Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Tải Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xưa qua bài "Bánh trôi nước", “Tự tình 2” và “Thương vợ” - Bài làm văn số 2 lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.24 KB, 12 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Bài tập làm văn số 2</b> <b>lớp 11đề 2: Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời</b>
<b>xưa qua bài "Bánh trơi nước", “Tự tình 2” và “Thương vợ”</b>


<b>A. Dàn ý chi tiết hình ảnh người phụ nữ Việt Nam</b>
<b>1. Mở bài</b>


- Giới thiệu hình tượng ng phụ nữ trong văn học nói chung.


- Cảm hứng về ng phụ nữ trong tự tình, của HXH và thương vợ của trần tế
xương.


<b>2. Thân bài</b>


- Thời đại hoàn cảnh, nội dung cơ bản trong thơ của 2 tác giả trên.
- Người phụ nữ VN thời xưa đẹp người và đẹp nết


+ Tảo tần, chung thủy, son sắt: Bà tú, chịu thương chịu khó, tảo tần, quanh
năm bn bán, ni chồng nuôi con, thủy chung son sắt.


+ Người phụ nữ chịu nhiều thiệt thòi, gian nan, vất vả, hồng nhan bạc phận.
Trong tự tình: Thân phận bẽ bàng, cơ độc, tình duyên lận đận, hạnh phúc
mong manh.


Trong thương vợ: Lam lũ, vất vả


Viết về người phụ nữ vớ mối đồng cảm sâu sắc là 1 biểu hiện của tinh thần
nhân đạo.


<b>3. Kết bài</b>


- Người phụ nữ xưa phải chịu nhiều bất hạnh và sự hạn chế của ý thức xã hội


- Nhắc nhở con người phải biết trân trọng hạnh phúc của ngày hơm nay.
Phân tích được các luận điểm sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

cái hồng nhan với nước non), có phẩm chất cao đẹp như bà Tú tông Thương
vợ của Tú Xương (Quanh năm buôn bán ở mom sông - Nuôi đủ năm con với
một chồng).


2. Thân phận của những người phụ nữ này lại vô cùng nhỏ bé, cuộc đời của họ
long đong lận đận. Họ phải sống trong một chế độ xã hội phong kiến lạc hậu,
trọng nam khinh nữ, người phụ nứ khơng có chỗ đứng và địa vị trong xã hội vì
vậy mà những người phụ nữ có tài như HXH thường khơng được coi trong
đồng thời việc làm của một người vợ thường ít được người chồng cảm thông
dù cho quanh năm lam lũ vất vả ni chồng ni con chăm sóc cho gia đình
ln được n ấm dù mình có phải chịu thiệt thịi.


3. Bản lĩnh của người phụ nữ trong xã hội xưa: Mặc dù bị trói buộc trong
những quan niệm, phong tục cổ hủ và lạc hậu... Nhưng trong sâu thẳm tâm
hồn họ vẫn đẹp, vẫn sáng, vẫn ln vùng lên để địi bình quyền. Để muốn rằng:
Họ là nữ nhi nhưng vai trò của họ trong xã hội là rất lớn...


<b>Bài làm tham khảo</b>
<b>Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam - Mẫu 01</b>


Văn thơ trung đại Việt Nam, nhất là các tác phẩm viết bằng chữ Nơm nói
nhiều đến tình u và số phận người phụ nữ trong cuộc đời.


<i>Nương tử ơi!</i>


<i>Chướng căn ấy bởi vì đâu? Oan thác ấy bởi vì đâu?</i>
<i>Cho đến nỗi xuân tàn hoa nụ, thơ lẩn trăng rằm?</i>



