Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Tải Bài văn mẫu lớp 8: Thuyết minh về nhạc cụ dân tộc - Những bài văn hay lớp 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.77 KB, 14 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Bài văn mẫu</b>

<b>lớp 8</b>



<b>Thuyết minh về nhạc cụ dân tộc</b>



<b>Thuyết minh về nhạc cụ dân tộc - Mẫu 1</b>



Việt Nam là một đất nước có âm nhạc dân tộc đa dạng với rất nhiều nhạc cụ
dân tộc và điệu ca đặc sắc. Một trong số những nhạc cụ truyền thống gắn liền
với các lễ hội, phong tục dân gian chính là sáo trúc. Sáo trúc khơng chỉ là một
loại nhạc cụ độc đáo mà còn được coi là quốc hồn của nền âm nhạc dân tộc.
Sáo trúc là một loại nhạc cụ có từ rất lâu đời. Cây sáo nói chung được người ta
biết như một loại nhạc cụ có từ thời cổ đại, được bắt nguồn từ những tiếng kêu
của những cây lau, sậy khi gió thổi qua. Chính từ cảm hứng này mà một nhạc
cụ âm nhạc diễn tấu được những âm thanh trên của thiên nhiên đã được ra đời.
Rất nhiều nước trên thế giới có sử dụng sáo với hình dáng và cấu tạo khác
nhau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Mỗi quốc gia khác nhau lại có những loại sáo khác nhau làm bằng các chất liệu
khác nhau. Tuy nhiên, nhắc đến sáo trúc thì có thể kể tên một số loại như cây
sáo 6 lỗ truyền thống ở Việt Nam, sáo mèo, sáo bầu của Trung Quốc, sáo
bansuri của Ấn Độ, sáo trúc bài lỗ Philipines…. Dựa theo cách thổi, sáo có thể
được phân chia ra làm hai loại chính, đó là sáo ngang hoặc dọc. Các loại sáo
ngang và dọc đều rất phong phú về thể loại và cấu tạo. Nhưng nếu xét về độ
phổ biến, sáo ngang sẽ phổ biến hơn sáo dọc. Các loại sáo dọc thường dễ sử
dụng vì vị trí dùng để thổi ở phần đầu được thiết kế vát hơn so với thân sáo,
người thổi dễ điều khiển hơi hơn, tuy nhiên, loại sáo này thường dễ bị nhầm
với tiêu vì cũng cùng cách thức sử dụng.


Sáo thường được làm từ rất nhiều các loại nguyên liệu khác nhau như trúc nứa
gỗ, ngồi ra cịn có thể làm từ nhựa, kim loại hoặc là xương. Mỗi loại vật liệu
sẽ mang đến cho sáo một âm sắc khác nhau. Riêng đối với sáo trúc thì vật liệu


dùng để làm sáo sẽ là các loại cây trúc đã già, nhiều năm tuổi, như vậy sẽ giúp
cho âm của sáo khi thổi lên sẽ được chắc và làm tăng độ bền cho sáo, tránh mối
mọt.


Hiện nay, khi xã hội ngày càng phát triển, giới trẻ càng làm quen hơn với
những thiết bị điện tử thì sáo trúc - một loại sáo mang âm hưởng dân gian Việt
Nam vẫn không mất đi vị thế. Âm thanh vang lên từ sáo trúc trở thành một điệu
ca dân gian của dân tộc, khiến chúng ta trở về với những âm thanh nhẹ nhàng
dân dã của đồng quê. Không chỉ vậy, một nét độc đáo trong ứng dụng chính là
sáo trúc cịn được sử dụng để kết hợp âm thanh với những nhạc cụ hiện đại
khác để tạo ra những bản nhạc vừa truyền thống lại vừa mang hơi hướng hiện
đại phù hợp với thị hiếu của mình nghe.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

biến đổi nhưng sáo trúc cùng với những những điệu nhạc được tạo ra từ nó mãi
mãi trở thành một nét đẹp văn hóa, nét đẹp trong âm nhạc dân gian của dân tộc.


