy của cuộc đời. Rồi mai này Nguyễn Du
cũng mất đi nhưng khơng biết rằng có ai khóc Tố Như không. Câu hỏi cất lên mang đầy sự trăn
trở về số phận mình. Ba trăm năm con số ấy là rất dài nhưng đến ngay nay thì người ta đã nhớ
đến Nguyễn Du rất nhiều rồi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>Bài làm 2</b>


Độc Tiểu Thanh kí là một trong những bài thơ chữ Hán hay nhất của Nguyễn Du in trong Thanh
Hiên thi tập. Có thể Nguyễn Du sáng tác bài này trước hoặc sau khi được triều đình cử đi sứ sang
Trung Quốc.


Thắng cảnh Tây Hồ gắn liền với giai thoại về nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn, sống vào đầu
đời nhà Minh. Vì hồn cảnh éo le, nàng phải làm vợ lẽ một thương gia giàu có ở Hàng Châu, tỉnh
Chiết Giang. Vợ cả ghen, bắt nàng ở trong ngôi nhà xây biệt lập trên núi Cô Sơn. Nàng có làm
một tập thơ ghi lại tâm trạng đau khổ của mình. ít lâu sau, Tiểu Thanh buồn mà chết, giữa lúc
tuổi vừa mười tám. Nàng chết rồi, vợ cả vẫn ghen, đem đốt tập thơ của nàng, may cịn sót một số
bài được người đời chép lại đặt tên là Phần dư (đốt cịn sót lại) và thuật luôn câu chuyện bạc
phận của nàng.


Nguyễn Du đọc những bài thơ ấy, lịng dạt dào thương cảm cơ gái tài hoa bạc mệnh, đồng thời
ông cũng bày tỏ nỗi băn khoăn, day dứt trước số phận bất hạnh của bao con người tài hoa khác
trong xã hội cũ, trong đó có cả bản thân ơng.


Phiên âm chữ Hán:



Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.


Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.


Cổ kim hận sự thiên nan vấn;
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ?
Dịch thơ Tiếng Việt:


Tây Hồ cảnh đẹp hóa gị hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.


Son phấn có thần chơn vẫn hận,
Văn chương khơng mệnh đốt cịn vương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng ?


Đến với Tiểu Thanh ba trăm năm sau ngày nàng mất, trong lòng nhà thơ Nguyễn Du dậy lên cảm
xúc xót xa trước cảnh đời tang thương dâu bể:


Tây Hổ hoa uyển tẫn thành khư,
(Tây Hồ cảnh đẹp hóa gị hoang,)


Câu thơ có sức gợi liên tưởng rất lớn. Cảnh đẹp năm xưa đã thành phế tích, đã bị hủy hoại chẳng
cịn lại gì. Trên gị hoang ấy chơn vùi nắm xương tàn của nàng Tiểu Thanh xấu số. Nói đến cảnh


đẹp Tây Hồ, chắc hẳn tác giả cịn ngụ ý nói về con người đã từng sống ở đây, tức Tiểu Thanh.
Cuộc đời của người con gái tài sắc này cũng chẳng còn lại gì ngồi những giai thoại về nàng.
Cảnh ấy khiến tình này nhân lên gấp bội. Trái tim của nhà thơ thổn thức trước những gì gợi lại
một kiếp người bất hạnh:


Độc điếu song tiền nhất chi thư.
(Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.)


Tiểu Thanh đã bày tỏ tâm trạng của mình qua những bài thơ đó như thế nào?


Chắc chắn là nỗi buồn tủi cho thân phận, nỗi xót xa cho duyên kiếp dở dang và thống thiết hơn
cả là nỗi đau nhân tình khơng người chia sẻ. Tiếng lòng Tiểu Thanh đồng điệu với tiếng lòng
Nguyễn Du nên mới gây được xúc động mãnh liệt đến thế. Nhà thơ khóc thương Tiểu Thanh tài
hoa bạc mệnh, đồng thời cũng là khóc thương chính mình – kẻ cùng hội cùng thuyền trong giới
phong vận.


Nguyễn Du cỏ cảm giác là dường như linh hồn Tiểu Thanh vẫn còn vương vấn đâu đây. Nàng
chết lúc mới mười tám tuổi trong cô đơn, héo hắt, đau khổ. Oan hồn của nàng làm sao tiêu tan
được?


Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vơ mệnh lụy phần dư:


(Son phấn có thần chơn vẫn hận,
Văn chương khơng mệnh đốt cịn vương.)


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

mãi với thời gian như Tây Thi, Dương Quý Phi tên tuổi đời đời còn lưu lại. Nỗi hận của son
phấn Cũng là nỗi hận của Tiểu Thanh, của sắc đẹp, của cái Đẹp bị hãm hại, dập vùi. Nó có thể bị
đày đọa, bị chơn vùi, nhưng nó vẫn để thương để tiếc cho muôn đời.



