Tải bản đầy đủ (.docx) (150 trang)

đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết lịch sử việt nam thập niên đầu thế kỉ xxi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (768 KB, 150 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>MỞ ĐẦU</b>
<b>1. Lý do chọn đề tài</b>


<b>1.1. Trước đổi mới (1986), ý thức sáng tác của các nhà văn trong đó có các nhà tiểu</b>
thuyết lịch sử đều chịu sự chi phối bởi quan niệm thẩm mĩ của hệ hình hiện thực xã hội
chủ nghĩa với một số nguyên tắc về khuynh hướng nghệ thuật được đề cao như những
chuẩn mực mang tính pháp quy, coi trọng tính tương đồng với những mơ hình, khn
mẫu nghệ thuật có sẵn mang tính độc tơn, khép kín. Tính khác biệt ít được coi trọng. Sau
1986, tiểu thuyết Việt Nam từng bước đổi mới không chỉ đơn thuần là sự tìm tịi, lạ hố
mà cịn là sự thay đổi quan niệm về thể loại nhằm vươn tới tầm vóc của tiểu thuyết và tầm
đón đợi của người đọc đương đại. Sự đổi mới tiểu thuyết, vì thế vừa hướng tới chủ thể
sáng tạo vừa hướng tới chủ thể tiếp nhận. Những nỗ lực cách tân của người viết đòi hỏi
người đọc phải chủ động với cách đọc, cách cảm thụ tác phẩm, tránh tình trạng quen với
lối đọc của hệ hình cũ.


<b>1.2. Khắc phục những hạn chế mang tính lịch sử của các thời kỳ trước, tiểu thuyết</b>
lịch sử sau 1986, đặc biệt là thập niên đầu thế kỉ XXI đã từng bước cách tân, đáp ứng nhu
cầu của người đọc cũng như đảm bảo sự sống còn của thể loại. Các tác giả tiểu thuyết lịch
sử đã có cách xử lí linh hoạt mối quan hệ giữa lịch sử và hư cấu để đảm bảo đặc trưng thể
loại và chuyển tải được nhiều vấn đề về cuộc sống hiện đại. Lịch sử dưới ngòi bút của họ
là kết quả của sự nhận thức lại một cách sâu sắc bằng những kiến giải giàu tính thuyết
phục. Trong thực tiễn sáng tác, nhất là mười năm đầu thế kỉ XXI, các cây bút tiểu thuyết
lịch sử đã có ý thức tìm tịi, đổi mới nghệ thuật và kỹ thuật tiểu thuyết trên cơ sở gắn nó
với nội dung nhân bản, xã hội để thúc đẩy thể loại phát triển, góp phần cách tân và hiện
đại hóa văn xi Việt Nam hiện đại. Sự đổi mới ấy vừa phản ánh sự đổi mới chung vừa
có những đóng góp riêng vào nghệ thuật tự sự của văn học. Từ đó, tiểu thuyết lịch sử Việt
Nam nói chung và tiểu thuyết lịch sử Việt Nam giai đoạn thập niên đầu thế kỉ XXI nói
riêng khơng chỉ đóng góp cho nền tiểu thuyết dân tộc thêm phong phú mà còn tạo dựng
một vị thế xứng đáng trên văn đàn và trong lòng độc giả bằng những tác phẩm lớn ở cả
phương diện nội dung lẫn nghệ thuật biểu hiện.



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>Khuê), Hồ Quý Ly và Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân Khánh), Hội thề</i>
<i>(Nguyễn Quang Thân), Tây Sơn bi hùng truyện (Lê Đình Danh), Tám triều vua Lý (Hồng</i>
<i>Quốc Hải), Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hồng, Bí mật hậu cung (Bùi Anh Tấn), Minh sư</i>
<i>(Thái Bá Lợi), Nguyễn Du (Nguyễn Thế Quang), Thế kỉ bị mất (Phạm Ngọc Cảnh Nam),…</i>
Lịch sử trong quan niệm của các nhà tiểu thuyết đương đại không đơn thuần là tái tạo lại
không khí thời đại mà đã có nhiều biến chuyển theo hướng đối thoại, luận giải, nhận thức
lại lịch sử, gắn liền với cảm thức văn hóa và sự thức nhận về hiện thực đời sống đương đại.


<b>1.4. Nhìn chung, tiểu thuyết lịch sử vẫn đang tiếp diễn và qua những chặng đường</b>
phát triển, rất cần có những cơng trình khoa học tổng kết, nhận diện những đặc trưng của
<i>nó. Do đó, đi sâu tìm hiểu Đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thập niên</i>
<i>đầu thế kỉ XXI là để hiểu rõ hơn những nỗ lực tìm kiếm trong tư duy nghệ thuật mới mẻ</i>
của các tác gia viết tiểu thuyết lịch sử giai đoạn đầu thế kỉ XXI nói riêng và các nhà
tiểu thuyết Việt Nam đương đại nói chung. Từ đó, chúng ta sẽ có những đánh giá thỏa
đáng về những đóng góp thật sự của thể loại này trong dòng chảy của tiểu thuyết Việt
Nam đương đại.


<b>2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu</b>
<i><b>2.1. Đối tượng nghiên cứu</b></i>


Luận án khảo sát toàn diện đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết lịch sử giai đoạn thập
niên đầu thế kỉ XXI. Do số lượng tiểu thuyết lịch sử giai đoạn mười năm đầu thế kỉ XXI rất
lớn nên luận án chỉ tập trung vào những tác phẩm nổi bật cho từng khuynh hướng và mang
những đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này (luận án xác định thể loại dựa
trên nội hàm khái niệm về tiểu thuyết lịch sử được giới thuyết trong từ trang 10 - 12). Bên
cạnh đó, luận án khảo sát một số tác phẩm xuất bản sau 2010 nhưng được sáng tác trong
<i>giai đoạn này như: Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân Khánh) (2011), Huyền Trân (Nguyễn</i>
<i><b>Hữu Nam) (2011), Bí mật hậu cung (Bùi Anh Tấn) (2012). (Phụ lục 1)</b></i>


<i><b>2.2. Phạm vi nghiên cứu </b></i>



<i>Trong luận án Đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết lịch sử giai đoạn thập niên đầu thế</i>
<i>kỉ XXI, chúng tơi tập trung tìm hiểu những đặc trưng cơ bản thể loại trên các phương diện:</i>
dạng thức, xu hướng thể loại, thế giới nhân vật; một số phương thức tự sự như người kể
chuyện, điểm nhìn trần thuật và diễn ngôn trần thuật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Luận án sử dụng lý thuyết thi pháp học, tự sự học và lý thuyết về thể loại tiểu thuyết
lịch sử và lý thuyết tân lịch sử để nghiên cứu. Trên cơ sở lý thuyết, chúng tôi xác định các
vấn đề cần giải quyết trong luận án như sau:


1. Thông qua việc tổng quan tài liệu, các lý thuyết và các cơng trình nghiên cứu có
liên quan mật thiết đến đề tài nghiên cứu, luận án chỉ ra những điểm tương đồng cũng như
sự khác biệt, những thành công cũng như hạn chế của các cơng trình nghiên cứu trước
đây để kế thừa hay khắc phục trong luận án, đồng thời, đưa ra quan điểm để giải quyết
vấn đề nghiên cứu của đề tài mà tác giả đã xác định.


2. Luận án làm sáng tỏ quan niệm về thể loại, xác định những dạng thức, xu hướng
thể loại, thế giới nhân vật và phương thức tự sự trên cơ sở đối sánh với tiểu thuyết lịch sử
<i>giai đoạn trước đây. Từ đó, luận án có thể xác định những đổi mới cũng như những đóng</i>
<i>góp của thể loại vào tiến trình phát triển của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trong giai đoạn</i>
mười năm đầu thế kỉ XXI.


<b>4. Phương pháp nghiên cứu</b>


Thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau:


<i>– Phương pháp loại hình: Luận án đặt các tác phẩm tiểu thuyết lịch sử trong cùng</i>
một hệ thống nhằm xác định những đặc trưng của thể loại với cái nhìn tổng thể trên các
phương diện nội dung và hình thức phản ánh. Từ đó, luận án xác định danh tính và ý
nghĩa của chúng trong một hệ thống, đồng thời nhận dạng cấu trúc của hệ thống đó.



<i>– Phương pháp cấu trúc – hệ thống: Giải mã cấu trúc văn bản tiểu thuyết lịch sử</i>
từ các góc độ: Tự sự học, Thi pháp học, Tân lịch sử. Từ đó, thiết lập và sắp xếp các vấn
đề một cách logic, khoa học; xem xét, đánh giá trong tính chỉnh thể của chúng.


<i>– Phương pháp so sánh: Phương pháp này được vận dụng để tìm hiểu những nét</i>
tương đồng và dị biệt trong tư duy tự sự lịch sử và các phương thức nghệ thuật của tiểu
thuyết lịch sử thập niên đầu thế kỉ XXI so với giai đoạn trước đó nhằm khẳng định tư duy
nghệ thuật mới mẻ của các nhà văn đương đại trong tiến trình phát triển của tiểu thuyết
Việt Nam đương đại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Ngoài ra, luận án cũng thường xuyên sử dụng một số thao tác nghiên cứu như
thống kê phân tích, tổng hợp nhằm đưa ra những luận chứng cụ thể, sinh động chứng
minh cho những luận điểm được tác giả trình bày trong luận án.


<b>5. Đóng góp khoa học của luận án</b>


Với đề tài này, luận án hy vọng sẽ đóng góp được những vấn đề có ý khoa học sau:


Thứ nhất, thơng qua việc khảo sát và hệ thống hóa tư liệu về tiểu thuyết lịch sử
Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI, luận án cung cấp cái nhìn tổng quan về diện mạo của
tiểu thuyết lịch sử giai đoạn thập niên đầu thế kỉ XXI.


Thứ hai, trên cơ sở chỉ ra sự đổi mới quan niệm thể loại trong bối cảnh mới, luận án
dựa vào khung chủ đề và kết cấu của tác phẩm để xác định một số xu hướng và dạng thức
tiêu biểu (mang tính tương đối) của tiểu thuyết lịch sử giai đoạn thập niên đầu thế kỉ XXI.


Thứ ba, từ góc độ loại hình, luận án phân loại và đưa ra một số kiểu nhân vật và
phương thức xây dựng nhân vật theo đặc trưng của thể loại, đồng thời chỉ ra sự vận động
của thể loại thông qua quan niệm nghệ thuật về con người.



Thứ tư, luận án đi vào làm rõ ba phương thức tự sự mang tính đặc trưng của tiểu
thuyết lịch sử: người kể chuyện, điểm nhìn trần thuật, diễn ngơn trần thuật trong cái nhìn
đối sánh với tiểu thuyết lịch sử giai đoạn trước đó nhằm khẳng định sự đổi mới và đóng
góp của thể loại tiểu thuyết lịch sử trong nền văn học Việt Nam đương đại.


<b>6. Cấu trúc của luận án</b>


<b>Ngồi Mở đầu trình bày những vấn đề chung có tính trường quy như: Lý do chọn</b>
<b>đề tài, Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, Cơ sở lý thuyết, Phương pháp nghiên cứu; Kết</b>
<b>luận; Tài liệu tham khảo, Phụ lục; Nội dung chính của luận án được cấu trúc thành bốn</b>
chương, cụ thể:


<i>Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu: Luận án trình bày một cách khái quát</i>
về tình hình nghiên cứu thể loại tiểu thuyết lịch sử hiện đại ở Việt Nam nói chung và tiểu
thuyết lịch sử Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI nói riêng. Trên cơ sở đó, luận án tìm ra
những “khoảng trắng” trong việc xác định danh tính và ý nghĩa của thể loại tiểu thuyết
lịch sử thập niên đầu thế kỉ XXI trong một hệ thống thể loại, đồng thời nhận dạng những
đặc trưng cấu trúc của hệ thống đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

lịch sử thập niên đầu thế kỉ XXI nhìn từ các xu hướng và dạng thức thể loại. Đồng thời,
luận án tập trung khảo sát, so sánh, từ đó, chỉ ra những đổi mới về tư duy, xu hướng thể
loại và sự đa dạng về dạng thức của thể loại so với giai đoạn trước đây.


<i>Chương 3. Đặc trưng tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI – nhìn</i>
<i>từ thế giới nhân vật: Luận án tập trung phân loại nhằm xác định loại hình nhân vật có</i>
cùng những đặc trưng cơ bản trong tiểu thuyết lịch sử thập niên đầu thế kỉ XXI: nhân vật
sử thi hóa, nhân vật huyền thoại hóa, nhân vật thế tục hóa. Đồng thời, luận án chỉ ra
phương thức nghệ thuật xây dựng nhân vật thông qua nghệ thuật khắc họa ngoại hình,
hành động và tâm lý nhân vật.