<b>Thuyết minh về nhạc cụ dân tộc - Mẫu 2</b>



Ca dao ta có câu:


<i>“Đàn bầu ai gảy nấy nghe</i>
<i>Làm thân con gái chớ nghe đàn”</i>


Câu ca dao ấy đã phần nào nói lên được những sự quan trọng của đàn bầu. Loại
âm nhạc ấy có thể nói là truyền tải được những câu ca dao à ơi. Hay nhà thơ
Văn Tiến Lê từng viết:


<i>“Một dây nũng nịu đủ lời</i>
<i>Nửa bầu chứa cả đất trời âm thanh”</i>
Vậy đặc điểm của đàn bầu là gì?, âm thanh của nó như thế?



Gắn liền với dịng chảy lịch sử nước Việt, có một dụng cụ âm nhạc đã góp
phần làm nên ý nghĩa nhân văn, ý nghĩa quốc tộc của người Việt, đó chính là
Đàn Bầu, một tên gọi rất thuần Việt. Theo địa lý tự nhiên, nước Việt Nam
mang dáng hình chữ S mềm mại. Cịn theo ngơn ngữ thi thơ nước Việt có hình
dáng thon thả như “giọt Đàn Bầu”, một cách ví von hoán dụ trong bài thơ nối
tiếng của nhà thơ Phạm Minh Tuấn:


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Đàn bầu, tên chữ là độc huyền cầm là loại đàn một dây của người Việt, thanh
âm phát ra nhờ sử dụng que hay miếng gảy vào dây. Dựa theo cấu tạo của hộp
cộng hưởng, đàn bầu chia hai loại là đàn thân tre và đàn hộp gỗ.


Về cấu tạo thì Đàn bầu thường có hình dạng một ống trịn (bằng tre, bương,
luồng) hoặc hình hộp chữ nhật (bằng gỗ); một đầu to, một đầu vuốt nhỏ hơn
một chút; thường có chiều dài khoảng 110 cm, đường kính hoặc bề ngang ở
đầu to khoảng 12,5 cm, đầu nhỏ khoảng 9,5 cm; cao khoảng 10,5 cm. Ở loại
đàn gỗ Mặt đàn và đáy đàn bằng gỗ ngô đồng, hoặc gỗ thông hay gỗ tung. Mặt
đàn hơi cong lên một chút, đáy đàn phẳng có một lỗ nhỏ để treo đàn, một hình
chữ nhật ở giữa để thoát âm đồng thời cầm đàn khi di chuyển và một khoảng
trống để cột dây đàn. Thành đàn bằng gỗ cứng như cẩm lai hoặc mun để cho
chắc chắn và có thể bắt vít cho khóa dây đàn.


Trên mặt đầu to có một miếng xương hoặc kim loại nhỏ gọi là ngựa đàn. Qua
ngựa đàn, dây đàn được luồn xuống và cột vào trục lên dây đàn xuyên qua
thành đàn, trục này được làm đẹp và nó được giấu phía sau thành đàn. Ngày
nay người ta dùng khóa dây đàn bằng kim loại cho chắc để chống tuột dây đàn.
Trên mặt đầu nhỏ của đàn có một cần dây làm bằng gỗ hoặc sừng, được gọi là
cần đàn hoặc vòi đàn. Cần đàn xuyên qua nửa đầu trái bầu khô hoặc tiện bằng
gỗ theo hình dạng tương tự và cắm vào một lỗ trên mặt đầu nhỏ của vỏ đàn.
Một đầu dây đàn buộc cố định vào cần đàn khoảng giữa bầu đàn.



Khi công nghệ điện tử ra đời, để tăng âm lượng tiếng đàn, người ta lắp một
cuộn cảm ứng điện từ có lõi sắt non vào dưới mặt đàn giáp với dây ở phía đầu
to để cảm ứng âm thanh truyền qua bộ dây đồng trục, đưa tín hiệu đến khuếch
đại âm thanh qua máy tăng âm. Loại đàn này chỉ có thể dùng dây thép và có
nhược điểm là độ méo âm thanh khá lớn so với âm thanh của loại đàn không
dùng bộ khuếch đại điện từ (đàn mộc).


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Âm thanh đàn bầu nền nã dịu dàng, nó như gợi lên cái tâm hồn xa xưa của
người Việt ta. Âm thanh nó cịn rất mềm mại, uyển chuyển nhẹ nhàng. Chính
vì thế mà đàn bầu khi được cất lên thường đi liền với những bài ca dao cổ hay
chính là những lời mẹ ra.