Văn chương là cái tài của Tiểu Thanh nói riêng và cũng là vẻ đẹp tinh thần của cuộc đời nói
chung. Văn chương vơ mệnh bởi nó đâu có sống chết như người? Ấy vậy mà ở đây, nó như có
linh hồn, cũng biết giận, biết thương, biết cố gắng chống chọi lại bạo lực hủy diệt để tổn tại, để
nói với người đời sau những điều tâm huyết. Dụ nó có bị đốt, bị hủy, nhưng những gì cịn sót lại
vẫn khiến người đời thương cảm, xót xa. Nhà thơ đã thay đổi số phận cho son phấn, văn chương,
để chúng được sóng và gắn bó với Tiểu Thanh, thay nàng nói lên nỗi uất hận ngàn đời. Hai câu
thơ đầy ý vị ngậm ngùi, cay đắng, như một tiếng khóc thổn thức, nghẹn ngào.


Đến hai câu luận:


Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.)


Nhà thơ tiếp tục bày tỏ niềm thương cảm của lịng mình. Câu thơ: cổ kim hận sự thiên nan vấn
chứa đựng sự tuyệt vọng. Từ nỗi hận nhỏ là hận riêng cho số phận Tiểu Thanh, Nguyễn Du nâng


cao, mở rộng thành nỗi hận truyền kiếp từ xưa tới nay của giới giai nhân tài tử. Tài hoa bạc
mệnh, đó có phải là quy luật bất di bất dịch của Tạo hóa ? Là định mệnh rõ ràng khắt khe của số
phận? Nếu đúng như thế thì nguyên nhân là do đâu? Trải mấy ngàn năm, điều đó đã tích tụ thành


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Càng ngẫm nghĩ, nhà thơ càng thương tiếc Tiểu Thanh và càng thương thân phận mình. Từ
thương người, ơng chuyển sang thương thân:


Bất tri tam bách dư niên hậu, .
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng ?)



Câu hỏi đậm sắc thái tu từ cho thấy Nguyễn Du vừa băn khoăn vừa mong đợi người đời sau đồng
cảm và thương cảm cho số phận của mình. Có thể hiểu ba trăm năm là con số tượng trưng cho
một khoảng thời gian rất dài. Ý Nguyễn Du muốn bày tỏ là giờ đây, một mình ta khóc nàng, coi
nỗi oan của nàng như của ta. Vậy sau này liệu có cịn ai mang nỗi oan như ta nhỏ lệ khóc ta
chăng ? Câu thơ thể hiện tâm trạng cô đơn của nhà thơ vì chưa tìm thấy người đồng cảm trong
hiện tại nên đành gửi hi vọng da diết ấy vào hậu thế. Hậu thế khơng chi khóc cho riêng Tố Như,
mà là khóc cho bao kiếp tài hoa tài tử khác.


Nhà thơ thấy giữa mình và Tiểu Thanh có những nét đồng bệnh tương liên. Tiểu Thanh mất đi,
ba trăm năm sau có Nguyễn Du thương xót cho số phận nàng. Liệu sau khi Tố Như chết ba trăm
năm, có ai nhớ tới ơng mà khóc thương chặng?


Câu thơ như tiếng khóc xót xa cho thân phận, thương mình bơ vơ, cơ độc, khơng kẻ tri âm, tri kỉ;
một mình ơm mối hận của kẻ tài hoa bạc mệnh giữa cõi đời. Dường như nhà thơ, đang mang tâm
trạng của nàng Kiều sau bao sóng gió cuộc đời: Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh, Giật mình, mình lại
thương mình xót xa.


Mở đầu bài thơ là thương người, kết thúc bài thơ là thương thân. Tứ thơ khơng có gì lạc điệu bởi
đến đây, Tiểu Thanh và Nguyễn Du đã hòa làm một – một số kiếp tài hoa mà đau thương trong
muôn vàn số kiếp tài hoa đau thương trong xã hội phong kiến cũ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

cảm của nhà thơ rất nhạy bén trước nỗi đau to lớn ấy. Giống như truyện Kiều, Độc Tiểu Thanh kí
là đỉnh cao tư tưởng nhân văn của đại thi hào Nguyễn Du.


<b>Bài làm 3</b>


Nguyễn Du tên là chữ Tố Như. hiệu Thanh Hiên, biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ (Nhà săn bắn
núi Hồng Sơn), sinh năm 1765 thời Lê mặt tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.


Thân sinh là cụ Hồng Giáp Xn Quận Cơng Nguyễn Nghiễm, thủ tướng Lê triều. Gia


đình cụ Nguyễn Du là một gia đình Nho học lỗi lạc, cả nhà đều làm quan to dưới triều Lê khiến
thời ấy đã có câu ca dao ca ngợi:


<i>Bao giờ ngàn Hống hết cây,</i>
<i>Sông Rum hết nước, họ này hết quan.</i>


Gia đình Nguyễn Du cịn là một gia đình văn học nổi tiếng. Cụ Nguyễn Nghiễm từng gửi
gắm tâm sự mình vào bài phú “Khổng Tử mộng Chu Công”. Thời bấy giờ nước ta có 5 danh sĩ
nổi tiếng (An Nam ngủ tuyệt) mà gia đình họ Nguyễn đã có 2 người được nêu danh (Nguyễn Du
và Nguyễn Đạm).