<i>Chương 4. Đặc trưng tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI – nhìn</i>
<i>từ phương thức tự sự: Luận án tập trung khảo sát, phân tích, so sánh đối tượng trên một số</i>
phương diện trần thuật như người kể chuyện, điểm nhìn trần thuật và diễn ngơn trần thuật
nhằm chỉ ra những hình thức đổi mới về tư duy thể loại trên cấp độ tự sự, đặc biệt, luận án
nhận diện những hình thái diễn ngơn mới về lịch sử trong việc mở rộng biên độ sáng tạo
trong tiến trình vận động của thể loại.


<b>Chương 1</b>


<b> TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Thuật ngữ tiểu thuyết lịch sử (TTLS) xuất hiện khá sớm từ phương Tây, được sử
dụng phổ biến trên thế giới và đã có nhiều quan niệm khác nhau của những nhà TTLS nổi
tiếng về đặc trưng của thể loại này như A.Dumas, H.S.Haasse, P.Louis – Rey, Lucacs,
<i>D.Brewster và J.Burell… Chẳng hạn, trong công trình Tiểu thuyết hiện đại, hai nhà</i>
nghiên cứu D.Brewster và J.Burell đã chỉ ra vai trị của hư cấu nghệ thuật, cá tính sáng tạo
của nhà văn trong việc thể hiện hiện thực lịch sử và nhiệm vụ của TTLS: “Tiểu thuyết
lịch sử có thể thoát thai từ ước ao của một tác giả muốn đào thoát khỏi hiện tại, đồng thời
thỏa mãn ước ao tương tự của độc giả. Nhưng tiểu thuyết lịch sử cịn nhiều tác dụng nữa.
Nó có thể soi sáng những thời kì quá khứ con người đã trải qua, với những mục đích rõ
ràng là gạn lọc những tình trạng tiến thoái lưỡng nan của hiện tại” [19, 62]. Trương Đăng
<i>Dung trong bài Tiểu thuyết lịch sử trong quan niệm mỹ học của Lucacs trình bày quan</i>
niệm của G.Lucacs về thể loại: “Tiểu thuyết lịch sử phản ánh và mô tả sự phát triển hiện
thực của lịch sử một cách nghệ thuật, vì thế nó phải lấy kích thước nội dung và hình thức
từ chính cái hiện thực đó” [139, 455]; nhiệm vụ của nhà văn viết TTLS là “phải chứng
minh sự tồn tại của hoàn cảnh và các nhân vật lịch sử bằng công cụ nghệ thuật” và
“nhiệm vụ của nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử là phải tạo dựng được một cách phong phú
các tác động tương hỗ, cụ thể khớp với hoàn cảnh lịch sử mô tả” [139, 451].



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i>khứ với đời sống hiện tại” [62]. Bùi Văn Lợi trong luận án Tiểu thuyết Việt Nam từ những</i>
<i>năm đầu thế kỷ XX đến 1945 – diện mạo và đặc điểm đưa ra khái niệm: "Tiểu thuyết lịch</i>
sử là những tác phẩm mang trọn đặc trưng tiểu thuyết nhưng lại lấy nội dung lịch sử làm
đề tài, làm cảm hứng sáng tạo nghệ thuật" [83, 23]. Tác giả Nguyễn Thị Tuyết Minh với
<i>đề tài Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ 1945 đến nay là cơng trình mang tính khái qt,</i>
tổng hợp và tiếp nối những thành tựu của tác giả Bùi Văn Lợi nhằm khu biệt về các loại
hình nhân vật lịch sử, các khuynh hướng tái tạo lịch sử cùng các phương thức tự sự của
TTLS sau 1945 đến những năm đầu thế kỉ XXI. Trong đó, tác giả đưa ra định nghĩa: “lịch
sử là những gì đã qua, đã thuộc về quá khứ, đã khuất lấp bởi một khoảng thời gian dài mà
về văn hóa, đời sống đã khác với con người hiện đại.” [88, 27]. Nhìn chung, trên cơ sở so
sánh với các tiểu thuyết giao thoa, cả hai tác giả đã khu biệt kiểu viết về lịch sử mới của
tiểu thuyết và những đặc điểm của nó, tuy vậy vấn đề khái niệm TTLS đưa ra vẫn chưa cụ
thể và chưa đáp ứng được yêu cầu của thể loại. Đỗ Hải Ninh quan niệm rằng: “Tiểu
thuyết lịch sử là sự phản ánh chân thực các sự kiện, nhân vật lịch sử trong quá khứ đã
được tiếp nối bằng đối thoại với lịch sử, siêu hư cấu lịch sử, giả lịch sử” [103]. Đặc biệt,
nhà nghiên cứu Trần Đình Sử cho rằng TTLS khơng gì khác hơn chính là “sáng tạo nhân
vật và đời sống của một thời kì lịch sử cụ thể khơng lặp lại”. Nhiệm vụ của TTLS “không
phải là kể lại, tái hiện sự thật lịch sử… mà là sáng tạo ra diễn ngôn mới về lịch sử, nêu ra
cách nói mới, góc nhìn mới, phán xét mới, gợi mở khả năng mới” [112, 455].


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

lịch sử khác (ngoại vi) so với lịch sử được thừa nhận (trung tâm), và lịch sử, khi đi vào
lãnh địa tiểu thuyết, phải được tổ chức trên cơ sở hư cấu và nguyên tắc trò chơi vốn là
một đặc trưng của nghệ thuật” [40, 5 – 8].


Mối quan hệ giữa sự khách quan, chân xác của lịch sử và vai trò của hư cấu nghệ
thuật trong TTLS là một trong những vấn đề quan trọng được các nhà nghiên cứu cũng như
nhiều nhà văn như Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Khánh, Nam Dao, Võ Thị Hảo,
Nguyễn Quang Thân, Hoàng Quốc Hải, Thái Bá Lợi, Bùi Anh Tấn, Nguyễn Thế Quang,
Phạm Ngọc Cảnh Nam… đặc biệt quan tâm. Trong bài phỏng vấn của nhà văn Trung
<i>Trung Đỉnh Về nghệ thuật viết tiểu thuyết (Báo Văn nghệ, (38), 2001) tác giả Nguyễn</i>


Xuân Khánh quan niệm rằng: “tiểu thuyết lịch sử tạo ra hiện thực làm sao để gây cho
người đọc một ảo tưởng là nó có thật. Tiểu thuyết lịch sử phải dựng nên bối cảnh khơng
khí của thời đại… Tiểu thuyết phải có đời sống, bi hài trữ tình” [41, 3] và “Lịch sử chỉ là
cái cớ để tôi bám vào. Điều quan trọng là người viết tiểu thuyết phải biết vận dụng tổng
thể đời sống của mình vào cuốn tiểu thuyết ấy. Người viết không hẳn đã dựng lại được
<i>lịch sử ngày xưa, điều cốt yếu là thuyết phục được người đọc”. Trong bài Vài suy nghĩ về</i>
<i>tiểu thuyết lịch sử, Nguyễn Xuân Khánh cũng cho rằng khi đánh giá lịch sử đòi hỏi nhà</i>
văn phải xem “Lịch sử diễn ra với các sự kiện và nhân vật nhất định. Nó diễn ra chỉ một
lần và không lặp lại. Ta cứ tưởng như nó hồn tồn cố định, song khơng phải. Dưới con
mắt của nhiều người khác nhau và những cái nhìn ở những thời đại khác nhau, sẽ có
nhiều ý kiến khác nhau” [70]. Vậy nên, ông cho rằng TTLS nào cũng đều có ánh xạ của
đời sống hiện tại. Tiểu thuyết do một người hiện tại viết, cho những người hiện tại đọc.
Vậy những vấn đề cuốn sách đặt ra không chỉ cần đúng với lịch sử mà còn phải là những
vấn đề được người hiện tại quan tâm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<i>còn ghi lại trong tài liệu lịch sử” [26]. Trong khi đó, nhà văn Nguyễn Quang Thân (Đọc</i>
<i>tiểu thuyết lịch sử để lấy lại niềm tin) tự hào rằng chúng ta đọc TTLS không phải để biết</i>
lịch sử mà là để lấy lại niềm tin vào những gì đang chới với, đang “thấp thoáng” như giấc
mơ trong não trạng của những thế hệ chưa từng biết, từng qua chiến tranh nhưng lại đang
cảm thấy sắp sửa phải đi tiếp con đường gian nan không kém cha ông để thực hiện “giấc
mơ hịa bình”. Người đọc và tác giả gặp nhau đã nuôi dưỡng lâu bền cảm xúc và sự
trường tồn của TTLS và chiến tranh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Xét về mặt đặc trưng, TTLS là một “loại” thuộc thể loại tiểu thuyết nên tất yếu nó
cũng mang những tố chất mĩ học của tiểu thuyết. Song bên cạnh đó, xét về nội hàm khái
niệm thì TTLS cịn mang những đặc trưng riêng biệt so với các loại hình tiểu thuyết khác:


<i>- TTLS lấy đối tượng lịch sử làm nội dung và cảm hứng sáng tạo nghệ thuật.</i>
Nghĩa là, TTLS lấy đề tài và cảm hứng từ lịch sử của một dân tộc hay một quốc gia nào
đó. Có thể là các sự kiện, các nhân vật hoặc các giai đoạn trong lịch sử nhưng TTLS đích


thực phải là tác phẩm kể về câu chuyện có thật của một dân tộc, một cộng đồng người đã
từng tồn tại trong lịch sử và được cộng đồng đó thừa nhận. Bối cảnh, con người, không
gian và thời gian trong TTLS phải thuộc về thế giới của quá khứ được chính sử ghi chép
lại và được bảo lưu trong kho tàng lịch sử dân tộc.


<i>- Nhân vật trong TTLS vừa là nhân vật lịch sử vừa là nhân vật văn học. TTLS là</i>
tiểu thuyết mà ở đó nhân vật phải là nhân vật có thật trong lịch sử và đảm nhận vai trị
nhân vật trung tâm, nhân vật chính của câu chuyện, đồng thời được các nhà văn làm sống
dậy từ q khứ nên nhân vật trong tác phẩm có tính cách, có số phận, có tâm hồn. Nói
như G.Lucacs thì các nhân vật của TTLS phải sinh động hơn các nhân vật lịch sử, vì các
nhân vật của TTLS được trao cho sự sống còn các cá nhân lịch sử thì đã sống. Tiểu thuyết
cịn phải phục dựng lại thời đại mà nhân vật lịch sử sinh sống, do đó, bên cạnh những
nhân vật lịch sử, nhà văn buộc phải hư cấu thêm nhiều những nhân vật khác. Theo quan
niệm truyền thống, nhân vật trong TTLS thường là các ông hoàng bà chúa, các bậc anh
hùng, những người thuộc hàng trí tướng, hn tướng lỗi lạc. Họ đóng vai trị quan trọng
trong việc thiết lập một đế chế, một triều đại hay là lãnh tụ của phong trào nông dân khởi
nghĩa, cơng cuộc chống giặc ngoại xâm. Ngồi ra, hệ thống nhân vật hư cấu được nhà văn
sáng tạo chỉ làm “nền” cho nhân vật có thật trong lịch sử (giữ vai trị chính yếu, đảm nhận
nhiệm vụ chủ đạo trong tác phẩm). Tuy nhiên, theo quan niệm hiện đại, khơng phải ơng
hồng bà chúa hay các vị danh tướng lỗi lạc mới là đối tượng của TTLS, mà nhân vật
trong TTLS có thể là những con người bình thường, những hạ quan, những binh lính,
người phụ nữ, người nơng dân, người hầu,… thậm chí những nhân vật hư cấu đều có thể
<i>trở thành nhân vật chính trong tác phẩm: An (Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác),</i>
<i>Cả Hinh (Thế kỉ bị mất của Phạm Ngọc Cảnh Nam),…</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11></div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

người nghệ sĩ trở nên bay bổng hơn, tự do hơn trong lao động nghệ thuật, TTLS vì vậy
càng mang nhiều hình tượng thẩm mĩ nhằm đối thoại với cuộc sống hiện tại hơn.


<i>- TTLS dùng quá khứ làm phương tiện để đối thoại với hiện tại. TTLS không coi</i>
trọng việc miêu tả quá khứ như một mục đích tự tại mà chủ trương nối liền quá khứ với


hiện tại, từ lịch sử đặt ra những vấn đề cho hiện tại và tương lai. Trần Đình Sử khẳng
định: “TTLS nào cũng mang trong mình hai lần lịch sử: lịch sử thời đã qua và lịch sử thời
người viết đang sống”[112, 457]. Nhà văn kể một câu chuyện về quá khứ nhưng các động
từ vẫn được chia ở thì hiện tại, họ muốn rút ra từ quá khứ những bài học cho hôm nay.
Thông qua thế giới nghệ thuật, người viết TTLS muốn gửi gắm cách nhìn, cách cảm, cách
nghĩ của mình về con người và cuộc sống hiện đại trên “mối quan hệ sinh động với hiện
tại thể hiện ngay chính trong sự vận động được mơ tả của lịch sử, và tự nó sẽ nói
lên”[139, 192].