("Văn tế Trương Quỳnh Như" - Phạm Thái)
Đau đớn thay phận đàn bà,


<i>Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung</i>


("Truyện Kiều" - Nguyễn Du)
<i>Nguyệt Nga là gái tuyết trinh,</i>


<i>Sắc phong quận chúa hiển vinh rỡ ràng.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Bài thơ "Bánh trơi nước" có hai lớp nghĩa: tả thực chiếc bánh trơi, một món
ăn dân tộc và tượng trưng cho phẩm chất tốt đẹp của người con gái quê ta.
Chữ "trắng" và chữ "trịn", hình ảnh nhân hố "thân em" đã thể hiện vẻ đẹp
khiêm nhường, dịu dàng, trinh trắng và duyên dáng của "em". Tuy tình yêu và
số phận bị phụ thuộc vào lễ giáo phong kiến, và đạo tam tòng, vào "tay kẻ
nặn", dù "rắn nát", dù vất vả, lận đận, long đong, trải qua "bảy nổi ba chìm",
nhưng em vẫn kiên trinh, sắt son. Hình ảnh ẩn dụ "tấm lòng son" và hai tiếng
"vẫn giữ" đã ngợi ca đức hạnh kiên nhẫn, lòng chung thủy sắt son của người
phụ nữ ngày xưa trong mọi gia đình Việt Nam. "Bánh trôi nước" là bức chân
dung nghệ thuật với hai gam màu "trắng" và "son" tuyệt đẹp:


<i>"Thân em vừa trắng lại vừa trịn,</i>
<i>Bảy nổi ba chìm với nước non.</i>


<i>Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,</i>
<i>Mà em vẫn giữ tấm lịng son".</i>


Chùm thơ "Tự tình" ba bài của Bà chúa thơ Nơm, đặc biệt biệt bài thơ thứ
hai, đã nói lên một cách cảm động về bi kịch tình duyên của người phụ nữ


phận hẩm duyên ôi!


Người phụ nữ ấy thao thức giữa đêm khuya, một mình một bóng đang lắng
nghe tiếng trống dồn "văng vẳng" từ một chòi canh xa đưa lại. Thao thức vì cơ
đơn, vì lẻ bóng. Rượu và trăng cũng không làm vợi đi bao nỗi buồn chồng
chất, đang đè nát cõi lòng. "Chén rượu hương đưa" cứ ngỡ có thể làm say để
quên đi bao nỗi buồn chứa chất tâm hồn, cố uống cho say, nhưng "say lại tỉnh"
để mà thêm buồn; buồn cho tình duyên lẽ mọn! Trơ trọi ngắm "vầng trăng
bóng xế", ngắm mãi ngắm hồi mà trăng kia vẫn "khuyết chưa trịn", Hạnh
phúc mà nàng mong đợi chỉ là "Một tháng đôi lần có cũng khơng!". Số phận
và bi kịch ấy thật đáng thương!


Trong bi kịch tình duyên, người đàn bà lẽ mọn cố vùng vẫy bươn ra nhưng
thoát sao được. Dù có "xiên ngang mặt đất", dù có "đâm toạc chân mây",
nhưng đám rêu kia, mấy hịn đá nọ cũng khơng thể nào thay đổi được cảnh
ngộ đáng buồn, đáng thương, đáng tủi, đáng hận:


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Phép đảo ngữ trong hai câu thơ không chỉ làm nổi bật cái dữ dội tiềm ẩn của
thiên nhiên mà cịn tơ đậm sự phản kháng duyên số, phản kháng đến tuyệt
vọng của người đàn bà "lấy chồng chung".


Thời gian chẳng mang lại hạnh phúc cho nàng. Mùa xuân cũng chẳng đem
lại niềm vui gì cho nàng, mà nỗi chán ngán, đau khổ cứ chồng chất mãi thêm.
Mùa xuân đi qua rồi mùa xuân lại trở lại, tuổi mỗi ngày một cao, nhan sắc
ngày một phai tàn, nhưng tình yêu và hạnh phúc chỉ được "san sẻ tí con con"
mà thơi! Thật đáng thương! Thật tội nghiệp. Tổng Cóc và ơng phủ Vĩnh
Tường cũng chẳng mang lại cho nàng chút hạnh phúc nào! Hai câu kết đã cực
tả nỗi đau khổ trong bi kịch tình yêu của Hồ Xuân Hương:


<i>"Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,</i>


<i>Mảnh tình san sẻ tí con con!"</i>


"Tự tình" - Bài II khơng chỉ nói lên nỗi đau khổ cơ đơn mà cịn thể hiện
niềm khao khát tình u hạnh phúc của người đàn bà trong cảnh ngộ "lấy
chồng chung", Giá trị nhân bản của bài thơ thật sâu sắc.