Nguyễn Du là con bà trắc thất Trần Thị Tần, người huyện Đông Ngạn tỉnh Bắc Ninh. Bà có
4 người con mà Nguyễn Du là con thứ ba. Năm 18, Nguyễn Du thi đỗ Tam trường (Tú tài), và
bắt đầu cuộc đời chìm nổi theo vận mệnh đất nước.


Năm 1802, vua Gia Long lên ngôi, kêu gọi tôi thần nhà Lê ra làm quan. Vua cũng cho triệu
Nguyễn Du. Không thể từ chối được, nên năm ấy ông ra làm Tri huyện Phù Dực, tỉnh Thái Bình,
sau lại thăng Tri Phủ. Thường Tín cùng tỉnh. Làm quan được mấy năm thì ơng cáo bệnh xin về.
Năm 1806, ơng lại được triệu về Kinh với chức Đông Các học sĩ.


Năm 1809, được đưa làm Cai bạ tỉnh Quảng Bình (tức là Bố Chính).


Năm 1813, ơng được thăng cần Chính điện học sĩ và được làm Chánh sứ sang cống Tàu đáp lễ
sắc phong An Nam Quốc vương. Thời gian này, Nguyễn Du viết Bắc hành tạp lục. Đi sứ về, ông
được thăng chức Lễ Bộ Hữu Tham Tri.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Bài thơ Độc Tiểu Thanh Kí là một bài thơ nổi tiếng bằng chữ Hán, được in trong Thanh
Hiên thi tập, thể hiện lòng nhân ái và sự đồng cảm của nhà thơ về nàng Tiểu Thanh tài sắc nhưng
phận bạc.



Nguyễn Du với Tiểu Thanh là hai người xa lạ. Vậy Tiểu Thanh là ai?


Tương truyền Tiểu Thanh là một cô gái Trung Quốc có tài và có sắc, sống khoảng đầu thời
Minh. Vốn thông minh nên từ nhỏ cô đã thông hiểu nhiều môn nghệ thuật như thi ca, âm nhạc.
Năm 16 tuổi, cô làm vợ lẽ một nhà quyền quý. Vợ cả là người hay ghen, bắt cô phải sống riêng
trên Cô Sơn, cạnh Tây Hồ. Nỗi uất ức đau khổ được cô gửi gắm vào thơ nhưng bài thơ đã bị
người vợ cả đốt, may mắn có một số bài thơ cịn sót lại. Người ta cho khắc in số thơ đó, đặt tên
là Phần dư (Bị đốt cịn sót lại). Sống trong tình cảnh đó, Tiểu Thanh sinh bệnh và từ giã cõi đời ở
tuổi 18. Nguyễn Du cảm thương người con gái tài sắc phận bạc ấy mà làm bài thơ này. Bài thơ
chữ Hán được dịch nghĩa theo văn xuôi là:


Vườn hoa bên Tây Hồ đã thành bãi hoang rồi. Chỉ viếng nàng qua một tập sách đọc trước
của sổ. Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết. Văn chương khơng có số
mệnh mà cũng bị đốt dở. Mối hận cổ kim khó mà hỏi trời được. Sống phong lưu, nhàn nhã cũng
tự mang bản án vào mình. Ta tự thấy là người cùng một hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết
phong nhã. Không biết hơn ba trăm năm sau, thiên hạ ai người khóc Tố Như?


Bài thơ khá hay nên có nhều người dịch ra tiếng Việt. Giản Chi, Nguyễn Quảng Tuân,
Quách Tuân, Vũ Tam Tập dịch theo thể thơ của nguyên tác, riêng Vũ Hồng Chương thì diễn ra
thơ lục bát. Dù là hình thức nào, người dịch vẫn khơng làm chệch hướng nội dung của bài thơ. Ở
đây, chúng ta tìm hiểu, cảm nhận bài thơ theo bản dịch của Vũ Tam Tập.


Hai câu đề của bài thơ:


Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Thanh Kí. Chính hai chi tiết, hai hình ảnh “gị hoang” và “mảnh giấy tàn” này là nguyên nhân
khiến nhà thơ “thổn thức bên song". Cảm xúc của nhà thơ về nàng Tiểu Thanh được diễn tả rõ
hơn ở hai câu thực:



<i>Son phấn có thần chơn vẫn hận</i>
<i>Văn chương khơng mệnh đốt còn vương.</i>


Hoán dụ “son phấn” để chỉ nàng Tiểu Thanh. Tiểu Thanh dù đã chết (chơn) nhưng linh hồn
chắc phải xót xa, căm giận người đã đốt những trang thơ của nàng. “Hận” vì hai lẽ: ghen tng
mù qng khiến nàng phải chết, và đốt những trang thơ vốn chẳng có số phận {mệnh), và chúng
vẫn khơng cháy hết như cịn nuối tiếc (còn vương) muốn giữ phần còn lại cho hậu thế.