Tóm lại, TTLS hiện đại là những tác phẩm mang đậm những đặc trưng của thể loại
tiểu thuyết (yếu tố hư cấu, yếu tố phản ánh toàn vẹn hiện thực, yếu tố con người cá nhân,
yếu tố thẩm mĩ…) nhưng lấy lịch sử làm đề tài, làm cảm hứng sáng tạo nghệ thuật nhằm
giải mã lịch sử, sáng tạo ra diễn ngôn mới về lịch sử, đem lại cho người đọc cái nhìn mới,
những cảm xúc thẩm mĩ mới về lịch sử, từ đó, giúp độc giả biết thêm nhiều mặt khác
nhau của đời sống con người, của những mặt sinh hoạt mang tính chất đời tư của con
người trong quá khứ nhằm soi sáng những vấn đề của hiện tại. Những đặc điểm này của
thể loại TTLS đòi hỏi nhà văn phải vừa là nghệ sĩ vừa là nghiên cứu, có vốn sống và hiểu
biết phong phú, có quan điểm lịch sử đúng đắn và tiến bộ.


<b>1.2. Tình hình nghiên cứu về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI</b>
Trong những năm gần đây, TTLS thực sự trở thành một vấn đề thu hút sự quan
tâm của giới nghiên cứu và phê bình trong nước. Với rất nhiều bài viết và cơng trình lớn
nhỏ cùng sự đầu tư nghiên cứu nghiêm túc, các nhà nghiên cứu mong tìm ra những lời
giải xác đáng cho thể loại tiểu thuyết còn nhiều tranh cãi. Nội dung các bài viết thường
tranh luận xoay quanh một số vấn đề như: Quan niệm về TTLS? Mối quan hệ giữa sự
thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật? Những thành tựu của TTLS đương đại trên các phương
diện nội dung và hình thức thể hiện.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13></div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

“đã mang lại nhiều cách tiếp cận, cách kiến giải lịch sử… giúp đẩy lùi khuynh hướng ca
ngợi một chiều, thần thánh hóa quá mức, khiến cho các nhân vật lịch sử trở nên xơ cứng,


ít mang ý nghĩa giáo dục hay người đọc có thể hồi nghi về sự tồn tại của chính các nhân
vật đó.” [96]


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

nguyên mẫu chung, lại có thể có những cách tiếp cận, cái nhìn, sự luận giải và lối viết
khác biệt”. Nhìn chung, bài viết khá nghiêm túc trong việc tiếp cận tác phẩm và có cách
đánh giá mới mẻ so với nhiều bài viết trước đây.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

<i>thuyết Việt Nam đương đại, trong đó có TTLS: nước – lửa (Giàn thiêu – Võ Thị Hảo),</i>
<i>bức tượng đá (Hồ Quý Ly – Nguyễn Xuân Khánh), Mẫu, đêm, đất, rừng, trăng, cây đa, rắn</i>
<i>thần (Mẫu Thượng Ngàn – Nguyễn Xuân Khánh)… Tác giả nhấn mạnh những biểu tượng</i>
này tham gia trực tiếp vào kết cấu hình tượng, kết cấu tác phẩm và là hệ quả của quan
niệm “tính trị chơi” của văn chương hiện đại. Nhìn chung, tác giả bài viết chỉ khái quát
một vài biểu tượng trong ba quyển TTLS nhưng sẽ mở ra hướng nghiên cứu mới mẻ, hấp
dẫn về hệ biểu tượng trong TTLS giai đoạn mười năm đầu thế kỉ XXI. Đặc biệt, với luận
<i>án Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1986 từ góc nhìn tự sự học, Nguyễn Văn Hùng</i>
nghiên cứu các phương thức tự sự như người kể chuyện, điểm nhìn tự sự, thời gian tự sự,
kết cấu tự sự và diễn ngơn tự sự. Trên cơ sở đó, tác giả có cái nhìn đối sánh với giai đoạn
trước đó để chỉ ra sự đổi mới trong tư duy và phương thức tự sự lịch sử trên nguyên tắc
đối thoại, luận giải của TTLS sau 1986. Đây là một trong những cơng trình quan trọng
góp phần khẳng định vị trí, vai trị và những đóng góp mới của thể loại trong tiến trình
phát triển của văn học Việt Nam đương đại.


Ngồi ra, cịn rất nhiều buổi tọa đàm, cơng trình nghiên cứu, bài viết về các tác
phẩm và tác giả TTLS riêng lẻ. Theo khảo sát và thống kê tư liệu, chúng tơi nhận thấy
phần lớn các cơng trình và bài viết thường xoay quanh tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh
dưới nhiều góc nhìn khác nhau. Dưới đây là một số cơng trình và bài viết đáng chú ý:


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

<i>Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh Nguyễn Thị Thu Hương nhận diện một số loại hình</i>
nhân vật trong Hồ Quý Ly: hệ thống nhân vật có thật trong lịch sử và hệ thống nhân vật
hư cấu. Nhà văn chứng tỏ bản lĩnh của một “nhà văn có tài khi đứng vững ở ranh giới,


giữa nhiệm vụ của một nhà tiểu thuyết và một nhà tiểu thuyết lịch sử khi xây dựng nhân
vật và sự việc; ở ranh giới giữa sự thực và hư cấu khi thể hiện nhân vật lịch sử. Và nhà
văn chọn cách ứng xử nghệ thuật hợp lý khi hòa hợp cả hai yếu tố ấy trong cùng một sự
việc, một con người để làm nên một thế giới nhân vật sống động, phong phú”. [67]


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Việt, cái thực tại vừa chứa đựng hiện thực, vừa rất hư ảo, bền chặt xuyên suốt mà cũng lại
<i>biến hóa khơn lường, rất riêng và rất chung, rất bản địa mà cũng rất nhân loại” (Một cuốn</i>
<i>tiểu thuyết thật hay về nền văn hóa Việt, Báo Tuổi trẻ online, ngày 12/7/2006). </i>


<i>Tác giả Nguyễn Thanh Lâm khi đọc Đội gạo lên chùa vô cùng xúc động: “nhà văn</i>
Nguyễn Xn Khánh đã nhìn rõ tính minh triết của Phật giáo Việt Nam. Tu trong đời
thường “Cư trần lạc đạo thả tùy duyên” và gieo vào nhân gian những hạt mầm ánh sáng –
<i>những hạt mầm thiền” [tr.94] (Cảm nhận đọc Đội gạo lên chùa của nhà văn Nguyễn</i>
<i>Xuân Khánh, Tạp chí Nhà văn, Số 8.2011). Mai Anh Tuấn với bài Tiểu thuyết như một</i>
<i>tham khảo Phật giáo cho rằng Đội gạo lên chùa hiển thị trước hết như một tham khảo về</i>
Phật giáo và điều đó đã được thể hiện ngay từ tiêu đề, đã tiết lộ một dấu chỉ Phật giáo.
Đồng thời, “chọn Phật giáo làng quê làm đối tượng triển khai, Nguyễn Xuân Khánh, một
<i>lần nữa sau Hồ Quý Ly và đặc biệt là Mẫu Thượng Ngàn, tiếp tục khảo sát các lớp lang và</i>
giá trị văn hóa Việt với một cảm quan dân tộc chủ nghĩa đắm đuối. Cảm quan này sẽ chi
<i>phối cách ông biện luận, trong Đội gạo lên chùa, những phạm trù nổi bật của Phật giáo</i>
Việt” [137, 95].


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

<i>khuôn khổ của “lối viết cổ điển”. Nguyễn Văn Hùng đã chỉ ra Một số phương thức lựa</i>
<i>chọn và thể hiện hiện thực lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh như: phương thức</i>
lựa chọn giai đoạn, thời điểm lịch sử, phương thức thể hiện lịch sử và luận giải những vấn
đề lịch sử, văn hóa, cùng sự thể nghiệm phương thức tư duy và tự sự lịch sử độc đáo, mới
<i>lạ. Nguyễn Thị Thu Hương với bài viết Yếu tố huyền thoại trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân</i>
<i>Khánh trình bày các dạng thức yếu tố huyền thoại trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh</i>
<i>bắt nguồn từ tín ngưỡng cộng đồng và truyện kể dân gian (Mẫu Thượng Ngàn); Yếu tố</i>
<i>huyền thoại gắn với sự kiện và nhân vật lịch sử (Hồ Quý Ly); Yếu tố huyền thoại bắt</i>


<i>nguồn từ tôn giáo (Đội gạo lên chùa). Tác giả kết luận rằng, chính những dạng thức</i>
huyền thoại đã góp phần tạo nên bản sắc riêng trong phong cách nghệ thuật đầy sức hấp
<i>dẫn của Nguyễn Xuân Khánh. Tác giả Trịnh Thị Mai trong bài viết Trường từ vựng về</i>
<i>Phật giáo trong hai tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân</i>
<i>Khánh chỉ ra các trường từ vựng trong hai tác phẩm: trường từ vựng về tôn giáo (Đạo</i>
Phật, Đạo Thiên Chúa, Đạo Mẫu), trong đó, trường từ vựng về Phật giáo được nói đến
nhiều nhất (681 từ với 2665 lần xuất hiện). Từ kết quả thống kê, tác giả bài viết nhận xét
<i>rằng Đội gạo lên chùa thực sự là cuốn tiểu thuyết viết về Phật giáo Việt Nam và như thế</i>
Nguyễn Xuân Khánh xứng đáng được xem là một “đệ tử của Phật giáo” từ trong tình
cảm, tâm thức của ông.


Đặc biệt, tháng 10/2012 đã diễn ra buổi tọa đàm về tiểu thuyết Nguyễn Xuân
Khánh, do Viện Văn học và Nhà xuất bản Phụ nữ tổ chức. Mở đầu buổi toạ đàm, với bài
<i>viết Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh, một diễn ngôn về lịch sử và văn hóa, tác giả</i>
Nguyễn Đăng Điệp chỉ ra rằng “Nguyễn Xuân Khánh đã trải qua một quá trình lựa chọn
và điều chỉnh. Thứ nhất, lựa chọn vị thế phát ngôn. Thứ hai, Nguyễn Xn Khánh lựa
chọn ngón chơi hợp lý. Ơng không chạy theo kiểu tự sự hiện đại, hậu hiện đại mà lựa
chọn lối viết gần với truyền thống để tiểu thuyết không rơi vào nệ thực và ghi chép.”[40,
15]. Trong một nhận định khác, tác giả bài viết cho rằng tính hấp dẫn của diễn ngơn nghệ
thuật Nguyễn Xn Khánh chủ yếu nằm ở tính đối thoại”. Đồng thời, tác giả khẳng định
“cảm thức và suy tư về tinh thần dân tộc, bản sắc văn hóa dân tộc trực tiếp quy định diễn
ngôn nghệ thuật Nguyễn Xuân Khánh” [40, 23].


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20></div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

<i>Huy), văn hóa dân tộc (Nguyễn Văn Long – Lê Thị Thủy). Đội gạo lên chùa được các tác</i>
giả nhìn từ góc nhìn văn hóa Phật giáo.