Tú Xương có bài "Văn tế sống vợ"; ơng cịn có bài "Thương vợ" Cảm hứng
chủ đạo là tình thương, lịng quý trọng, biết ơn của ông đối với người vợ hiền
thục của mình.


Bà Tú là hiện thân cho bao đức tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Bà
bn bán tần tảo ở mom sông suốt quanh năm, không có một ngày ngơi nghỉ.
Một gánh nặng gia đình được bà "nuôi đủ":


<i>"Quanh năm buôn bán ở mom sông,</i>
<i>Nuôi đủ năm con với một chồng".</i>


Nhờ sự đảm đang, tháo vát của vợ mà ông Tú tuy "ăn lương vợ" nhưng khá
phong lưu:


<i>"Cho hay công nợ âu là thế,</i>
<i>Mà vẫn phong lưu suốt cả đời.</i>
<i>Tiền bạc phó cho con mụ kiếm,</i>
<i>Ngựa xe chẳng thấy lúc nào ngơi"</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Hình ảnh "thân cò" là một sáng tạo của Tú Xương để nói vể sự làm ăn vất vả,
khó nhọc của bà Tú. Cặp từ láy: "lặn lội" và "eo sèo" đã cực tả nỗi gieo neo,
đức tính chịu thương chịu khó của người vợ, người mẹ trong gia đình đơng
con:



<i>"Lặn lội thân cò khi quãng vắng,</i>
<i>Eo sèo mặt nước buổi đò đơng".</i>


Bà Tú cịn là hiện thân của đức hi sinh thầm lặng. Bà cam chịu, kiên nhẫn về
duyên phận. Các thành ngữ "một duyên hai nợ", "\"năm nắng mười mưa" kết
hợp với các từ ngữ "âu đành phận", "dám quản công" cho thấy đức hạnh, tâm
hồn của bà Tú thật cao quý. Bà đã sống hết mình vì cuộc sống và hạnh phúc
của chồng con:


<i>"Một duyên hai nợ âu đành phận,</i>
<i>Năm nắng mười mưa dám quản công",</i>


Hai câu kết là lời nhiếc của bà Tú cũng là lời tự trách mình của nhà thơ:
<i>"Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,</i>


<i>Có chồng hờ hững cũng như không".</i>


"Không" là không giàu sang phú quý, không được "Võng anh đi trước, võng
nàng theo sau" như các bà nghè khác. "Không" là không được sống trong cảnh
vinh thân phì gia "tối rượu sâm banh, sáng sữa bị" như vợ của các thầy kí,
thầy phán khác thời bấy giờ.


Tú Xương tuy tự trách mình, nhưng ơng đã nói lên tất cả tấm lịng q trọng
và biết ơn đối với người vợ hiền thục thương yêu.


Hình ảnh bà Tú trong bài thơ "Thương vợ" là hình ảnh của một người phụ
nữ Việt Nam với bao phẩm chất tốt đẹp như đảm đang, tần tảo, chịu thương
chịu khó và giàu đức hi sinh.


Qua các bài thơ "Bánh trơi nước", "Tự tình" - Bài II, "Thương vợ" người


đọc thấy được phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam, càng biết ơn và tự hào
về người mẹ, người chị, người vợ trong mỗi gia đình chúng ta. Đúng như Huy
Cận đã viết:


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam - Mẫu 02</b>


Hình ảnh người phụ nữ ln là đề tài quen thuộc của văn học dân gian.
Mảng đề tài đầy cảm hứng nhân văn này đã làm nên giá trị của nền văn học
nói chung, gương mặt của các tác giả nói riêng. Tiêu biểu là Hồ Xuân Hương
với “Tự tình” (II) và Tú Xương với “Thương vợ”.