Qua đây ta thấy được những đặc điểm và âm thanh của đàn bầu. Nó gợi lên
những gì xa xưa vơ cùng thuần túy nền nã, dịu dàng. Nó độc đáo ở chỗ nó thổi
cái hồn của những gì gọi là ngày xưa, những gì là mộc mạc thân thương nhất.


<b>Thuyết minh về nhạc cụ dân tộc - Mẫu 3</b>



Âm nhạc Việt Nam mang tính bản sắc độc đáo khơng chỉ bởi sự nổi tiếng của
những bài ca dao, những điệu “ Nam ai Nam bình”, những điệu hát xoan, hát
quan họ mà cái độc đáo ấy còn được tạo nên bởi những nhạc cụ mang tính dân
tộc.


Một trong những nhạc cụ tiêu biểu cho hệ thống nhạc cụ dân tộc Việt Nam phải
kể đến đàn nhị.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

với các nhạc cụ dân tộc khác. Đàn có hai dây,và khi chơi nhạc thì người ta sẽ
dùng một thanh kéo, vừa ma sát với dây đàn, vừa ma sát với nhựa thơng được
đính ở thân đàn để tạo ra những âm thanh độc đáo.



Đàn thường được những người nghệ sĩ để trên chính đơi chân của mình khi tấu
nhạc.Vì vậy khi chơi nhạc thì người nghệ sĩ thường ngồi, có thể là trên một
mảnh chiếu, cũng có thể là ngồi trên ghế.Dây kéo của đàn nhị cũng khá đặc
biệt, nó được cấu tạo bởi những sợi tơ rất mảnh và mềm mại, sau đó được kết
nối với thanh tre mỏng, uốn thành một hình cung mềm mại.Khi dây kéo của
đàn nhị được cọ sát với dây đàn để phát ra âm thanh trông tương đối giống
thanh kéo của đàn violong.


Cách sử dụng đàn nhị cũng khá đơn giản, tuy nhiên đó là đối với những người
nghệ sĩ thực thụ, còn đối với những người mới học thì cần phải luyện tập siêng
năng thì mới có thể sử dụng được thành thục loại đàn này.


Khi chơi đàn, ta sẽ dùng tay trái giữ dọc nhị và bấm dây đàn bằng lịng ngón
tay hoặc đầu ngón tay để tạo ra tiết tấu, nhạc điệu. Tay phả sẽ cầm cung vĩ hay
còn gọi là dây kéo đẩy qua lại mới tạo ra âm thanh.


Về tên gọi của đàn nhị cũng khá đa dạng. Ở những nơi,những vùng miền khác
nhau thường có tên gọi khác nhau. Chẳng hạn, người Kinh gọi là “líu” ( hay
nhị líu để phân biệt với nhị chính), dân tộc Mường thì gọi đàn Nhị là “ cị ke’’,
hay như người dân Miền Nam thì lại gọi nó với cái tên “ Đờn cò”. Tuy nhiên,
cái tên được dùng phổ biến nhất, được nhiều người quen gọi nhất thì vẫn là đàn
nhị. Kích cỡ và hình dáng của đàn nhị cũng có sự khác nhau, tùy thuộc vào sở
thích, nhu cầu cá nhân của người sử dụng đàn. Đàn nhị thường được cấu tạo
bởi những bộ phận như sau: Bát nhị ( hay còn gọi là ống nhị); dọc nhị ( hay còn
gọi là cần nhị, cán nhị); trục dây, dây nhị, cử nhị ( hay khuyết nhị) ,và cuối
cùng là cung vĩ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Ngày nay, trong sự phát triển đa dạng của các thể loại nhạc hiện đại, đàn nhị
còn được dùng phối kết hợp với các thể loại như: nhạc pop, nhạc rock… tạo ra


những nét độc đáo, cá tính trong âm nhạc.


Đàn bầu là một nhạc cụ phổ biến của dân tộc Việt Nam đặc biệt đối với dân tộc
của các cùng núi phía bắc, nó đã trở thành một thể loại âm nhạc phổ biến và trở
thành giá trị truyền thống phổ biến của mỗi con người, mỗi chúng ta đều thấy
hình ảnh của cây đàn bầu xuất hiện nhiều trong cuộc sống của những người dân
vừng đồng bào dân tộc. Đây là một nhạc cụ được dùng để giải trí và nó đã trở
thành một biểu tượng văn hóa truyền thống đẹp của con người Việt Nam. Giá
trị của nó để lại cho dân tộc rất nhiều ý nghĩa văn hóa truyền thống tốt đẹp và
có giá trị ý nghĩa mạnh mẽ nhất đối với mỗi người.