Trên là những câu thơ tức cảnh sinh tình, cảm thương cho người tài sắc nhưng bạc phận. Từ
đó nhà thơ đã bàn rộng thêm ở hai câu luận:


<i>Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi</i>
<i>Cái án phong lưu khách tự mang</i>


Hình như nhà thơ muốn an ủi nàng Tiểu Thanh, tự nhủ với lịng mình rằng xưa nay những
người tài hoa nhưng bạc mệnh cũng đã có nhiều. Việc đó thì chỉ có trời mới hiểu. Nhưng dù trời
có hiểu vẫn chẳng thể nào can thiệp được sự ganh ghét của người vợ cả, của người đời về lối
sống phong lưu đài các, nhàn nhã của người có tài. Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du đã viết:


<i>Trăm năm trong cõi người ta,</i>
<i>Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.</i>


Ban đầu, các nhà văn xưa mượn thuyết tài mệnh tương đối này để miêu tả cuộc đời của những
phụ nữ có nhan sắc, hiền đức nhưng phải chịu nhiều nỗi oan khiên. Nguyễn Dữ với truyện Người
con gái Nam Xương, Nguyễn Gia Thiều viết về cung nữ trong Cung oán ngâm khúc, Đặng Trần
Côn với người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm... Đấy là những mảnh đời riêng biệt.


Riêng với Nguyễn Du, nhà thơ lại quan tâm đặc biệt đến đời của những phụ nữ có cả sắc lẫn
tài “thi hoa lẫn... cung thương làu bậc ngũ âm...” (Kiều) khá tương đồng với thân phận của


những nhà nho thất sủng trong xả hội loạn lạc, suy thoái. Ay là Dương Quý Phi, Tiểu Thanh,
Người con gái gảy đàn ở Thăng Long trong thơ chữ Hán; là Đạm Tiên, Thúy Kiều trong Truyện
Kiều. Ây là những kẻ “tài tình chi lắm cho trời đất ghen” mà nhà thơ cảm thơng với họ đồng thời
cũng ngụ ý ví với thân phận của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Ấy là dự cảm của nhà thơ về số phận của mình. Với Tiểu Thanh, người phụ nữ xa lạ có phần
đời bất hạnh khiến nhà thơ thương khóc như vậy dù nàng sống trước nhà thơ ngoài mấy trăm
năm, khơng biết ngồi ba trăm năm sau có ai thương cảm khóc nhà thơ chăng?


Biết được số phận của Tiểu Thanh, Nguyễn Du liên tưởng đến số phận của mình. Đúng vậy,
nhưng như trên đã viết, nhà thơ nghĩ đến thân phận của những nhà nho, những người có tài,
trong đó có ơng. Đấy là mối đồng cảm “tình lại gặp tình”, như Thúy Kiều trứớc mộ Đạm Tiên,
“thấy người nằm đó biết sau thế nào?” Đó là sự liên tưởng, mối ưu tư tự nhiên của những người
có đời sống tinh thần thiên về tình cảm.


Trước mộ Đạm Tiên.


<i>Kiều rằng: “Những đấng tài hoa,</i>
<i>Thác là thể phách còn là tinh anh”</i>


Công chúng, thời nào cũng thế, rất cơng minh trong việc tìm tịi, chắt lọc “tinh anh” của
“đấng tài hoa”. Điều ấy chúng ta thây ở tục ngữ, những bài ca dao, những tác phẩm văn chương
có từ thuở xa xưa tới nay vẫn còn được truyền tụng. Ngay cả Truyện Kiều, hay Độc Tiểu Thanh
kí của Nguyễn Du đã qua hai trăm năm vẫn còn được truyền tụng, và sẽ còn được truyền tụng lâu
dài.


<b>Bài làm 4</b>


“Độc Tiểu Thanh ký” là một câu chuyện đời được kể bằng mấy câu thơ cô đọng hàm súc của
Nguyễn Du. Có thể coi đây là bài thơ bằng chứ Hán hay nhất của ông in trong tập Thanh hiên thi


tập. Bài thơ chính là tiếng lịng tiếc thương, xót xa cho số phận của người con gái tài hoa nhưng
bạc mệnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Nguyễn Du khi bắt gặp những bài thơ ấy đã nảy sinh lịng trắc ẩn, xót thương cho than phận tài
hoa bạc mệnh. Và qua nhân vật này, ơng phản chiếu vào cuộc đời mình, nhận ra cuộc đời có q
nhiều bất cơng, khổ ải.


Nguyễn Du đã mở đầu bài thơ bằng cách gợi ra không gian nơi nàng Tiểu Thanh từng sống:
<i>Tây Hồ cảnh đẹp hóa gị hoang</i>


<i>Thổn thức bên song mảnh giấy tàn</i>


Hai câu thơ có sức gợi, sức ảm ánh rất lớn, khiến người đọc tưởng tưởng ra không gian, khung
cảnh rất xa xa – nơi người con gái bạc mệnh đã từng sống. Tây Hồ là nơi cảnh đẹp hữu tình
nhưng lại hóa gị hoang váng, heo hút vì có người con gái mãi mãi chon vùi tuổi thanh xuân của
mình ở đây.