Đúng như vậy, hai bài thơ với hai người phụ nữ đều khát khao một mái ấm
gia đình. Xong cuộc đời lại lắm éo le trắc trở. Họ phải chịu đựng số phận hẩm
hiu chế độ phong kiến mục nát. Cái chế độ mà khi nhắc tới ai ai cũng thấy
bất bình tĩnh. Là phụ nữ thì sao chứ? Chẳng lẽ phụ nữ không phải con người
trong xã hội? Hà cớ gì cứ phải bắt người phụ nữ làm những thứ họ không
muốn từ những hủ tục lạc hậu: cha mẹ đặt đâu con ngồi đó, trọng nam khinh
nữ, người phụ nữ khơng có quyền hành gì trong gia đình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

tình cảnh của Hồ Xuân Hương cũng cảm thấy quạnh hiu, đau nhói, buồn phiền.
Hình ảnh “cái hồng nhan” với “nước non” càng cho thấy tâm trạng bẽ bàng tủi
hổ của người phụ nữ. Cùng với nỗi buồn đè nặng lên con người nhỏ bé trong
xã hội, đè lên thân phận của họ. Hồ Xuân Hương là con người rất mạnh mẽ,
bà khơng cam chịu và muốn thốt khỏi. “Chén rượu hương đưa” là một
phương tiện giải sầu, tuy không phải phương tiện duy nhất nhưng là tốt nhất
vào lúc này. Tìm quên trong chén rượu, say rồi lại tỉnh, càng uống càng nhận
thức mọi thứ rõ ràng hơn. Nó như một vịng luẩn quẩn khiến người phụ nữ ấy
nhận ra sự cô đơn trĩu nặng hơn. Hướng tới vầng trăng mong tìm người bạn
tri âm tri kỉ giữa đất trời nhưng “khuyết chưa trịn” lại cịn “bóng xế”. Ngoại
cảnh và con người g đây như một. Người phụ nữ tự hỏi đến bao giờ trăng mới


tròn. đến bao giờ người mới có được tình u cho mình. Trăng đã sắp tàn mà
vẫn chưa tròn, tuổi xuân qua đi mà nhân duyên chưa tới. Người phụ nữ đang
chơi vơi giữa một thế giới mênh mông, hoang vắng, muốn thốt khỏi nhưng
bất lực trước nỗi cơ đơn trơ trọi với chính mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

chuyến đị đó để dành miếng cơm manh áo cho chồng con. Dù vắng hay đơng
bà Tú cũng thui thủi một “thân cị”.


Tuy rằng số phận dằng buộc họ nhưng nhờ đó những phẩm chất cao quý
của người phụ nữ được hiện diện.


Dù đau đớn thế nào, dù yếu ớt đến đâu thì trong sâu thẳm trái tim Hồ Xuân
Hương cũng ánh lên ngọn lửa khao khát, hi vọng, không chịu khuất phục mà
muốn vùng lên đấu tranh thay đổi cuộc sống của mình. “Xiên ngang mặt đất
rêu từng đám. /Đâm toạc chân mây, đá mấy hịn”. Tâm trạng con người như
muốn nói lên nỗi phẫn uất, ngang ngạnh, bướng bỉnh. Thiên nhiên trong mắt
Hồ Xuân Hương tiềm ẩn một sức sống đang bị đè nén và đang vươn lên mạnh
mẽ. “Rêu”, “đá” chỉ là những vật nhỏ bé, hèn mọn nhưng không hề yếu đuối
bởi rêu xiên ngang mặt đất, đá đâm toạc chân mây. Điều đó càng chứng tỏ Hồ
Xuân Hương muốn bứt phá rào cản để đi tìm hạnh phúc cho mình, muốn giải
thốt số phận hồn cảnh, thể hiện cá tính táo bạo của nữ sĩ. Tuy lòng đầy canh
cánh nhưng bà vẫn nhìn cảnh vật với con mắt yêu đời. Yêu đời là thế, sức
sống là thế mà cuộc đời riêng thì vẫn “xn đi xn lại lại”. Cái vịng quẩn
quanh đáng ghét của cuộc đời không thể tránh khỏi tiếng thở than chua xót.
Càng chua xót hơn khi giữa cái tuần hồn thời gian ấy là một “mảnh tình” nhỏ
vụn đã vỡ nhưng nay vẫn bị sẻ đi sẻ lại. Đối với trái tim thiết tha yêu thương
kia, điều đó như một vết thương cứa sâu đau nhức nhối, khao khát một tình
yêu trọn vẹn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