Trong sự bùng nổ các thể loại, các dụng cụ nhạc hiện đại như ngày nay, đàn nhị
khơng cịn được sử dụng rộng rãi như trước nữa, thị hiếu người nghe có phần
giảm so với trước đây. Tuy nhiên, dù âm nhạc có phát triển đến đâu, đến mức
độ như thế nào thì đàn nhị mãi là một loại nhạc cụ dân tộc mang đầy giá trị,
không chỉ trong âm nhạc, mà nó cịn là văn hóa, là bản sắc của dân tộc Việt
Nam.


<b>Thuyết minh về nhạc cụ dân tộc - Mẫu 4</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

những lễ hội mang màu sắc Tây nguyên hoang dã nhưng cũng rất đỗi thanh
bình hay đó là những thiên sử thi hùng tráng. Thế nhưng trong chiều sâu văn
hóa, chúng ta như lắng nghe được tiềng trầm bổng hào hùng từ ngàn xưa vọng
lại của những chiếc cồng chiếc chiêng, mà ta gọi đó là Khơng gian văn hóa
cồng chiêng Tây Ngun.


Khơng gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trải rộng suốt 5 tỉnh Kon Tum,
Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng và chủ nhân của loại hình văn hóa
đặc sắc này là cư dân các dân tộc Tây Nguyên: Bana, Xêđăng, Mnơng, Cơho,
Rơmăm, Êđê, Giarai... Cồng chiêng gắn bó mật thiết với cuộc sống của người


Tây Nguyên, là tiếng nói của tâm linh, tâm hồn con người, để diễn tả niềm vui,
nỗi buồn trong cuộc sống, trong lao động và sinh hoạt hàng ngày của họ.


Cồng chiêng là loại nhạc khí bằng hợp kim đồng, có khi pha vàng, bạc hoặc
đồng đen. Cồng là loại có núm, chiêng khơng núm. Nhạc cụ này có nhiều cỡ,
đường kính từ 20cm đến 60cm, loại cực đại từ 90cm đến 120cm. Cồng chiêng
có thể được dùng đơn lẻ hoặc dùng theo dàn, bộ từ 2 đến 12 hoặc 13 chiếc,
thậm chí có nơi từ 18 đến 20 chiếc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Tất cả các lễ hội trong năm, từ lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh đến lễ bỏ mả, lễ cúng
máng nước, lễ mừng cơm mới, lễ đóng cửa kho, lễ đâm trâu.. . hay trong một
buổi nghe khan... đều phải có tiếng cồng. Tiếng chiêng dài hơn đời người, tiếng
chiêng nối liền, kết dính những thế hệ.


Theo quan niệm của người Tây Nguyên, đằng sau mỗi chiếc cồng, chiêng đều
ẩn chứa một vị thần.Cồng chiêng càng cổ thì quyền lực của vị thần càng
cao.Cồng chiêng còn là tài sản quý giá, biểu tượng cho quyền lực và sự giàu có.
Đã có thời một chiếc chiêng giá trị bằng hai con voi hoặc 20 con trâu. Vào
những ngày hội, hình ảnh những vịng người nhảy múa quanh ngọn lửa thiêng,
bên những vò rượu cần trong tiếng cồng chiêng vang vọng núi rừng, tạo cho
Tây Nguyên một không gian lãng mạn và huyền ảo. Cồng chiêng do vậy góp
phần tạo nên những sử thi, những áng thơ ca đậm chất văn hóa Tây Nguyên
vừa lãng mạn, vừa hùng tráng.


Cồng chiêng đã đi vào sử thi Tây Nguyên như để khẳng định tính trường tồn
của loại nhạc cụ này: “Hãy đánh những chiêng âm thanh nhất, những chiêng
kêu trầm nhất. Đánh nhè nhẹ cho gió đưa xuống đất.Đánh cho tiếng chiêng
vang xa khắp xứ. Đánh cho tiếng chiêng luồn qua sàn lan đi xa. Đánh cho tiếng
chiêng vượt qua nhà vọng lên trời.Đánh cho khỉ trên cây cũng quên bám chặt
vào cành đến phải ngã xuống đất. Đánh cho ma quỷ mê mải nghe đến quên làm


hại con người. Đánh cho chuột sóc quên đào hang, cho rắn nằm ngay đơ, cho
thỏ phải giật mình, cho hươu nai đứng nghe quên ăn cỏ, cho tất cả chỉ còn lắng
nghe tiếng chiêng của Đam San...”.