Thành tựu của TTLS mười năm đầu thế kỉ XXI, bên cạnh TTLS của Nguyễn Xuân
<i>Khánh, văn học đương đại còn ghi nhận rất nhiều những tác phẩm có giá trị như: Giàn</i>
<i>thiêu (Võ Thị Hảo), Đàn đáy (Trần Thu Hằng), Hội thề (Nguyễn Quang Thân), Tám triều</i>
<i>vua Lý (Hoàng Quốc Hải), Tây Sơn bi hùng truyện, Nẻo về Vạn Kiếp (Lê Đình Danh),</i>


<i>Oan khuất, Bức huyết thư, Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hồng, Bí mật hậu cung (Bùi Anh</i>
<i>Tấn), Minh sư (Thái Bá Lợi), Nguyễn Du (Nguyễn Thế Quang), Thế kỉ bị mất (Phạm</i>
Ngọc Cảnh Nam),… Dưới đây là một số bài viết, cơng trình nghiên cứu về các tác phẩm
tiêu biểu:


<i>Sự ra đời của tiểu thuyết Giàn thiêu đã giúp “Võ Thị Hảo bứt phá khỏi lối đi đã</i>
quen chân” và trở thành một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn xuôi đương đại.
<i>Ngay trang đầu của tiểu thuyết Giàn thiêu, người đọc bắt gặp lời giới thiệu: “đã có tới</i>
<i>mấy chục bài báo và rất nhiều trang web nói về Giàn thiêu”. Điều đó, minh chứng rằng,</i>
<i>Giàn thiêu đã thật sự thu hút sự quan tâm của độc giả trong cả nước. Phạm Xuân Nguyên</i>
<i>trong lời giới thiệu Giàn thiêu nhận xét: “văn Võ Thị Hảo khơng chỉ là những dịng chữ,</i>
khơng chỉ là những truyện ngắn hay tiểu thuyết mà văn Võ Thị Hảo có nhiều tầng hình
tượng… đó là lối văn được tác giả thổi linh hồn, tạo những câu văn huyền ảo, mê hoặc
thậm chí ma qi”… “Có người nói rằng Võ Thị Hảo đã quá bạo gan khi dám lật ngược
lại nhân vật Ỷ Lan nguyên phi. Ý kiến và sự so sánh rất nhiều, song lại khá thống nhất khi
<i>cầm “Giàn thiêu” trên tay, đa số người đọc phải đọc một mạch. Nhiều người đã thức trắng</i>
một đêm để đọc bằng xong hơn 500 trang của cuốn tiểu thuyết này” [98]. Trong bài
<i>viết Những thông điệp từ lửa và nước, Trần Khánh Thành (Báo Văn nghệ (16), 2004) bày</i>
<i>tỏ sự xúc động khi tiếp cận Giàn thiêu: “…Mở trang đầu đã gặp hai chữ “Giàn thiêu” - ấn</i>
tượng chói và bỏng rát, ngột và xót xa đã xâm chiếm lòng người… Viết với Võ Thị Hảo
là truyền lửa từ trái tim đến bạn đọc…”. Trong Buổi toạ đàm về sáng tác của Võ Thị Hảo
(19/10/2005, Hà Nội), các nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên, Hoàng Ngọc Hiến cùng
<i>ngợi khen: “Giàn thiêu là một tiểu thuyết, trước hết là một tiểu thuyết, nghĩa là Giàn</i>
<i>thiêu trước hết không phải là một “truyện lịch sử”, không phải là minh hoạ lịch sử, mà là</i>
một tiểu thuyết tư duy lại lịch sử bằng phương pháp tiểu thuyết”. Đồng thời nhấn mạnh
rằng “tác giả Võ Thị Hảo đã khá thành công trong cấu trúc của cuốn tiểu thuyết”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

<i>của tác phẩm này: “Tiểu thuyết lịch sử Giàn thiêu (Võ Thị Hảo) là một nghệ thuật làm tan</i>
khối băng lịch sử mà chị đã gặp phải khi dựng lên một giàn thiêu với rất nhiều lửa của
mình…Võ Thị Hảo đã làm tan khối băng nhận thức về Ỷ Lan – với tư cách là một nhân


vật lịch sử, một khối băng vốn đã cố kết vững chắc”. Như vậy, tác giả bài viết đã đánh giá
<i>Giàn thiêu trên cả hai phương diện: Giàn thiêu – một TTLS và Giàn thiêu – cuốn sách</i>
làm tan khối băng lịch sử, kéo quá khứ về hiện tại, đặt quá khứ – hiện tại trong một dòng
<i>chảy liên tục của thời gian. Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân có bài viết Tiểu thuyết và lịch</i>
<i>sử (nhân đọc Giàn thiêu (Võ Thị Hảo)) bàn về vấn đề khai thác lịch sử trong tiểu thuyết</i>
<i>hiện đại, cụ thể là Giàn thiêu (Võ Thị Hảo). Ông cho rằng sử liệu và truyền thuyết xưa đã</i>
<i>được tác giả Giàn thiêu khai thác theo đúng cung cách của tiểu thuyết chứ khơng lạc sang</i>
hướng của các kiểu truyện có hơi hám sử thi. Phương hướng làm việc của tác giả tiểu
<i>thuyết Giàn thiêu cố nhiên không quá đơn độc, trái lại, thậm chí đang cùng một số tác giả</i>
khác làm nên một chuyển động bên trong dòng sáng tác về văn xuôi lịch sử hiện nay.
<i>Nguyễn Văn Hùng với bài viết Yếu tố liên văn bản trong tiểu thuyết Giàn thiêu (Văn học</i>
<i>hậu hiện đại – diễn giải và tiếp nhận, Nxb Văn học, 2013) đã chỉ ra một số yếu tố liên</i>
văn bản được thể hiện trong tác phẩm như: Mã lịch sử, mã văn hóa (cổ mẫu Lửa và nước,
tơn giáo, tín ngưỡng dân gian), cùng sự tương tác các văn bản thể loại. Tác giả Nguyễn
<i>Quang Huy nghiên cứu về cổ mẫu lửa, nước và máu trong Giàn thiêu với bài viết Đọc</i>
<i>Giàn thiêu vủa Võ Thị Hảo – chơi với người chơi lửa. Tác giả rất tỉ mỉ, cơng phu khi</i>
thống kê tồn bộ sự xuất hiện của các cổ mẫu lửa, nước và máu. Tác giả cho rằng không
<i>phải ngẫu nhiên mà Võ Thị Hảo mơ mộng về nước và lửa một cách say sưa trong Giàn</i>
<i>thiêu đến thế. Bài học từ con thiêu thân lao một cách không hề dè dặt vào lửa là biểu hiện</i>
bậc nhất của tín niệm hợp nhất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

<i>lý giải về bi kịch tình yêu, tài năng của người nghệ sĩ như Bạch Vĩ, Bạch Dung, Bạch Vân</i>
đặt trong mối quan hệ với những nhân vật lịch sử như Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Khản,
Hoàng Tố Lý, Lê Chiêu Thống… Qua đó, tác giả cho rằng Trần Thu Hằng đã cho thấy cái
nhìn mới mẻ nhưng đầy cảm thông của một kẻ tri âm với người nghệ sĩ, bậc tiền nhân
cách đây hơn ba thế kỉ.


<i>Kể từ khi ra đời và đặc biệt, ngay sau khi tiểu thuyết Hội thề (Nguyễn Quang</i>
Thân) đoạt giải A trong cuộc thi tiểu thuyết lần thứ III (2006 – 2009) của Hội Nhà văn,
một cuộc tranh luận dữ dội đã nổ ra, làm xáo động văn đàn cả nước. Những tranh luận


<i>thường xoay quanh hai vấn đề chính: cách xây dựng hình tượng nhân vật (Lê Lợi và</i>
<i>Nguyễn Trãi) và nghệ thuật sáng tác TTLS. Những bài viết mang tính phản biện, tranh</i>
<i>luận quanh tác phẩm Hội thề có thể kể đến như: Hội thề - tiểu thuyết lịch sử hay phản lịch</i>
<i>sử, Nguyễn Quang Thân cho các tướng lĩnh Lam Sơn theo Mao khí sớm của Trần Mạnh</i>
<i>Hảo, Đọc Hội thề của Phạm Viết Đào, Kinh ngạc khi Hội Nhà văn tôn vinh cuốn tiểu</i>
<i>thuyết Hội thề của Từ Quốc Hồi, Thẩm bình Hội thề của Vương Quốc Hoa, Về Hội thề</i>
của Trần Hoài Dương,… Chẳng hạn, nhà thơ Từ Quốc Hoài bức xúc khi cho rằng: tác giả
<i>Hội thề đã đẩy Nguyễn Trãi, một anh hùng kiệt xuất vào thế cô độc, chỉ trang trải lịng</i>
mình được với Thái phúc, một viên bại tướng nhà Minh đã đầu hàng nghĩa quân. Nhà văn
Hà Văn Thùy phản biện: “tiêu chuẩn vàng để định giá một tiểu thuyết lịch sử, đó là tính
<i>chân thực lịch sử… Đem chuẩn mực kinh điển này soi vào Hội thề, ta thấy rất rõ tác phẩm</i>
thiếu tính chân thực lịch sử ở phương diện phản ánh không chân thực tinh thần của một
thời đại lịch sử. Cái tâm thức kình chống, coi khinh trí thức của nghĩa qn Lam Sơn
<i>trong Hội thề cũng không thực,…”. Trần Mạnh Hảo gay gắt hơn khi cho rằng nhà văn</i>
Nguyễn Quang Thân đã hư cấu những chi tiết phi lịch sử… Trong khi đó, nhà văn Trần
Hồi Dương băn khoăn: “Tơi khơng hiểu nổi, sao anh Thân lại viết tác phẩm này?”


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

niềm tin chắc chắn, các quan niệm về thế giới đã được thiết lập…, do đó, “trong biên độ
<i>mở của Hội thề mà mỗi người đọc, theo cách của mình có thể cảm nhận, điều đó cũng</i>
chứng tỏ sự thành công của tiểu thuyết,… Nhà văn Nguyễn Quang Thân đã rất dày công
trước tư liệu, trước câu chữ, trước mối quan hệ giữa lịch sử - những vấn đề còn khuất lấp
trong màn sương thời gian và nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại.”[93]


Ngồi ra, cịn rất nhiều bài viết của các học viên cao học và nghiên cứu sinh trong
cả nước được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như: Phan Trọng Hồng Linh với bài
<i>viết Ngơn ngữ và giọng điệu trong tiểu thuyết Hội thề của Nguyễn Quang Thân (Tạp chí</i>
<i>Nghiên cứu Văn học, số 4, 2012) đã trình bày khái quát một số điểm độc đáo trên phương</i>
diện ngôn ngữ trần thuật như ngôn ngữ người kể chuyện (ngôi thứ ba) và ngôn ngữ nhân
<i>vật, giọng điệu trần thuật. Trong bài viết Hình tượng nhân vật Lê Lợi trong tiểu thuyết</i>
<i>lịch sử Hội thề của Nguyễn Quang Thân Nguyễn Văn Hùng cho rằng một trong những</i>


<i>điểm thành cơng trong tiểu thuyết Hội thề chính là việc Nguyễn Quang Thân đã xây dựng</i>
nên bức chân dung nhân vật lịch sử sinh động, độc đáo và mới lạ – Lê Lợi. Nguyễn Thị
<i>Hương Quê trong bài viết Bi kịch về nỗi cơ đơn của người trí thức trong tiểu thuyết lịch</i>
<i>sử Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh và Hội thề của Nguyễn Quang Thân đã đề cao tài</i>
năng của Nguyễn Quang Thân trong việc xây dựng thành công chân dung Nguyễn Trãi
với tấn bi kịch về nỗi cơ đơn của người trí thức với lý tưởng nhân nghĩa giữa những viên
tướng võ biền của nghĩa quân Lam Sơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

<i>Ra đời năm 2009, đến nay, tác phẩm Minh sư của Thái Bá Lợi đã đạt được một số</i>
giải thưởng danh giá như: giải thưởng văn học Đông Nam Á (2013), giải nhất Văn học
nghệ thuật Đà Nẵng (5/2016), thành cơng đó đã gây chú ý trên văn đàn. Hai tác giả Phan
Ngọc Thu và Huỳnh Thu Hậu cùng tỏ thái độ ngưỡng vọng, cảm phục, khiêm cung, sinh
động khi khám phá hình tượng Nguyễn Hồng. Hai tác giả cùng nhận định thành công
<i>của Minh sư không chỉ ở bình diện nội dung mà cịn ở những đặc sắc nghệ thuật: nghệ</i>
thuật trần thuật, kết cấu, kết hợp giữa hiện thực và hư cấu. Tác giả Trần Xuân An trong bài
<i>viết Minh sư nào trong “chuyện Nguyễn Hồng mở cõi?” đã lý giải: “Minh sư khơng ai</i>
khác, mà chính là những ai đã nói đúng sự thật”, đồng thời, qua tác phẩm nhà văn còn
muốn gửi gắm đến người đọc những băn khoăn về những vấn nạn lịch sử như xung đột
Chiêm – Việt để góp phần hóa giải. Vấn đề này cũng được tác giả Văn Chinh đề cập trong
<i>bài viết Vấn đề hòa giải hòa hợp dân tộc trong tiểu thuyết chiến tranh gần đây: “Nhờ tài</i>
đức và trí lực, Nguyễn Hồng đã cố kết được lịng dân, mn người như một, biến ước
mơ khai khẩn cho riêng mình một cõi thành hiện thực chói lọi”. Vì thế, nhân vật Nguyễn
Hồng hiện lên trong tác phẩm là con người đức độ, có tài năng chính trị lẫn qn sự,
ln bình tĩnh, sống chan hịa với mọi người, kể cả thuộc cấp và nhân dân. Chính nhờ
những phẩm chất đó mà Nguyễn Hồng thu phục được lịng dân để bắt đầu cho cơng
<i>nghiệp khai hóa, mở mang bờ cõi. Bài viết Biện chứng của một giai đoạn lịch sử bi hùng</i>
<i>của tác giả Tấn Phong khẳng định: Tiểu thuyết Minh sư không đi sâu vào miêu tả những</i>
tranh giành ngơi vị, những tranh chấp phe nhóm mà chủ yếu đi vào tập trung khắc họa
tính cách nhân vật Chúa Tiên. Thái Bá Lợi hết lòng đi tụng ca Nguyễn Hồng và thẳng
thắng biện chứng, khơng ngại nói những điều khó nói của một thời kỳ lịch sử đất nước.