Những tâm sự chồng chất ấy, nàng đã giãi bày qua những vần thơ đẫm nước măt. Hình ảnh
người con gái có chồng cũng như khơng, một mình vị võ, “thổn thức” bên song cửa sổ với
những mảnh giấy tàn viết nên tâm sự đau lịng. Khơng cịn gì buồn và thê thảm hơn khi “có
chồng hờ hững cũng như khơng”. Cuộc địi của những người phụ nữ xinh đẹp, tài hoa trong xã
hội phong kiến dường như đều bị chà đạp như thế.


Nguyễn Du có cảm giác như mảnh giấy tàn ấy vẫn còn vương vấn linh hồn của nàng, cịn phảng
phất cho đến tận bây giờ.


<i>Ơng xót xa cho than phận bạc mệnh đó</i>
<i>Son phấn có thần chon vẫn hận</i>
<i>Văn chương khơng mệnh đốt cịn vương</i>



Hai câu thơ này đã tốt lên sự xót xa, chua xót đến tột độ của Nguyễn Du khi nghĩ đến người con
gái mệnh bạc ấy. Đã 300 năm trôi qua nhưng hình ảnh của nàng vẫn cịn vương vấn, khiến người
địi về sau khơng khỏi xót thương. Tác giả dùng từ « son phấn » để chỉ nhan sắc của người con
gái dù có xinh đẹp bao nhiêu thì cũng bị vùi dập, chà đạp không tiếc thương, cuối cùng đành ôm
hận mà chết. Những trang thơ mà nàng viết, bị người ta đốt cháy hết thì nó vẫn cịn được lưu
truyền cho đến ngày nay.


Hai câu luận đã thể hiện được sự đồng cảm, xót xa cho thân phận tài hoa này :
<i>Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi</i>


<i>Cái án phong lưu khách tự mang</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

mình nhiều khổ đau. Những người phụ nữ tài hoa, xinh đẹp tư xưa đến nay dường như đã mang
trong mình cái « án » oan nghiệt, không thể rũ bỏ được.Hay chính xã hội phong kiến đã đẩy họ
vào bước đường cùng nhiều chua cay như thế này.


Và ở hai câu kết, tác giả đã vận vào bản thân mình, vận sự bạc mệnh của người phụ nữ tài hoa ấy
<i>Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa</i>


<i>Người đời ai khóc Tố Như chăng?</i>


Một câu hỏi tu từ đầy ngậm ngùi và chua xót khi nghĩ đến cảnh mình sau 300 năm nữa. Tiểu
Thanh sau 300 năm vẫn khiến người đọc xót xa, day dứt, nhưng liệu rằng mình có cịn được như
thế, hay hóa thành cát bụi.


Câu hỏi đậm giá trị nhân văn, ơng muốn hỏi dị tâm ý của mọi người khi nghĩ đến số phận của
những người tài hoa sau một thời gian dài sẽ như thế nào. Từ số kiếp tài hoa bạc mệnh của Tiểu
Thanh, ông đã liên tưởng đến cuộc đời nhiều sóng gió của bản thân mình. Câu thơ cịn khiến cho
người đọc phải nghĩ, phải day dứt và xót xa trăm nghìn lần.



Bài thơ “Độc tiểu thanh ký” của Nguyễn Du là một kiệt tác để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi
niềm thương cảm về số phận bất hạnh của nhiều người trõng xã hội, lên án xã hội chà đạp lên
nhân phẩm của họ.


<b>Bài làm 5</b>


Thơ văn Nguyễn Du tựa như một kim tự tháp sừng sững giữa đất trời mênh mông. Ba mặt của
kim tự tháp ấy, mỗi mặt đều mang một vẻ đẹp kỳ lạ. Mặt chính diện óng ánh sắc màu “Truyện
Kiều” với “Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”. Mặt trái cấu trúc bằng một thứ vật liệu dân
dã với “Thác lời trai phường Nón”, với “Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu”. Và mặt phải của
ngôi tháp là những lớp men ngọc, những khối đá hoa cương, đã được tạo, được khắc bằng
“Thanh Hiên thi tập”, “Nam trung tạp ngâm”, “Bắc hành tạp lục”. Nhân dân ta rất lấy làm tự hào
về thi hào dân tộc Nguyễn Du.


Nếu “Truyện Kiều” là cơng trình nghệ thuật bậc thầy của Nguyễn Du về nỗi đau, niềm vui của
những kiếp người thì thơ chữ Hán lại cho thấy mọt cách trực diện sự khám phá tài tình của ông
về cái thế giới sâu thẳm ẩn náu trong đáy tâm hồn nhà thơ. Thi sĩ Xuân Diệu đã viết: “Chính thơ
chữ Hán chứa đựng bóng hình, đời sống, nét mặt, mái tóc, dấu chân, tâm tình, suy nghĩ của
Nguyễn Du”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Minh. Nàng lấy làm lẽ một thương gia họ Phùng. Vợ cả đánh ghen, bắt nàng “biệt cư” trong một
ngôi nhà trên núi Cô Sơn cạnh Tây Hồ. Tiểu Thanh có một tập thơ nói lên cuộc đời khát khao
hạnh phúc và đầy nước mắt của mình. Tiểu Thanh đau khổ mà chết giữa lúc tuổi đời vừa mười
tám xuân xanh. Nàng chết rồi mà tập thơ của nàng vẫn bị vợ cả đem đốt, may còn sót lại một số
trang, một số bài và được người đời chép lại gọi là phần dư cào. Thi hào Nguyễn Du trên đường
đi sứ qua Tây Hồ, đã đến viếng mộ Tiểu Thanh và đọc tập dư cảo của nàng. Đọc hai câu trong
phần đề ta cảm nhận rõ điều đó. Đúng là bài thơ “Độc Tiểu thanh ký” nằm trong Bắc hành tạp
lục”.