chồng vì con mà bà đâu “dám quản công” một lời. Bà tự nguyện gánh vác


trách nhiệm chăm lo cho gia đình. Dù vất vả trăm điều nhưng bà vẫn âm thầm
chịu đựng. Phải chăng đó chính là đức hi sinh – vẻ đẹp truyền thống của người
phụ nữ Việt Nam?


Hai người phụ nữ đẹp đều tìm thấy sức mạnh, ý chí để vượt lên hồn cảnh.
Nhưng trong cuộc thốt thân họ cịn cơ đơn q, vì thế mà thất bại. Một người
muốn bứt phá, thoát khỏi cuộc sống ngột ngạt. Một người cam chịu , nhẫn
nại để làm tròn bổn phận một người mẹ, một người vợ. Một người được đồng
cảm, sẻ chia. Một người cơ đơn một mình, buồn đau trước số phận hẩm hiu.
Chỉ khi những người phụ nữ biết đồn kết, biết đồng lịng dưới sự lãnh đạo
của Đảng họ mới có thể thay đổi được số phận, làm chủ được cuộc đời mình.
Người phụ nữ thời xưa phải chịu nhiều thiệt thịi, bất cơng, ngang trái và bị
hạn chế bởi xã hội phong kiến. Còn người phụ nữ ngày nay được quyền
bình đẳng, quyền học tập, quyền lựa chọn tình yêu và quyền làm chủ cuộc đời.
Họ khơng cịn bị đối xử như trước nữa. Tuy người phụ nữ ngày xưa có
cuộc đời éo le nhưng hình ảnh sâu thẳm trong họ không bao giờ bị mất đi. Dù
hồn cảnh có ra sao thì tâm hồn cao đẹp của họ vẫn sáng lên. Và điều đó khiến
ta ln tự hào về người phụ nữ Việt Nam.


<b>Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam - Mẫu 03</b>


Hồ Xuân Hương sáng tác nhiều bài thơ nổi tiếng về đề tài phụ nữ. Thơ bà là
tiếng nói địi quyền sống tự do và thể hiện khát khao hạnh phúc. Trần Tế
Xương cũng có một số bài thơ nói về những vất vả gian truân mà người phụ
nữ phải gánh chịu trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ.


Mượn hình ảnh chiếc bánh trôi nước quen thuộc trong dân gian, Hổ Xuân
Hương gửi gắm những suy ngẫm sâu sắc của mình về thân phận nhỏ bé và phụ
thuộc của người phụ nữ:



<i>Thân em vừa trắng lại vừa trịn,</i>


<i>Bảy nổi ba chìm với nước non. Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,</i>
<i>Mà em vẫn giữ tấm lịng son.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Với đơi mắt và trái tim đa cảm, Hồ Xuân Hương đã nhận ra đằng sau những
chi tiết rất thực ấy là cả một nỗi niềm thương thân trách phận của người phụ
nữ. Tạo hóa sinh ra họ là để duy trì và phát triển sự sống của nhân loại, đồng
thời làm đẹp cho đời. Vai trị của họ là vơ cùng quan trọng, nhưng quan niệm
thiên vị đến mức lệch lạc trong xã hội phong kiến đã cố tình phủ nhận điều đó.
Nào là: Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vơ. Nào là: Nữ nhân ngoại tộc.