<i>Tóm lại, mặc dù những bài viết về Minh sư khơng nhiều, cịn mang tính nhỏ, lẻ song một</i>
thực tế cho ta thấy rằng, tác phẩm thật sự có nhiều cách tân trên cả hai phương diện nội
dung và hình thức thể hiện, điều đó góp phần rất lớn vào sự nỗ lực đổi mới thể loại TTLS
Việt Nam đương đại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

<i>nhuần tinh thần tôn giáo sâu sắc như Tám triều vua Lý” [109, 78]. Từ đó, tác giả đi sâu</i>
khai thác phương thức xây dựng nhân vật của Hoàng Quốc Hải dưới sự chi phối của nhãn
quan Phật giáo “tư tưởng Thiền quán xuyến đạo trị nước ít nhất bốn triều vua Lý… Tâm
linh Phật đã chuyển hóa vào máu thịt của các bậc quân vương” [109, 79]. Tác giả bài viết
<i>khẳng định rằng: “Tính sử thi của Tám triều vua Lý không chỉ giới hạn ở những đặc trưng</i>
lý thuyết như hệ thống nhân vật, khơng gian, thời gian nghệ thuật, tính liên thơng giữa các
sự kiện và khuynh hướng tư tưởng, mà nó cịn được bao hàm cả khơng gian văn hóa và
<i>các sinh hoạt tôn giáo… Phật giáo trong Tám triều vua Lý chính là thứ tơn giáo nhân đạo</i>
<i>hóa con người” [109]. Trong bài viết tiểu thuyết lịch sử về Tám triều vua Lý tác giả Thanh</i>
Loan nhận xét rằng trong bộ tiểu thuyết, Hoàng Quốc Hải nhấn mạnh tới sự phát triển của
văn hóa, dân sinh và tam giáo đồng nguyên. Trong đó, nhà văn nhấn mạnh những câu
chuyện, chi tiết lịch sử đề cập trong bộ tiểu thuyết không chỉ giúp phổ cập lịch sử mà còn
mang tới những bài học quý giá cho hậu thế. Mặc dù tôn trọng các sự kiện lịch sử, dùng
lịch sử như một chất liệu, nhưng nhà văn không lệ thuộc vào lịch sử mà trên cơ sở đó hư cấu
để tái hiện triều Lý cách đây 1000 năm, gắn với thân phận lịch sử của mỗi vị vua đứng đầu
mỗi giai đoạn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

<i>tài đồng tính hay TTLS pha màu sắc võ hiệp huyền ảo. Trong bài Bùi Anh Tấn “Đàm đạo</i>
<i>về Điều Ngự Giác Hoàng” tác giả bài viết nhận xét đây là một tác phẩm TTLS thú vị, tác</i>
phẩm sẽ giúp cho độc giả hiểu rõ hơn về dân tộc Việt Nam dưới sự trị vì của triều đại nhà
Trần. Nhà văn Trần Quốc Toàn nghĩ rằng đây là một tác phẩm “tiểu thuyết lịch sử luận đề”
vì nó đã khơi gợi ra được nhiều vấn đề cần suy nghĩ. Nhìn chung, các cơng trình nghiên
cứu về TTLS của Bùi Anh Tấn chưa nhiều nhưng đã phần nào chứng minh được sức
nóng của một bút lực dồi dào, sức sáng tạo của một nhà văn chiến sĩ công an trong nỗ
lực cách tân thể loại.



<i>Với sự thành công của ba cuốn tiểu thuyết: Nguyễn Du (2010, giải A giải thưởng</i>
<i>Văn học nghệ thuật Hồ Xuân Hương, Khúc hát những dịng sơng (2013, giải Ba cuộc thi</i>
Sáng tác, quảng bá tác phẩm Văn học, Nghệ thuật và Báo chí về chủ đề Học tập và làm
<i>theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh), Thơng reo ngàn hống (2015, giải A giải thưởng</i>
của Hội Nhà văn Việt Nam) nhà văn Nguyễn Thế Quang đã trở thành một hiện tượng
<i>“mới” trong dòng TTLS đương đại. Tác giả Yến Nhi với bài viết Đọc Nguyễn Du – tiểu</i>
<i>thuyết lịch sử đã đánh giá tác phẩm của Nguyễn Thế Quang vẽ lên nỗi buồn lớn của</i>
Nguyễn Du không dừng lại ở cái nguyên nhân bé nhỏ là vì đồng sự ghen ghét hay mặc cảm
về cái sự “tôi trung không thờ hai chúa” mà ở cái nỗi niềm lớn lao hơn. Đó là tấm lòng yêu
thương con người, là phẩm cách của một tâm hồn cao thượng, cảm thấy những nghịch lý,
những nghịch cảnh tồn tại ở mọi thời, mọi nơi, như là một định mệnh không tài nào thay
đổi được. Đặc biệt, tác giả nhấn mạnh: “Nguyễn Thế Quang đã thành công khi tái tạo nỗi
niềm tâm sự khá phức tạp của Nguyễn Du”. Thành công của Nguyễn Thế Quang không chỉ
tái tạo một thời biến động của lịch sử… mà còn “biến lịch sử thành những cái cớ để gửi đến
con người hiện tại những thông điệp về giá trị đạo đức tinh thần.”


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

viết tiếp một “Đoạn trường tân thanh” nữa về bi kịch của người trí thức trước cường quyền
thời đó mà khơng thể viết được”. Ngược lại, hai tác giả Lê Thái Phong, Nguyễn Sĩ Đại
<i>trong bài viết Nguyễn Du – Từ cuộc đời đến tiểu thuyết đã có những lời nhận xét có cánh:</i>
Đọc Nguyễn Thế Quang, độc giả có được một nhận thức thẩm mĩ tồn vẹn về hình tượng
Nguyễn Du… Con người được tự do; Cái đẹp được tôn thờ và không ai hủy diệt. Đó chính
là Nguyễn Du, là xã hội ông mong muốn và khẳng định”.


<i>Nhà văn Nguyễn Khắc Phê trong bài viết Nguyễn Thế Quang và ba cuốn tiểu thuyết</i>
<i>lịch sử vừa xuất bản cho rằng Nguyễn Thế Quang đã chọn một lối đi giữa hai quan niệm</i>
TTLS: hư cấu tùy hứng, tùy luận đề tác giả muốn gửi gắm và bám chắc vào các sự kiện,
vào tiến trình lịch sử. Theo Nguyễn Thế Quang thì TTLS là “sự khám phá bản chất của lịch
sử, là sự đối thoại với lịch sử, đối thoại với hiện thực.” Tác giả bài viết còn mở ra nhiều
<i>hướng tiếp cận ba tác phẩm, đặc biệt với Nguyễn Du: “Nguyễn Thế Quang vẫn trung thành</i>


với nguyên tắc “bám vào hiện thực” đương thời, “sự việc lớn không thay đổi” nhưng lựa
chọn những thời điểm, những hồn cảnh làm nổi bật tính cách nhân vật và thể hiện rõ ý đồ
của tác giả... Tác giả đánh giá giá trị mà ba tác phẩm mang lại thật sự to lớn, chúng có sức
ảnh hưởng đến sự phát triển thể loại trong giai đoạn hiện nay.


Ngoài ra, còn rất nhiều luận văn của các học viên cao học nghiên cứu từng tác
phẩm, tác giả riêng biệt về TTLS đương đại. Hầu hết các luận văn thường tập trung khai
thác và làm sáng tỏ quan niệm về thể loại và quan niệm sáng tác của nhà văn cùng những
đặc trưng nghệ thuật trong TTLS của các tác giả như: cảm quan và tư duy tự sự lịch sử,
lằn ranh giữa hiện thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật, phương thức thể hiện hiện thực lịch
sử từ góc độ trần thuật, diễn ngơn lịch sử…


<b>1.3. Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu và hướng nghiên cứu của luận án</b>
<i><b>1.3.1. Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu</b></i>


Qua những cơng trình nghiên cứu như trên, chúng tơi rút ra một số nhận xét như sau:
<i>Thứ nhất, mười năm đầu thế kỉ XXI, với số lượng tác phẩm phong phú cũng như</i>
sự “chín” trong kĩ thuật tiểu thuyết của các tác giả, TTLS thực sự là một đối tượng quan
tâm rộng rãi của giới phê bình. Qua các cơng trình nghiên cứu, các nhà phê bình đã góp
phần chỉ ra những thay đổi trong quan niệm về thể loại từ truyền thống đến hiện đại, đồng
thời, nhận diện một số đặc trưng cơ bản về thể loại TTLS hiện đại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

hình nhân vật, đổi mới phương thức trần thuật, đồng thời, nghiên cứu sâu, rộng một số
phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật các tác phẩm của một số tác gia cụ thể như:
Nguyễn Xuân Khánh, Hoàng Quốc Hải, Võ Thị Hảo, Nguyễn Quang Thân, Nam Dao,
Thái Bá Lợi, Nguyễn Thế Quang, Bùi Anh Tấn…


<i>Thứ ba, mặc dù các các cơng trình, bài báo nghiên cứu về TTLS đầu thế kỷ XXI đã</i>
cảm nhận được sự thay đổi trong lối viết của các nhà văn nhưng chưa có cơng trình
chun sâu về đặc trưng thể loại và càng thiếu vắng các cơng trình nghiên cứu tiểu thuyết


lịch sử từ góc độ loại hình.


<i><b>1.3.2. Hướng nghiên cứu của luận án</b></i>


Trên cơ sở kế thừa và đối thoại những cơng trình đi trước, luận án vận dụng một số
lý thuyết thể loại, lý thuyết thi pháp học, tự sự học, lý thuyết tân lịch sử và phương pháp
nghiên cứu loại hình để tập trung khảo sát đặc trưng thể loại của TTLS thập niên đầu thế
kỉ XXI trên các bình diện như xu hướng, dạng thức thể loại (theo dạng thức đề tài, kết
cấu), tương tác thể loại; thế giới nhân vật (xác định một số kiểu nhân vật đặc trưng của
thể loại, đồng thời, chỉ ra những phương thức nghệ thuật đặc sắc trong việc khắc họa hình
tượng nhân vật); phương thức tự sự (người kể chuyện, điểm nhìn trần thuật, diễn ngơn
trần thuật)… trong cái nhìn đối sánh với TTLS giai đoạn trước. Từ đó, luận án chứng
minh sự vận động, đổi mới trong quan niệm về thể loại, tư duy nghệ thuật của các nhà
TTLS đương đại.


<b>Chương 2</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

<b>2.1. Đổi mới ý thức nghệ thuật và quan niệm về thể loại</b>


Cùng với sự ra đời và phát triển của TTLS là sự hình thành những quan niệm về
tính hư cấu và tính chính xác của TTLS. Giữa sự kiện, nhân vật lịch sử và hư cấu nghệ
thuật có quan hệ ra sao vẫn đang là vấn đề có tính chất mở, chưa thống nhất. Trong TTLS,
sự kiện, nhân vật lịch sử và sự kiện, nhân vật hư cấu trộn lẫn vào nhau, khó đảm bảo sự
chính xác lịch sử tuyệt đối. Chẳng thế mà nhà văn N.Mitchison nói rằng khơng nên hy
vọng vào một sự chính xác lịch sử tuyệt đối; H.Hasse cũng xác định rằng sự chính xác
lịch sử tuyệt đối là khơng có được vì sự kiện và nhân vật lịch sử đã được soi sáng bằng hệ
quy chiếu của thế kỷ XX và cuốn TTLS nào cũng ít nhiều phản chiếu cái thế giới tâm hồn
của tác giả ở một thời điểm nhất định trong quá trình sáng tác của họ. Nhìn chung, sự vận
động thể loại ln luôn bắt nguồn từ sự vận động tư duy và quan niệm về thể loại. Nhìn
vào tiến trình phát triển của TTLS Việt Nam, có thể nhận thấy việc sử dụng chất liệu lịch


sử trong tác phẩm, mỗi nhà văn có một cách riêng, mục đích riêng, thể hiện quan niệm
riêng về thể loại.