Từ lúc nàng Tiểu Thanh sống và chết đến lúc Nguyễn Du đi sứ (1813) qua Tây Hồ đã hơn ba


trăm năm. Đã có biết bao vật đổi sao dời, biển dâu, dâu biển. Thế mà một vài bài thơ mỏng manh
của nàng Tiểu Thanh vẫn làm cho một nhà thơ phương Nam rơi lệ? Mở đầu bài thơ là cả một sự
bùi ngùi thương cảm:


<i>“Tây hồ hoa uyển tận thành khư,</i>
<i>Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”</i>


“Hoa uyển” và “khư” là hai khái niệm chuyển hóa đối lập. Cảnh xưa đẹp thế, nay đã hoang tàn,
phế tích. Chữ “tận” nghĩa là hết, là kiệt cùng. Bao trùm lên cảnh vật là một màu sắc tang thương,
đau buồn. Nơi gò hoang ấy chỉ còn lại nấm mồ người bạc mệnh và một mảnh giấy tàn (nhất chỉ
thư). Một mình nhà thơ đứng lặng trước cửa sổ đọc “mảnh giấy tàn” điếu người xấu số. Thương
cuộc đời bể dâu cũng là thương người, thương người bạc mệnh cũng là thương mình. Xót xa và
thương cảm. Đó là sự cảm thông của khách tài tử với giai nhân bạc mệnh, của người đang sống
đối với người đã khuất. Sau hơn ba trăm năm nàng Tiểu Thanh mất mà “mảnh giấy tàn” của
nàng vẫn còn làm cho Nguyễn Du thổn thức, rơi lệ!


Hai câu thơ trong phần thực như chứa đầy cái uất ức của Tố Như:
<i>“Chỉ phấn hữu thần liên tử hậu</i>
<i>Văn chương vô mệnh lụy phần dư”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

như hoa tàn nhưng hương hoa, linh hồn của hoa còn tỏa ngát đau đây, sắc đẹp của giai nhân vẫn
sống mãi cùng tên tuổi họ: “Thác là thể phách, cịn là tinh anh”. Nỗi hận và xót xa của “son
phấn” chính là nỗi đau thương, nỗi hận của nàng Tiểu Thanh: “Tuổi trẻ bị chôn vùi, sắc đẹp bị
hãm hại! Văn chương là tài năng, là vẻ đẹp tinh thần của Tiểu Thanh. Văn chương vốn vô mệnh
vì nó vơ tri, đâu có sống, chết như Người. Ấy vậy mà “mảnh giấy tàn” của người bạc mệnh “vẫn
trơ gan cùng tuế nguyệt”, chống chọi lạc cùng cái ác, vươn lên mà tồn tại, làm nhức nhối người
đời, xưa và nay. Nguyễn Du nói về “son phấn” và “văn chương” là để khẳng định ngợi ca tài sắc
Tiểu Thanh, của mọi tài tử giai nhân trong cuộc đời bể dâu. Và chính Nguyễn Du, với cảm quan
người nghệ sĩ liên tài từ “mảnh giấy tàn” mà nói lên nỗi uất hận ngàn đời của Tiểu Thanh, của
những hồng nhan bạc mệnh!



Nghĩ về tài sắc giai nhân và cái đẹp trong cõi nhân gian, Nguyễn Du xót xa suy ngẫm về lẽ đời
và tình người trong mọi điều oan trái:


<i>“Cổ kim hận sự thiên nan vấn</i>
<i>Phong vận kỳ oan ngã tự cư”</i>


Sự ốn hận xưa và nay khó mà hỏi trời được. Đất dày trời cao “Oan này còn một kêu trời nhưng
xa” (“Truyện Kiều”). Nói hỏi trời vì không thể hỏi người. Và khi đã “thiên nan vấn” tức là nỗi bế
tắc, oan khổ đày rẫy mọi nơi, mọi chốn. Câu thơ như một tiếng kêu thương rung động cõi đất,
trời. Và nỗi oan phong vận kỳ dị kia, ta tự mình lại buộc lấy mình. Phong nhã, phong lưu cùng
với đào hoa là vẻ đẹp, là bản sắc của con người. Trong cõi đời ta mấy ai được phong nhã hào
hoa? Phong lưu là niềm mơ ước của nhiều người. Sao Nguyễn Du lại gọi là “cái án phong lưu”?
Khách phong lưu đáng lẽ được hưởng cái nhàn nhã, thanh thản cuộc đời sao lại phải mang cái án
ối ăm vào mình? Đúng là nghịch lý, nghịch cảnh. “Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy!” . Đã bao
đời nay, “cái án phong lưu ấy” đã đeo đẳng vô số tao nhân mặc khách. Nguyễn Du đâu phải là kẻ
“Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa” mà là đã nhập thân vào Tiểu Thanh đẻ nói lên những
điều day dứt, băn khoăn bao đời nay. Khách tài tử phong lưu đã tri âm với giai nhân bạc mệnh là
vậy. Họ là tài tình, là cái đẹp, là khát vọng về cái đẹp, nên họ cảm thương nhau. Nguyễn Du đã
cảm thương Duonwg Quý Phi (Dương Phi cố lý), đã “thổn thức” Tiểu Thanh,… với cảm tâm của
một khách tài tử. Thương nàng Tiểu Thanh bao nhiêu, ông càng thương mình bấy nhiêu! “Độc
Tiểu Thanh ký” là khúc bi ai thương người, cũng là lời tự thương đau xót:


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Nguyễn Du là một “bậc tài tử trong đời. Tiểu Thanh là một khách hòng nhan. Nguyễn Du tìm
thấy giữa mình và người con gái ấy có những nét “đồng bệnh tương liên”. Tài tử gian nan, hồng
nhan bạc mệnh. Tiểu Thanh chết trong đau khổ, lưu lại với “nhất chỉ thư”, một mảnh giấy tàn,
thế mà hơn ba trăm năm sau cịn có Nguyễn Du Thương xót cho số phận nàng. Rồi nhà thơ tự
khóc mình và cất tiếng nói: Liệu sau khi ơng mất, hơn bă trăm năm, trong thiên hạ cịn có ai
thương ông? Hai câu kết này rất nổi tiếng. Ai đã từng đọc Nguyễn Du đều nhớ. Tơi vẫn rất thích
hai câu dịch của Xuân Diệu:



<i>“Ba trăm năm nữa mơ màng</i>
<i>Có ai thiên hạ khóc chàng Tố Như?”</i>


Câu thơ Chứa đầy tâm sự, tâm trạng. “Một tấm lòng vẫn giấu che, bộc lộ trong một phút giây,
chệch nhẹ bức mành, mà ma ta trơng được cả một thế giới cịn chưa nói” (“Con người Nguyễn
Du trong thơ chữ Hán” – Xuân Diệu). Câu thơ như tiếng khóc xót thương cho số phận mình. Ở
nơi đất khách quê người, trong những tháng ngày đi sứ. Tố Như càng cảm thấy mình bơ vơ,
khơng kẻ tri âm tri kỷ, một mình ơm mối hận của kẻ tài hoa bạc mệnh: “Người đời ai khóc Tố
Như chăng?”.


Viết về Nguyễn Du, nhà thơ Tố Hữu có câu “Tiếng thơ ai động đất trời….”. Sau khi Kiều nhảy
xuống sông Tiền Đường tự tử. Nguyễn Du cất tiếng nghẹn ngào:


<i>“Thương thay cũng một kiếp người</i>
<i>Hại thay mang lấy sắc tài làm chi?”</i>


Ở trong bài thơ “Độc Tiểu Thanh ký”, ơng lại xót xa hỏi: “Son phấn có thần chơn vẫn hận – Văn
chương vơ mệnh đốt cịn vương?”. Bài thơ cho ta thấy niềm thương cảm sâu xa của Tố Như đối
với con người là vô cùng mênh mông. Đời người hữu hạn, nỗi đau của con người – con người
bạc mệnh là vô hạn. Đọc bài thơ “Độc Tiểu Thanh ký”, chúng ta càng thấy rõ cái tâm của nhà
thơ lớn dân tộc, càng vô cùng thấm thía chất nhân văn trong thơ chữ Hán của Tố Như.


<b>Bài làm 6</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” được gợi cảm hứng từ một câu chuyện có thật về một cơ gái sống
vào đầu đời nhà Minh. Cơ gái ấy tên là Tiểu Thanh, nàng có nhan sắc vẹn tồn, cầm kì thi họa
đều giỏi cả. Thế nhưng nhà nghèo cho nên nàng được gả vào làm vợ lẽ một nhà giàu. Vì bị vợ cả
ghen tuông, bắt nàng ra sống riêng ở Cô Sơn, gần Tây Hồ. Trong những ngày tháng cơ quạnh đó,
nàng Tiểu Thanh đã viết thơ để bày tỏ tình cảnh và nỗi lịng mình. Ít lâu sau, nàng vì q muộn


phiền mà qua đời khi mới mười tám xuân xanh. Người vợ cả đã đem đốt hết những bài thơ của
nàng, tuy nhiên một số bài vẫn cịn xót lại. Người ta vì thấy thơ hay nên chép lại và đặt tựa là
“Phần dư tập”.