Rồi luật Tam tịng cột chặt người phụ nữ vào thân phận bị phụ thuộc vĩnh viễn:
Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Những quan niệm khắt
khe, cổ hủ ấy đã tước đoạt điều quý giá nhất là được tự do sống đúng với con
người mình và đáng sợ hơn là nó biến người phụ nữ thành cái bóng mờ nhạt
trong suốt cuộc đời. Họ tồn tại chứ không phải là sống theo đúng nghĩa tích
cực của từ đó. Chẳng khác gì những chiếc bánh trơi nước, rắn, nát, méo, trịn
hồn tồn do tay kẻ nặn.


Ở bài thơ Tự tình II, Hồ Xuân Hương đã bộc bạch tâm trạng bức xúc cao độ
của bản thân, đồng thời cũng là tâm trạng chung của bao phụ nữ cùng cảnh
ngộ trong xã hội phong kiến:


<i>Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,</i>
<i>Trơ cái hồng nhan với nước non.</i>
<i>Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,</i>
<i>Vầng trăng bóng xế khuyết chưa trịn.</i>


<i>Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,</i>


<i>Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.</i>


<i>Ngán nỗi xn đi xn lại lại,</i>
<i>Mảnh tình san sẻ tí con con!</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Nỗi hờn tủi, bẽ bàng chất chứa trong câu thơ: Trơ cái hồng nhan với nước non
in đậm dấu ấn phong cách diễn tả độc đáo của Xuân Hương.


Tâm sự trĩu nặng nỗi buồn thân phận và duyên phận của nữ sĩ không biết ngỏ
cùng ai nên càng cuộn xốy, day dứt trong lịng giữa đêm khuya thanh vắng.
Nhưng dù bị phụ phàng hay quên lãng thì nhân vật trữ tình trong bài thơ vẫn
khơng tuyệt vọng, vẫn khao khát sống mạnh mẽ, vẫn ước ao đến cháy lòng
hạnh phúc tròn đầy, vẫn mong muốn được san sẻ và bù đắp những tình cảm
chân thành nhất giữa người với người.


Bài Thương vợ của nhà thơ trào phúng nổi tiếng Trần Tế xương có thể coi là
chân dung tương đối hoàn chỉnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến:


<i>Quanh năm buôn bán ở mom sông,</i>
<i>Nuôi đủ năm con với một chồng.</i>


<i>Lặn lội thân cò khi qng vắng,</i>
<i>Eo sèo mặt nước buổi đị đơng.</i>
<i>Một dun hai nợ âu đành phận,</i>
<i>Năm nắng mười mưa dám quản công.</i>


<i>Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,</i>
<i>Có chồng hờ hững cũng như khơng.</i>


Ngày xưa, Nho giáo buộc phụ nữ phải có bổn phận thờ chồng, nuôi con. Thờ


chồng đối với bà Tú bao hàm cả việc nuôi chồng, thế là bất cơng vì đúng ra,
người đàn ơng phải giữ vai trị trụ cột trong gia đình về mọi mặt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

mệnh đã an bài. Suy nghĩ và tâm trạng của bà Tú cũng là suy nghĩ, tâm trạng
chung của phụ nữ thời xưa.


Nhà thơ Trần Tế Xương từng tự nhận mình là ơng chồng vơ tích sự, để vợ
phải lặn lội thân cò… chẳng khác chi những thân cò thân vạc đáng thương
trong ca dao - dân ca, tượng trưng cho thân phận vất vả, cực nhọc của người
phụ nữ. Bên cạnh nỗi khổ vật chất, bà Tú còn nỗi khổ tinh thần. Bà hết lịng vì
chồng, vì con nhưng chồng con nào có biết cho chăng?! Thế nên mới có tiếng
thở dài như một lời than não ruột: Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ
hững cũng như khơng!


Có lẽ ơng Tú đã hố thân vào vợ mình, để thấu hiểu và thơng cảm với bà. Lấy
chồng mà chẳng được nhờ vả, cậy dựa; lấy phải ông chồng hờ hững thì quả là
có cũng như khơng mà thôi.


</div>

<!--links-->

×