<i><b>2.1.1. Từ quan niệm truyền thống “trung thành với lịch sử”</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

Bước sang đầu thế kỉ XX đến 1945, TTLS Việt Nam bắt đầu phát triển mạnh mẽ
hơn với tư cách là một thể loại mới của văn học. Trước yêu cầu hiện đại hóa văn học,
trước địi hỏi của ngơn ngữ văn học mới, quan niệm văn học mới, TTLS viết bằng chữ
Hán đã khơng cịn là thể loại trung tâm nữa. Văn xi quốc ngữ đang độ hình thành và
<i>TTLS viết bằng chữ quốc ngữ đã xuất hiện những tác phẩm có giá trị, tiêu biểu như Giọt</i>
<i>máu chung tình (Tân Dân Tử), Tiếng sấm đêm đông, Thanh chiến sử (Nguyễn Tử Siêu),</i>
<i>Lê triều Lý thị (Phạm Minh Kiên), Nam cực tinh huy (Hồ Biểu Chánh),…Tuy nhiên, về</i>
cơ bản, TTLS giai đoạn này vẫn chịu sự chi phối bởi quan niệm của văn học truyền thống.
Lịch sử trong cái nhìn của nhà văn là “ngôi đền thiêng bất khả xâm phạm”. Nhà văn chưa
có sự bứt phá mạnh mẽ để vượt qua rào cản của nhãn quan “trung thành với lịch sử”, với
họ, yêu cầu tái hiện lịch sử là nguyên tắc hàng đầu. Về bút pháp, có nhà văn vẫn chịu ảnh
hưởng của lối viết tiểu thuyết cổ điển (tiểu thuyết chương hồi), sử dụng lối văn biền ngẫu
có đối có vần lưu lốt, kết thúc có hậu, người kể chuyện thứ ba toàn tri. Tuy nhiên, một số
nhà văn đã bắt đầu đổi mới cách viết theo kiểu của những cuốn TTLS hiện đại phương
<i>Tây lúc bấy giờ đã ít nhiều có mặt ở Việt Nam, điển hình là Nguyễn Triệu Luật với Bà</i>
<i>Chúa Chè, Loạn kiêu binh, Chúa Trịnh Khải…</i>


Từ sau 1945 - 1985, hiện thực kháng chiến là đối tượng chính của văn học. Cảm
hứng lịch sử hịa vào cảm hứng sử thi, TTLS có sứ mệnh ngợi ca truyền thống anh hùng
của dân tộc, khắc họa một thời đại anh hùng. Những tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng,
Thái Vũ, Chu Thiên,… thật sự đã đem đến cho độc giả cái nhìn tồn diện về những thời
đại lịch sử đã qua với kĩ thuật “chép sử bằng văn chương”. Tuy nhiên, tư duy hiện đại dần
thay thế cho tư duy truyền thống, TTLS bắt đầu thoát khỏi lối viết chương hồi cổ điển,
xóa bỏ câu văn biền ngẫu, chú trọng đến diễn ngôn hiện đại. Thể loại bắt đầu chuyển
động mạnh mẽ, nguồn sử liệu trở thành đối tượng phản ánh, phát huy vai trò của hư cấu


nghệ thuật trong việc kiến tạo nên những diễn ngôn lịch sử mới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32></div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

<i><b>2.1.2. Đến quan niệm hiện đại “luận giải, đối thoại, phản biện lại lịch sử”</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

<i>Còn một loại viết dường như muốn tổng kết cả một giai đoạn lịch sử đương đại như Thời</i>
<i>của thánh thần của Hồng Minh Tường, Dưới chín tầng trời của Dương Hướng… cũng</i>
được coi là tiểu thuyết lịch sử”[113]. Theo quan niệm tân lịch sử, lịch sử chỉ là sự trần
thuật về lịch sử vì thế ít nhiều mang tính chủ quan trong lựa chọn và phán đốn. Quan
điểm đó làm nảy sinh thể loại mới: “loại tiểu thuyết trở về với văn hóa dân gian, hệ thống
nhiều điểm nhìn của người dân thường, diễn ngơn trần thuật của con người đời thường,
loại bỏ diễn ngôn của nhà viết sử, diễn ngơn chính trị.”[112, 450]. Từ đó, nội hàm của thể
loại được nới lỏng: “tiểu thuyết lịch sử ngày nay thay đổi khuynh hướng tự sự vĩ mô chủ
yếu gồm vĩ nhân và quốc gia đại sự bằng tự sự mảnh ghép, gia tộc, cá nhân, từ lịch đại
chuyển sang đồng đại,…”[112, 450]. Xem lịch sử là diễn ngôn, các nhà tân lịch sử xem
nhu cầu của TTLS trước hết là nhu cầu diễn ngôn, là nhu cầu đối thoại, phản biện lại với
lịch sử, nhu cầu đi tìm những khả năng đã mất, những góc nhìn mới. TTLS chỉ là một loại
diễn ngôn đặc thù về sự thật lịch sử, không phải bản thân sự thật lịch sử.”[112, 454]. Do
đó, để tạo nên lớp diễn ngơn mới này TTLS cần sử dụng những chất liệu nhất định như sự
kiện, nhân vật, phong tục, tập quán, đồ dùng, trang sức, bài hát, trị chơi,… nhưng khơng
phải “hồn nguyên lịch sử”. Và nhiệm vụ của TTLS như trên đã nói là “sáng tạo ra những
diễn ngơn mới về lịch sử, nêu ra cách nói mới, góc nhìn mới, phán xét mới, gợi mở khả
<i>năng mới”[112, 455]. Có thể lấy trường hợp Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên</i>
<i>chùa của Nguyễn Xuân Khánh làm minh chứng cho lý thuyết trên khi trong ba tác phẩm</i>
này, nhà văn đã thể hiện một diễn ngôn mới về lịch sử, “đó là những suy tư của ơng về
lịch sử và văn hóa, trong đó, văn hóa là cốt lõi của lịch sử, là chiều sâu quy định sự hằng
tồn của quốc gia, dân tộc.”[40, 8]. Cảm hứng lý giải lịch sử trong ba tác phẩm của
Nguyễn Xuân Khánh đã tạo nên sự nhất quán của một diễn ngôn về dân tộc – lịch sử –
văn hóa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35></div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

mã, rút ra bài học và vững bước tiến đến tương lai, do đó, nhà viết TTLS khơng phải vẽ


một bức tranh mới mà sáng tạo, nhào nặn và tái hiện một bức tranh 3D trên nền chính sử
nhưng phong phú, đa dạng hơn đã đành mà cịn có cái khác biệt rất lớn với những bức
trướng chính sử. Nhìn chung, quan niệm của các nhà văn đều tơn trọng sự thật lịch sử
nhưng phát huy vai trò của hư cấu nghệ thuật. Hư cấu nghệ thuật đã tạo ra hướng tiếp cận
mới, phù hợp với tư duy của con người hiện đại, gợi cho người đọc cái nhìn mới thực sự
khác so với những nhà viết tiểu thuyết trước đây.


Sự chuyển động mạnh mẽ của văn học và sự thay đổi tư duy phản ánh nghệ thuật,
TTLS đương đại đã tiếp cận với cảm quan mới, có những cách tân táo bạo trong lối kể
chuyện, thủ pháp xây dựng hình tượng, mở rộng biên độ sáng tạo, kể chuyện lịch sử bằng
một phong cách hiện đại nhằm khơi mở những bí ẩn và xung đột của lịch sử theo hướng đa
dạng hóa và phong cách hóa. Điểm đáng chú ý là TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI đã vượt
qua mơ hình cũ và tạo ra nhiều hướng phát triển với nhiều phong cách sáng tác đa dạng.
Có thể nhận thấy, TTLS giai đoạn này phát triển theo nhiều xu hướng đa dạng khác nhau:
có hướng “văn chương hóa lịch sử” như Hồng Quốc Hải với hai bộ trường thiên; hướng
nghiêng về phương diện văn hóa, đối thoại với văn hóa như Nguyễn Xuân Khánh. Có
<i>hướng diễn giải lịch sử như Nguyễn Thị Lộ (Hà Văn Thùy); hướng phi huyền thoại hóa</i>
<i>lịch sử như Hội thề (Nguyễn Quang Thân); hướng đối thoại với chính sử như Mạc Đăng</i>
<i>Dung (Lưu Văn Khuê)... </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

mở ra một lộ trình mới, một hướng khám phá nghệ thuật độc đáo và lý thú cho những ai
quan tâm đến lịch sử dân tộc và nền tiểu thuyết nước nhà.


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

Kiệt và Lý Thánh Tơng mà cịn gắn kết với những biến động lớn lao của cả một triều đại.
Nhiều chủ đề đan xen khiến các tác phẩm này thực sự là những khám phá, kiến giải mới về
lịch sử, tạo được ấn tượng dư ba trong lòng người đọc. Tóm lại, từ sự thay đổi về tư duy
thể loại mà chúng tôi đã xác định như trên, luận án tiến hành khảo sát, phân loại và khu
biệt để xác định một số xu hướng và dạng thức TTLS đặc trưng của thể loại trong giai
đoạn mười năm đầu thế kỉ XXI nhìn từ chủ đề, kết cấu tác phẩm và từ góc nhìn tương tác
thể loại.



<b>2.2. Các xu hướng và dạng thức tiểu thuyết lịch sử thập niên đầu thế kỉ XXI</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

chồng chéo giữa các xu hướng và dạng thức thể loại. Do đó, chúng tơi căn cứ vào loại
hình thể loại đề xuất cách phân chia mang tính chất tương đối như sau: tiểu thuyết lịch sử
nhìn từ dạng thức đề tài (tiểu thuyết lịch sử sự kiện, tiểu thuyết lịch sử nhân vật, tiểu
thuyết lịch sử luận giải, tiểu thuyết lịch sử văn hóa – phong tục); tiểu thuyết lịch sử nhìn
từ dạng thức kết cấu (tiểu thuyết lịch sử kết cấu theo lối tuyến tính, tiểu thuyết lịch sử kết
cấu theo lối lắp ghép, đồng hiện).


<i><b>2.2.1. Tiểu thuyết lịch sử nhìn từ dạng thức đề tài</b></i>
<i>2.2.1.1. Tiểu thuyết lịch sử sự kiện</i>


Một trong những đặc trưng của thể loại TTLS là lấy đối tượng lịch sử làm nội dung
và cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Nghĩa là, TTLS lấy đề tài và cảm hứng từ lịch sử của
một dân tộc hay một quốc gia nào đó. Có thể là các sự kiện, các nhân vật hoặc các giai
đoạn trong lịch sử. Bối cảnh, con người, không gian và thời gian trong TTLS phải thuộc
về cái thế giới của quá khứ. Do đó, cảm hứng lịch sử chi phối toàn bộ hệ thống đề tài, chủ
đề của TTLS. Nhưng TTLS không phải là kể lại lịch sử, tái hiện lại “sự thật lịch sử” một
cách cứng nhắc mà là sáng tạo ra diễn ngôn mới về lịch sử, nêu ra cách nói mới, góc nhìn
mới, phán xét mới, gợi mở khả năng mới. D.Brewseter và J.A.Burrell đã nhận xét: “Tác
giả TTLS sử dụng quá khứ như một khí cụ để vẽ lên những điểm tương đồng giữa quá
khứ và hiện tại và do đó làm sáng tỏ hiện tại.” [19, 132]. Nếu như các tiểu thuyết khác có
quyền sáng tạo theo quan điểm thẩm mĩ của nhà văn, thì TTLS chỉ được sáng tạo dựa trên
những cứ liệu lịch sử có sẵn, sáng tạo trong giới hạn của các “hằng số lịch sử”. Đồng thời,
nhà văn phải dùng tài năng của mình để xâu chuỗi, tái cơ cấu chúng, bồi da đắp thịt cho
chúng, tạo nên một tác phẩm tự sự hoàn chỉnh nhằm giúp độc giả lý giải lịch sử thông qua
một câu chuyện trọn vẹn về một giai đoạn, một số phận nào đó đã từng hiện hữu trong
quá khứ.



</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

trong các sáng tác của họ được xác định cụ thể, chính xác bởi các mốc thời gian sự kiện
<i>trùng khớp trong chính sử. Chẳng hạn, tiểu thuyết Tây Sơn bi hùng truyện (Lê Đình</i>
Danh) đã cho thấy cuộc khởi nghĩa Tây Sơn hiện lên với tất cả tính chất phong phú, rộng
lớn và sinh động của nó. Đó là bức tranh chân thực về hiện thực lịch sử - xã hội Đại Việt
những năm thế kỉ XVIII - XIX. Những sự kiện chính như những cuộc tranh giành quyền
lực giữa hai thế lực Trịnh – Nguyễn, cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, sự sụp đổ của tập đồn
phong kiến nhà Nguyễn và sự lên ngơi của Nguyễn Ánh,… mang đến cho người đọc bối
cảnh không gian và thời gian, những chân dung lịch sử tiêu biểu và chân thực.