Nguyễn Du khi đọc được những bài thơ của nàng Tiểu Thanh đã rất đồng cảm, thương thay cho
một thân phận tài hoa nhưng bạc mệnh. Thương cho nàng Tiểu Thanh, tác giả cũng nghĩ đến
chính bản thân mình, và từ đó ơng cũng nhận ra cuộc đời là đầy rẫy những bất công, khổ ải.
Ngay từ mở đầu bài thơ, không gian nơi nàng Tiểu Thanh từng sống đã gợi lên một nỗi buồn xa
vắng:


<i>Tây Hồ cảnh đẹp hóa gị hoang</i>
<i>Thổn thức bên song mảnh giấy tàn</i>


Đọc lên hai câu thơ, người đọc hình dung đến một khung cảnh hoang vắng nào đó của miền sơn
cước. Ở đó, chỉ duy nhất có một người con gái lẻ loi ngồi bên lầu. Tây Hồ cảnh tuy đẹp nhưng
lại hóa gị hoang vắng, quạnh quẽ, đìu hiu. Một cơ gái tuổi cịn xn xanh mà phải chơn vùi ở
một nơi heo hút thế này sao không buồn bã cho được.


Những nỗi lòng buồn hận ấy, nàng đã giãi bày qua những vần thơ bi ai, tha thiết. Hình ảnh “thổn
thức” bên song cửa sổ với những mảnh giấy tàn còn gợi nhắc về câu chuyện nàng bị người vợ cả
ghen tuông đem đốt hết những vần thơ ấy. Để bây giờ chỉ còn lại những “mảnh giấy tàn” nhưng
đủ sức làm cho người ta phải cảm thấy thương tâm bởi những “thổn thức” đau đáu không biết
giãi bày với một ai của nàng Tiểu Thanh. Có lẽ, số phận của nàng cũng là số phận chung của rất
nhiều cơ gái trong xã hội phong kiến ngày đó. Cuộc đời của những người tài giỏi, tài hoa thường
hay bị vùi dâp và chà đạp đến thương tâm.


Những tâm tư đau khổ của nàng Tiểu Thanh dường như vẫn còn sức ám ảnh rất lớn, cho nên
Nguyễn Du mới có cảm giác như mảnh giấy tàn ấy vẫn còn vương vấn linh hồn của người con
gái bạc mệnh ấy:



</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Tác giả dùng từ “son phấn” để chỉ sắc đẹp của người con gái. Thế nhưng cái đẹp, cái tài ấy lại bị
vùi dập không thương tiếc. Mảnh giấy tàn như vẫn còn vương vấn những u buồn và uất hận bởi
nàng phải chết khi cịn q trẻ. Chính vì phải chết khi cịn q trẻ cho nên người đời khơng khỏi
xót thương cho thân phận tài hoa bạc mệnh của nàng. Không những thế, những trang thơ mà
nàng viết để bày tỏ nỗi lòng cũng bị người ta đốt cháy hết. Chỉ còn lại một phần những mảnh
giấy tàn là cịn lưu lại đến ngày nay. Có thể thấy rằng, xã hội phong kiến không chỉ cướp đi tuổi
xanh của người con gái mà còn muốn vùi dập, bóp chết một tài năng.


Đến đây, nhà thơ Nguyễn Du khơng khỏi thương xót cho số phận nàng Tiểu Thanh:
<i>Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi</i>


<i>Cái án phong lưu khách tự mang</i>


Một sự tuyệt vọng, bi ai oán và u sầu xoáy tận tâm can! Nỗi oan trái của người con gái đem hỏi
trời cao, trời cao không thấu, trách kẻ bạc tình, người nào có hay. Nỗi oan trái ấy dường như đã
trở thành cái “án” của những người tài hoa. Tài hoa nhưng bạc mệnh. Hiểu rõ điều đó, Nguyễn
Du thốt câu hỏi để rồi nhận ra thực tế đầy chua xót. Đó là cái số phận sinh ra đã thế hay chính cái
xã hội phong kiến đã đẩy họ vào bước đường cùng oan trái như vậy? Câu trả lời có lẽ sẽ khiến
người đọc phải day dứt và ám ảnh mãi không thôi.


Và ở hai câu kết, từ sự bạc mệnh của nàng Tiểu Thanh, tác giả đã vận vào số phận của mình và
để lại cho người đọc một câu hỏi chất vấn về số phận của những con người tài hoa:


<i>Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa</i>
<i>Người đời ai khóc Tố Như chăng?</i>


Một câu hỏi mà chứa đựng rất nhiều xót xa, ngậm ngùi. Ba trăm năm sau những vần thơ của
nàng Tiểu Thanh vẫn còn khiến người đời thương cảm. Thế nhưng liệu rằng ba trăm năm sau có
“ai khóc Tố Như chăng?”. Câu hỏi như xoáy vào tâm can của người đọc. Người đời còn nhớ hay
sẽ quên những số phận tài hoa bạc mệnh thương tâm như thế này? Vào thời điểm đó, thực sự đây


là một câu hỏi hãy còn để ngỏ. Thực tế đã chứng minh cho đến ngày nay, đã qua ba thế kỉ mà
chúng ta vẫn còn nhớ và nhắc đến tài năng Nguyễn Du. Điều này đã cho thấy, dù là trải qua bao
nhiêu thời gian thì tài năng và những giá trị của những người kiệt xuất vẫn luôn được trân trọng
và cảm thông.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19></div>

<!--links-->

×