Trên cơ sở đó, cồng chiêng Tây Nguyên ẩn chứa nhiều giá trị sâu sắc, có thể
coi là hình ảnh đại diện cho một vùng đất anh hùng, là biểu trưng cho cộng
đồng các dân tộc Tây Nguyên và là một màu sắc độc đáo trong bức tranh văn
hóa Việt Nam đa đạng, đậm dà bản sắc. Giá trị của Cồng chiêng Tây Nguyên
thể hiện qua bản chất nghệ thuật mà nó mang lại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

về chế độ rung và lan truyền âm thanh trên mặt chiêng và trong khơng gian. Có
hai phương pháp chỉnh sửa mà người nghệ nhân ở Tây Ngun sử dụng: Gõ,
gị theo hình vảy tê tê và theo hình lượn sóng. Do vậy, kỹ thuật gõ, gị theo
đường tròn trên những điểm khác nhau quanh tâm điểm của từng chiếc chiêng
là một phát hiện vật lý đúng đắn, khoa học (mặc dù trình độ phát triển xã hội
của người Tây Nguyên thuở xưa chưa biết đến vật lý học). Đây là sáng tạo lớn
của cư dân các dân tộc ít người Tây Nguyên.


Để đáp ứng các yêu cầu thể hiện bằng âm nhạc khác nhau, các tộc người Tây
Nguyên đã lựa chọn nhiều biên chế dàn cồng chiêng khác nhau:


Dàn chiêng có 2 hay 3 chiếc: Biên chế này tuy nhỏ nhưng theo quan niệm của
nhiều tộc người Tây Nguyên, đây là biên chế cổ xưa nhất. Dàn 2 chiêng bằng
gọi là chiêng Tha, của người Brâu; dàn 3 cồng núm của người Churu, Bana,
Giarai, Gié-Triêng... cũng thuộc loại này Dàn chiêng có 6 chiêng phổ biến ở
nhiều tộc người: Dàn 6 chiêng bằng của người Mạ; dàn Stang của người
Xơđăng; dàn chiêng của các nhóm Gar, Noong, Prơng thuộc dân tộc Mnơng;
dàn chiêng Diek của nhóm Kpạ người Êđê. Cũng có dàn gồm 6 cồng núm như
nhóm Bih thuộc dân tộc Êđê. Dàn chiêng 6 chiếc có thể đảm trách nhịp điệu
như dàn cồng núm của nhóm Bih thuộc dân tộc Êđê, dàn Diek của nhóm Kpạ


dân tộc Êđê, dàn chiêng của nhóm Noong dân tộc Mnông.


Dàn chiêng 11 hoặc 12 chiếc gồm 3 cồng núm và 8-9 chiếc chiêng bằng của
các tộc người Giarai (ngành Aráp), Bana (ngành TồLồ, Kon K’Đeh), người
Xơđăng (ngành Steng).


Các dàn chiêng có biên chế 3 chiêng trở lên thường có chiếc trống lớn và cặp
chũm choẹ.Riêng dàn 3 cồng núm của người Churu thì phải có chiếc khèn 6 âm
phối hợp.


Ở nhiều tộc người như Churu, Xơđăng, Mnông và đặc biệt tộc người Giarai,
Bana, phụ nữ (nhất là các cô gái trẻ) làm thành một dàn múa đồng hành với bản
nhạc chiêng.Điều đáng nói là các điệu múa này được coi là thành tố không thể
thiếu của việc diễn tấu các bài cồng chiêng (khơng được dùng bên ngồi diễn
tấu cồng chiêng hoặc trình diễn giải trí).


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

đáp ứng cho yêu cầu của mỗi lễ thức và được coi như một thành tố hữu cơ của
lễ thức đó.Như thế, mỗi nghi lễ có ít nhất một bài nhạc chiêng riêng. Trong mỗi
nghi lễ, lại có thể có nhiều cơng đoạn có nhạc chiêng riêng: Người ngành Aráp
dân tộc Giarai ở vùng Ea H’Leo tỉnh Đắc Lắc có các bài nhạc chiêng cho các lễ
đâm trâu, khóc người chết trong tang lễ, mừng nhà rông mới, mừng chiến thắng,
lễ xuống giống, lễ cầu an cho lúa, mùa gặt... Ngoài ra, cịn có những bài chiêng
dùng cho các sinh hoạt cộng đồng như: Lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh, mừng nhà
mới, chúc sức khoẻ...