Tuy nhiên, một số nhà văn tôn trọng cái bất biến của hằng số lịch sử nhưng không
dùng nguyên khối lịch sử để đặt vào trong tác phẩm mà đem sự trải nghiệm của bản thân
để bồi đắp cho căn cốt lịch sử trở thành đời sống với tất cả sự sinh động vốn có của nó.
Những tác phẩm của Nam Dao, Phạm Ngọc Cảnh Nam, Nguyễn Khắc Phục,… đã phát
huy tài năng hư cấu nghệ thuật của mình trên nền tảng kiến thức đầy đặn của hệ thống các
cơng trình chính sử. Sự kết hợp giữa hiện thực và hư cấu, những sự kiện lịch sử được ghi
trong sử sách hiện lên trùng trùng điệp điệp những tình tiết, sự kiện hư cấu “khơng bao
giờ kể hết được”. Trong những tác phẩm này, sự kiện lịch sử là đối tượng trung tâm,
nhiệm vụ của nhà văn là tìm cách giải mã nó theo cách nhìn của cá nhân mình. Vì thế, hầu
hết các sự kiện lớn vẫn được lựa chọn và giữ nguyên như trong chính sử, chỉ có điều cách
giải thích ngun nhân cũng như bản chất của nó thì lại là những kiến giải mới mẻ ở
<i>những vấn đề thế sự mà tác giả gắn vào cho nó. Thế kỉ bị mất được sáng tạo trên nền lịch</i>
sử một trăm năm trước, gắn liền với phong trào cách mạng Duy Tân đất Quảng Nam.
Cuộc cách mạng khởi phát từ Quảng Nam sau đó lan rộng sang nhiều vùng miền trong cả
nước. Khả năng liên hệ quốc tế, sớm tiếp cận được tư tưởng dân chủ, dân quyền của
Montesquieu, Jean Jacques Rousseau hay hình thành mối quan hệ giữa Phan Châu Trinh
với Liên minh Nhân quyền và cá nhân Alfreud Ernest Babut… Tất cả các sự kiện trong
giai đoạn lịch sử này đều được tác giả nghiền ngẫm, xử lý theo cách riêng của mình thơng
qua điểm nhìn của người kể chuyện ngơi thứ ba và người kể chuyện xưng tôi – Cả Hinh. Đặc
biệt, với điểm nhìn của nhân vật Cả Hinh, sự kiện trong tác phẩm được tái hiện bằng nhãn
quan đương thời của chính người trong cuộc trở nên hiện thực, sinh động và khả tín hơn.



</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

TTLS nhân vật là tiểu thuyết viết về nhân vật lịch sử trên cơ sở kết hợp giữa hiện
thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật nhằm làm sống lại lịch sử, khám phá những bí ẩn, khuất
lấp, lý giải lịch sử từ số phận cá nhân và tìm ra sợi dây liên hệ giữa quá khứ với đời sống
hiện tại. Một trong những đặc điểm nhận dạng dạng thức TTLS nhân vật thể hiện ngay
<i>tiêu đề của tác phẩm: Hồ Quý Ly, Mạc Đăng Dung, Huyền Trân, Nguyễn Du, Lê Lợi, Bà</i>
<i>Triệu, Trương Vĩnh Ký – bi kịch muôn đời, Nguyễn Trãi (quyển 1: Oan khuất, quyển 2:</i>
<i>Bức huyết thư), Công ngữ Ngọc Vạn,… Nhân vật trong TTLS nhân vật vừa là nhân vật</i>
chính vừa là nhân vật trung tâm. Loại hình nhân vật này khơng chỉ là nhân vật đóng vai
trị chủ chốt, xuất hiện nhiều, giữ vị trí then chốt của cốt truyện hoặc tuyến cốt truyện, là
cơ sở để tác giả triển khai chủ đề cơ bản của tác phẩm mà còn là “nơi quy tụ các mối mâu
thuẫn của tác phẩm, là nơi thể hiện vấn đề trung tâm của tác phẩm” [85, 283]. Đó là nhân
<i>vật Hồ Quý Ly (Hồ Quý Ly), Lê Lợi (Lê Lợi), Lý Công Uẩn, Lý Thái Tông, Lý Thánh</i>
Tông, Lý Nhân Tông, Lý Minh Tông, Lý Thần Tông, Lý Cao Tông và Lý Huệ Tông
<i>(Tám triều vua Lý), Nguyễn Du (Nguyễn Du), Nguyễn Trãi (Oan khuất); Trần Nguyên</i>
<i>Hãn (Người con trang Sơn Đông), Huyền Trân (Huyền Trân), Ngọc Vạn (Công nữ Ngọc</i>
<i>Vạn),… </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

<i>(Trần Đại Sỹ)); người anh hùng dựng nước, khai mở nền văn hiến Đại Việt (Tám triều</i>
<i>vua Lý (Hồng Quốc Hải), Lý Cơng Uẩn (Ngơ Văn Phú), Minh sư (Thái Bá Lợi); người</i>
<i>phụ nữ có công mở rộng bờ cõi Đại Việt (Huyền Trân (Nguyễn Hữu Nam), Công nữ</i>
<i>Ngọc Vạn (Ngô Viết Trọng)). Hồng Quốc Hải từng khẳng định rằng ơng chỉ muốn qua</i>
tác phẩm của mình làm sống lại trang sử hào hùng của dân tộc. Ơng kính phục tiền nhân,
họ khơng chỉ anh hùng ngồi chiến trận mà cịn sống rất hào hoa, lịch lãm và trí tuệ. Đọc
tác phẩm của ông, ta thấy được dòng chảy của lịch sử, hiểu biết thêm những giá trị nhân
văn, phẩm giá, tài năng của cha ơng ta và tự đáy lịng tự hào với lịch sử của dân tộc. Tuy
nhiên, nhân vật điển hình trong TTLS đương đại bắt nguồn từ những nguyên mẫu có thực
trong lịch sử, song khơng phải là bản sao chép khơ khan mà trong q trình khái qt hóa
nghệ thuật, nhà văn thường chọn lọc, đánh giá các tài liệu lịch sử theo cảm quan lịch sử
và nhận thức riêng, thể hiện ý đồ nghệ thuật của mình.



Khi ý thức nghệ thuật thay đổi, nhà văn có nhu cầu nhận thức lại lịch sử, giải mã
những góc khuất, những vùng bí ẩn, lấp đầy những khoảng trắng của lịch sử. Nhân vật
trong các sáng tác của Nguyễn Xuân Khánh, Lưu Văn Khuê, Nguyễn Thế Quang, Thái Bá
Lợi, Bùi Anh Tấn… không đơn thuần là mô tả, minh giải lịch sử mà đưa ra luận giải,
phân tích, đối thoại với cảm hứng “giải thiêng”, từ đó, nhân vật được soi rọi dưới nhiều
góc độ khác nhau: tính cách, số phận, tâm hồn: “Các nhân vật của TTLS phải sinh động
hơn các nhân vật lịch sử, vì các nhân vật của TTLS được trao cho sự sống còn các cá
nhân lịch sử thì đã sống” [39, 176]. Biên độ sáng tạo nhân vật mở rộng theo nhiều chiều
kích, cho phép nhà văn nhìn nhận, đánh giá nhân vật ở tính “đa diện, lưỡng trị, nhiều
chiều”. Nhà văn khai phá con người ở góc độ đời tư – thế sự với cái nhìn đầy nhân bản,
nhân văn. Những vùng mờ, khuất lấp, bí ẩn trong tâm hồn của nhân vật như khát vọng
tình yêu (Huyền Trân, Lý Thường Kiệt, Lý Thánh Tông, Dương Vân Nga), khát vọng tự
do, bi kịch tâm hồn (Hồ Quý Ly, Mạc Đăng Dung, Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn,
Nguyễn Du),… đều được các nhà văn đưa ra minh giải, luận bàn một cách thuyết phục và
sâu sắc. Đặc trưng khu biệt TTLS với các thể loại khác chính là cách tái hiện và tái tạo cái
lõi lịch sử vốn đã khắc sâu trong tâm thức cộng đồng. Thử thách đặt ra cho nhà văn là làm
sao vừa thể hiện quan niệm cá nhân vừa thuyết phục đông đảo độc giả. Cách xử lý chất
liệu lịch sử đầy sáng tạo sẽ hỗ trợ đắc lực cho nhà văn tạo dựng thế giới hình tượng độc
đáo, nêu bật những bài học có giá trị và ý nghĩa đối với cuộc sống hiện tại của con người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

Với quan niệm xem lịch sử có một mối quan hệ gắn kết chặt chẽ với văn hóa, nói
như A. Poxxe: “Đối với tôi, một nhà văn, các sự kiện lịch sử quan trọng phải có tính chất
tự thân, mà là sự phản ánh những hiện tượng văn hóa. Tơi khai thác các vấn đề lịch sử và
“trá hình hóa” chúng theo cách của nói của Bakhtin, qua chúng khám phá ra các tầng văn
hóa”[105], các nhà TTLS Việt Nam đương đại ý thức sâu sắc về sự gắn kết giữa hai yếu
tố lịch sử và văn hóa trong sáng tạo của mình. Lịch sử với những biến cố, sự kiện hiện
diện trên bề nổi là những tầng giá trị ẩn ngầm như một hằng số quyết định sự thịnh suy
<i>của một thời đại, một giai đoạn lịch sử. Tiêu biểu cho xu hướng này là tác phẩm Mẫu</i>
<i>Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân Khánh), Đất trời (Nam Dao),… Tuy</i>


nhiên, xét trong từng tác phẩm cụ thể, cội nguồn văn hóa ln là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chi
<i>phối toàn bộ tinh thần của tác phẩm như Phật giáo trong Tám triều vua Lý (Hoàng Quốc</i>
<i>Hải), Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng (Bùi Anh Tấn), Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân</i>
Khánh); phong tục tập quán của người Việt như ma chay, cưới hỏi, trò chơi dân gian, tập
quán sinh hoạt và trồng trọt; những nghi lễ, lễ hội… hiện diện như những dấu chỉ văn hóa
dân tộc, như một lớp diễn ngôn mới về lịch sử mà tân lịch sử gọi là “thi pháp học văn
hóa”. Sự hiện hữu của mơ hình lịch sử mới khi đi vào những mảnh vụn đời sống, bỏ xa
các lịch sử chính trị, các cuộc đấu tranh mà đi vào lịch sử sinh hoạt, phong tục, bỏ qua các
lịch sử vĩ mô chuyển thành các lịch sử vi mô, nhỏ bé, bỏ qua ý thức hệ quan phương để
chọn điểm nhìn dân gian, văn hóa là cách làm của tư duy tân lịch sử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

những người phụ nữ (Bà tổ Cô, Ba Váy, Nhụ, Hoa,…). Nguyễn Xuân Khánh đã cố gắng
<i>tái hiện sắc thái văn hóa tâm linh của người Việt cổ trong mỗi trang viết của Mẫu Thượng</i>
<i>Ngàn. Chính con người đã tạo ra văn hóa, tạo ra phong tục từ những nếp sinh hoạt hằng</i>
<i>ngày, từ những ước vọng tốt đẹp về một cuộc sống hoàn mỹ. Đội gạo lên chùa tiếp tục</i>
mạch tự sự về văn hóa – lịch sử với những kiến giải về sức sống nội tại dân tộc Việt qua
những thăng trầm, bi thương của số phận người nơng dân và văn hóa làng trong hình ảnh
Chùa Sọ. Đạo Phật luôn hiện tồn trong tâm thức của cư dân Việt. Trong tác phẩm, nhà
văn đã gắn lòng yêu thương con người như một bản tính Việt vào tinh thần từ bi hỷ xả ở
<i>đạo Phật và coi đây như một tư tưởng chủ đạo xuyên suốt của tác phẩm. Đội gạo lên chùa</i>
không chỉ lấy Phật giáo soi rọi, suy ngẫm các vấn đề về văn hóa, xã hội, triết lý nhân sinh
mà còn chạm đến những vấn đề muôn thuở của kiếp người. Tác phẩm hướng độc giả tìm
về nguồn cội, tìm lại những giá trị đáng quý trong tâm thức con người hiện đại.