Các bài chiêng cũng đạt đến một trình độ biểu cảm âm nhạc phù hợp với trạng
thái tình cảm của con người trong mỗi nghi lễ: Chiêng tang lễ hay bỏ mả thì
chậm rãi, man mác buồn; chiêng mùa gặt thì thánh thót, vui tươi; chiêng đâm
trâu thì nhịp điệu giục giã...



Nếu chỉ là cồng chiêng thì đơn thuần nó chỉ là một nhạc cụ nhưng để hiểu, để
cảm và để chứng minh cho một lịch sử hào hùng, chúng ta cần phải đặt cồng
chiêng trong khơng gian của văn hóa với những giá trị sâu sắc.


Thứ nhất, văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên bắt rễ từ truyền thống văn hoá và
truyền thống lịch sử của cộng đồng có liên quan Từ cơ tầng văn hố Đông Nam
Á thời tiền sử, vào khoảng cuối nửa đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước Công
nguyên, trên đất nước Việt Nam ngày nay đã hình thành và phát triển 3 trung
tâm văn hoá lớn thuộc thời đại đồ đồng (Bronze Age): Văn hố Đơng Sơn ở
miền Bắc; văn hố Sa Huỳnh ở miền Trung; văn hoá Đồng Nai ở Nam Bộ. Các
cộng đồng dân cư của 3 trung tâm này có những mối giao lưu văn hóa thường
xuyên và nhiều chiều với nhau. Cả 3 trung tâm đều có kỹ nghệ đúc đồng đặc
biệt phát triển, sáng tạo nên những cơng cụ, vũ khí, đồ trang sức, đặc biệt là các
loại nhạc cụ bằng đồng rất độc đáo. Các hiện vật khảo cổ của văn hố Đơng
Sơn như trống đồng, cây đèn Lạch Trường có những hình chạm khắc cách chơi
các loại nhạc cụ đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

nhiều hiện vật đồ đồng, đồ sắt, nhất là khn đúc rìu đồng (Nguyễn Khắc Sử,
Thông báo khảo cổ học, 2004). Điều đó có nghĩa là, cư dân cổ xưa ở Tây
Nguyên đã từng có một kỹ nghệ đúc đồng, một nền văn hố thời kim khí. Điều
đáng nói là tất cả các nhạc cụ trên, nhất là cồng chiêng, đều tiếp tục được sử
dụng và tồn tại đến ngày nay như một thành tố hữu cơ trong nền âm nhạc của
các dân tộc Việt Nam, dù là họ sinh sống ở phía Bắc hay ở duyên hải miền
Trung.


Thứ 2, cồng chiêng đóng vai trị là phương tiện khẳng định cộng đồng và bản
sắc văn hoá dân tộc của cộng đồng các dân tộc ít người ở Tây Ngun Di sản
văn hố của các thế hệ tộc người ở Tây Nguyên gồm: Kho tàng ngữ văn dân
gian, nghệ thuật điêu khắc dân gian, tri thức dân gian, nhưng nổi trội nhất là sử
thi và cồng chiêng. Người dân nơi đây có cồng chiêng để ứng xử với thiên


nhiên, cầu xin, giãi bày với thần linh, tổ tiên, đối thoại với cộng đồng và với
chính mình.Khó có nhạc khí nào, sinh hoạt văn hố nào lại có nhiều vai trị đến
vậy.Với các dân tộc ít người ở Tây Nguyên, phương tiện để khẳng định cộng
đồng và bản sắc cộng đồng là cồng chiêng và văn hoá cồng chiêng


Mỗi dân tộc ở Tây Nguyên có một cách tổ chức dàn cồng chiêng khác nhau,
cách chơi cũng khác nhau. Có ít nhất 3 phong cách âm nhạc lớn của cồng
chiêng Tây Nguyên: Cồng chiêng Êđê nhịp điệu phức hợp, tốc độ nhanh,
cường độ lớn; cồng chiêng Mnông cường độ không lớn mặc dù tốc độ khá
nhanh; cồng chiêng Bana - Giarai thiên về tính chất chủ điệu (một bè trầm của
cồng có núm vang lên âm sắc vững chãi, hùng tráng, một bè giai điệu thánh
thót của chiêng khơng có núm với âm sắc đanh gọn, lảnh lót).


Bản sắc văn hố các dân tộc ít người Tây Nguyên thể hiện đậm đà nhất trong
cồng chiêng và sinh hoạt văn hố cồng chiêng. Tín ngưỡng, lễ hội, nghệ thuật
tạo hình, múa dân gian và ẩm thực dân gian... đều thể hiện, gắn bó mật thiết với
cồng chiêng (các tượng tròn ở nhà mồ của các dân tộc Tây Nguyên chỉ trở nên
đẹp hơn với ngày lễ bỏ mả trong một không gian huyền ảo đầy những tiếng
cồng chiêng sâu lắng).


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

cộng đồng này với cộng đồng khác của cùng một dân tộc. Điều đáng lưu ý là
Tây Nguyên có nhiều dân tộc, nhưng các dân tộc ln hồ hợp lẫn nhau trong
văn hố cồng chiêng mà vẫn giữ được bản sắc văn hoá của dân tộc mình,
khơng có hiện tượng loại trừ hay đồng hoá văn hoá của nhau trong sinh hoạt
văn hoá cồng chiêng. Các dân tộc đều có thể đến với nhau khi sinh hoạt văn
hố cồng chiêng. Tiếng cồng chiêng ln đem đến một cảm xúc rạo rực khó tả
trong mỗi con người, như sự đồng thanh tương ứng khiến họ tìm đến với nhau.
Thứ 3, cư dân các dân tộc ít người ở Tây Nguyên đã đạt đến những hiểu biết
sâu và có các kỹ thuật điêu luyện trong việc sử dụng cồng chiêng trong văn hoá
và âm nhạc của mình Điều này thể hiện ở việc chỉnh âm chiêng mua về với tư


cách là một hàng hố để nó trở thành một nhạc cụ trong dàn cồng chiêng của
dân tộc; thể hiện ở việc lựa chọn các biên chế dàn chiêng, ở việc quy định giới
tính, tư thế và kỹ xảo diễn tấu. Ngồi ra, họ cịn sáng tác nhiều bản nhạc chiêng
cho những công dụng khác nhau.


Thứ 4, cồng chiêng Tây Nguyên có giá trị như một bằng chứng độc đáo của
đặc trưng truyền thống văn hoá Cồng chiêng có mặt trong nền văn hố của
nhiều nước trên thế giới (nhất là châu Á). Tuy nhiên, dạng cồng chiêng được tổ
chức thành dàn để diễn tấu độc lập hoặc kết hợp với các nhạc cụ khác thì chủ
yếu thấy ở các nước Đông Nam Á. Ở Việt Nam, hầu như tất cả các tộc người
đều sử dụng cồng chiêng. Nhưng các dân tộc thường chỉ dùng 1-2 cồng phối
hợp với một trống dùng trong nghi lễ hoặc giữ nhịp cho múa.Người Mường ở
các tỉnh miền núi phía Bắc có dàn cồng sắc bùa, bao gồm một biên chế 8-12
chiếc cồng núm.Biên chế chiêng thành dàn là đặc trưng trong văn hoá của các
tộc người Tây Nguyên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

thì đó là nhiệm vụ của cả nam lẫn nữ). Là sở hữu của cộng đồng, cồng chiêng
Tây Nguyên có vai trò như một biểu tượng cho năng lực sáng tạo văn hố, âm
nhạc của người dân trong khơng gian văn hoá Tây Nguyên. Cho đến nay, cồng
chiêng và sinh hoạt văn hố gắn bó với cồng chiêng vẫn tồn tại trong từng gia
đình, p’lei, bon, bn. Trong khi ở một số nước Đông Nam Á, cồng chiêng hầu
như đã trở thành hoạt động âm nhạc có tính chun nghiệp như các dàn
Gamelan của Inđônêxia, dàn Khong wong trong Mahori của Thái Lan, trong
Pin Peat của Campuchia. Đặc điểm này cho thấy cồng chiêng Tây Ngun có
thể cịn lưu giữ nhiều yếu tố cổ xưa hơn.


</div>

<!--links-->

×