Tư tưởng Thiền, tâm linh Phật với phương châm từ bi, hỷ xả, bác ái, yêu thương
con người còn xuất hiện rất nhiều trong những TTLS của Hoàng Quốc Hải, Võ Thị Hảo
<i>và đặc biệt bộ ba tác phẩm Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng, Oan khuất, Bức huyết thư</i>
của Bùi Anh Tấn. Tuy nhiên, trong những tác phẩm này, văn hóa trở thành điểm tựa để
nhà văn luận giải về các vấn đề nhân sinh, thế sự. Dưới cái nhìn văn hóa, nhà văn để cho
một số nhân vật có sự am hiểu về lĩnh vực tôn giáo như Đại sư Bảo Sát, Đạo trưởng An


Kỳ Sinh bàn bạc về “đạo”, về sự ra đời và vai trị “giáo hóa chúng sinh” của Đạo gia hay
mối quan hệ giữa Nho gia và Đạo gia, đặc biệt, tác giả đã làm rõ ảnh hưởng của tư tưởng
Phật giáo tới đạo trị nước, dựng nước, giữ nước và bảo vệ đất nước của các vị vua nhà
Trần từ Trần Thái Tông đến Trần Nhân Tông, đem đạo vào đời theo tinh thần “phụng sự
chúng sinh cúng dường chư Phật”. Phật giáo còn hiện hữu thơng qua những địa danh văn
hóa như núi Yên Tử, nơi đặt xá lợi đức Điều Ngự Giác Hồng hoặc văn hóa Chămpa với
nhiều màu sắc của xứ đất Phật gắn với đền đài, chùa miếu, ảnh hưởng sâu sắc tới tư tưởng
Phật giáo của Điều Ngự Giác Hồng trong q trình tu tập.


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

thống với những biểu hiện phong phú của nó vừa là “nội lực cố kết cộng đồng” vừa là
“phản lực tự vệ của dân tộc”. Các tác giả TTLS đương đại đã đi tìm “cái nhân dạng dân
tộc, cái bản sắc dân tộc” trong đề tài lịch sử, khơi sâu vào nguồn mạch để tìm cái sức sống
mãnh liệt của nền văn hóa Việt. Nhìn chung, sáng tác theo xu hướng này chiếm số lượng
tác phẩm khơng nhiều nhưng nó đã mở ra một triển vọng mới cho thể loại TTLS Việt
Nam đương đại.


<i>2.2.1.4. Tiểu thuyết lịch sử luận giải </i>


Nhu cầu khơi mở những bí ẩn và xung đột của lịch sử nhằm lý giải số phận của
con người trong dòng chảy lịch sử là những đặc điểm lớn của TTLS đương đại. Nguyễn
Xuân Khánh từng nhận định TTLS phải đi sâu khai thác các yếu tố như luận đề, tâm lý,
lựa chọn những giai đoạn lịch sử và sự kiện có tầm phổ quát để khai thác và luận giải gắn
<i>với thân phận con người. Trong Hồ Quý Ly, Nguyễn Xuân Khánh đã đưa ra luận giải về</i>
vai trò và ý nghĩa thời thế của nhân vật Hồ Quý Ly trong thời đại suy tàn của triều Trần.
Hơn thế, vấn đề xung đột giữa đổi mới và bảo thủ là chủ đề xuất hiện trở đi trở lại như
một cách nhà văn lý giải về lịch sử, gắn liền quá khứ và hiện tại. Để luận giải lịch sử, nhà
văn đã hiện đại hóa bút pháp trần thuật khi xây dựng thời gian đa chiều, hiện tại đan xen
quá khứ, vì thế, vấn đề cần luận giải được nhìn nhận từ nhiều góc độ và cung bậc khác
<i>nhau. Vấn đề luận giải trong Hội thề (Nguyễn Quang Thân) là sự xung đột giữa quyền lực</i>
võ biền với trí thức Thăng Long (giữa các võ tướng Lam Sơn và Nguyễn Trãi). Nguyễn


Quang Thân đã đưa ra một giả định về mối xung đột này khi đặt nó vào trong cuộc chiến
giữa quân ta và giặc Tống. Phải chăng đó là cách nhìn nhận của nhà văn khi lý giải các võ
tướng luôn mong mỏi đến chiến thắng để chiếm đoạt những thành quả của mình, ngược
lại, các trí thức Thăng Long, đứng đầu là Nguyễn Trãi, không màng đến danh lợi mà đặt
lợi ích hịa bình của dân tộc lên hàng đầu. Bên cạnh đó, việc tranh đoạt quyền lực giữa hai
phái phò Thái tử giữa võ quan với hồng tử Ngun Long và các trí thức Thăng Long với
công tử Tư Tề đã thúc đẩy mâu thuẫn lên đỉnh điểm, mà hậu quả của nó là cái chết bi
thương của gia tộc Nguyễn Trãi mãi về sau. Nhà văn đã sử dụng một lát cắt trong cuộc
chiến chống quân Minh để lý giải về lịch sử, góp phần khơi mở bí mật và những xung đột
của lịch sử bằng những kiến giải rất riêng của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

Nguyễn Thị Lộ, Ngọc Trần, Thanh Mai,…) đều chịu cơn địa chấn của lịch sử. Họ ln cơ
đơn, lạc lồi, luôn nhận lấy những bi kịch do thời thế mang lại. Chính điều này khiến tâm
<i>hồn độc giả ln cảm thấy da diết và ám ảnh. Nguyễn Trãi trong Hội thề, Đất trời luôn</i>
thể hiện là con người dấn thân vì khát khao nhân nghĩa, khát khao đem lại hịa bình cho
đất nước. Lịng ngay thẳng, cương trực đã khiến ông luôn phải nhận lấy biết bao thiệt
thòi, sự căm ghét của những võ tướng Lam Sơn, lịng hồi nghi của Lê Lợi. Ơng ln
dùng tài trí của mình để tìm lối thốt cho dân tộc nhưng những tư tưởng của ông lại đi
ngược với quyền lợi của nhà Lam Sơn, do đó, kết thúc bi thảm mà ơng phải nhận lấy, phải
chăng là một tất yếu. Lịch sử mà tác giả kể và cố tái tạo qua tác phẩm với những yếu tố
mới hoặc được tư duy lại, thẩm định lại theo cách của người tiếp nhận hôm nay.


Xem lịch sử như một văn bản có nhiều khoảng trắng, một loại diễn ngôn hoặc đầy
thiên kiến sai lạc, hoặc có những lầm lẫn, lấp lửng, nhà tiểu thuyết cần “đọc lại” lịch sử,
“viết lại” lịch sử. Trong khi “đọc lại”, “viết lại” như vậy, nhà tiểu thuyết có thêm nhiều cơ
hội tỏ thái độ trước thưc tại. Nguyễn Xuân Khánh quay về quá khứ để suy tư những vần đề
hiện tại, ông không chủ quan phán xét lịch sử mà để cho nhân vật tự lên tiếng, để họ sống
lại một lần nữa và phán xét lịch sử. Điều này cũng là điểm gặp gỡ của những người cùng tư
tưởng như Võ Thị Hảo, tuy nhiên, Võ Thị Hảo đã sử dụng rất nhiều yếu tố hư cấu mang
<i>tính chất hoang đường, kỳ ảo, bàng bạc màu sắc huyền thoại trong tác phẩm Giàn thiêu. </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

họ để mang đến khơng khí mới, thay đổi một triều đại đã trở nên thối nát, mục ruỗng,
<i>khơng cịn cách cứu chữa. Trong Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng, nhà văn đã chọn</i>
những sự kiện lịch sử quan trọng có liên quan đến nhân vật để luận giải, bằng cách để cho
các nhân vật bàn luận, nhận xét, đánh giá nhằm làm sáng tỏ vấn đề một cách khách quan
và cơng bằng nhất. Ví dụ, sự kiện thay triều đổi ngôi giữa nhà Lý vào tay nhà Trần dưới
bàn tay sắp đặt của Trần Thủ Độ hay việc ép vua Thái Tơng từ bỏ Lý Chiêu Hồng để lấy
chị dâu Thuận Thiên bị các nhà sử học lên án gay gắt. Thế nhưng trong nhu cầu đối thoại
để tìm ra chân lý chứ khơng dễ dàng chấp nhận sự phán xét của quá khứ, Bùi Anh Tấn đã
đưa cái nhìn khách quan cơng bằng cho tiền nhân thơng qua cuộc bàn luận của nhân vật
học trò với Đạo trưởng An Kỳ Sinh, những cuộc tự vấn của Trần Thái Tơng và Trần Thủ
Độ. Trong ván bài chính trị ấy, Trần Cảnh chỉ là con rối trong “tấn trò đời” quyền lực.
Trần Thủ Độ một mặt là con người tội lỗi, vì đam mê quyền lực mà vượt qua ln thường,
đạo lý, mặt khác, ơng lại hết lịng vì dòng họ, đất nước, nhân dân. Phải chăng, đánh giá về
cuộc đời của ông, thế hệ hôm nay nên luận bàn cả tội lẫn cơng.


Có thể nói, viết về các nhân vật trên các nhà văn cũng đã trình bày, lý giải và đánh
giá lại những nhân vật lịch sử, mang đến cho người đọc cái nhìn tồn diện hơn với sức
thuyết phục lớn. Trong những TTLS này thì nhà văn vẫn coi lịch sử là đối tượng trung
tâm, và nhiệm vụ của nhà văn là tìm cách giải mã nó theo cách nhìn của cá nhân mình.
Tác giả dựa trên những cứ liệu lịch sử để đưa ra những kiến giải mới mẻ ở những vấn đề
thế sự mà tác giả gắn vào cho nó. Từ việc khai thác tâm lý nhân vật, các nhân vật lịch sử
không cịn bị xa cách, khơng cịn bị khơ cứng, ước lệ nữa mà trở thành những con người
theo đúng nghĩa của nó. Đơi khi một anh hùng cũng là một nạn nhân của lịch sử. Ở
khuynh hướng này, lịch sử khơng được nhìn nhận như lịch sử của một đất nước, một dân
tộc, một vùng miền mà được nhìn nhận như lịch sử của cá nhân người viết. Lịch sử được
nhìn nhận theo quan niệm cá nhân, người viết có thể lật lại, xét lại, đánh giá lại lịch sử
theo quan điểm riêng của mình, có thể gắn vào lịch sử những vấn đề của thời đại mình
nhưng lịch sử vẫn phải là trung tâm của tác phẩm.



<i><b>2.2.2. Tiểu thuyết lịch sử nhìn từ dạng thức kết cấu</b></i>
<i>2.2.2.1. Tiểu thuyết lịch sử kết cấu theo lối tuyến tính </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

phẩm nghệ thuật. Chúng ta nhận diện khung của tác phẩm thông qua điểm mở đầu và kết
thúc của nó. TTLS với nhiệm vụ tái hiện tuần tự các sự kiện lịch sử theo một bút pháp
khách quan; các nhân vật và sự kiện lịch sử được kể theo mạch trật tự tuyến tính của thời
gian kể, người kể chuyện ngơi thứ ba tồn tri. Thời gian văn bản trong tác phẩm được
đóng khung trong những sự kiện. Nhân vật được kể và vận động theo trật tự tuyến tính
của niên biểu. Nhà văn dựa vào những sự kiện xác thực của lịch sử để tái tạo lại lịch sử, vì
vậy, thời gian văn bản trong TTLS mang tính cố định, cụ thể. Tương ứng với mỗi thời
điểm lịch sử, người kể không xáo trộn, không phân chia lại thời gian là để sự kiện lịch sử
vận động theo một trật tự thời gian nhất định và có hệ thống của lịch sử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

chương); những tranh đoạt quyền lực trong triều đình, Nguyễn tìm cách từ quan xin về ở
ẩn lần hai (Phần 4: Sóng gió cung đình gồm 8 chương); Nguyễn trở lại quê nhà, sống
cuộc đời bình lặng, sáng tác văn chương (Phần 5: Kết gồm 4 chương). Song song đó,
chúng ta thấy xuất hiện nhiều những mảnh đoạn tâm lý của Nguyễn Du, Gia Long như
độc thoại, dòng ý thức, hồi ức hay những dự báo về tương lai, làm đảo tuyến cục bộ mạch
tuyến tính của tác phẩm.


Tính chất tuyến tính của truyện kể thể hiện rõ trong việc xử lý các mốc thời gian sự
<i>kiện theo lối biên niên sử. Thời gian trong Tám triều vua Lý cũng được đóng khung bằng</i>
những sự kiện. Nhân vật được kể và vận động theo trật tự tuyến tính của dịng thời gian
có tính niên biểu. Nhà văn đã dựa vào những sự kiện xác thực của lịch sử để tái tạo lại
lịch sử, vì vậy, ln có sự trật tự, khơng bị đảo lộn về thời gian cốt truyện và diễn biến
các sự kiện được trình bày khá rõ ràng, đơi khi chính xác đến từng ngày tháng. Ví dụ,
<i>trong Thiền sư dựng nước, sự kiện Lý Công Uẩn dời đô về Đại La và đổi tên thành thành</i>
Thăng Long diễn ra theo mốc thời gian tác phẩm (Giờ Dần, 10/7/1010) và thời gian trong
chính sử (Mùa thu, 7/1010) trùng khít nhau; sự kiện Thái tổ băng hà, Lý Phật Mã dẹp loạn
tam vương, lên ngơi hồng đế (Giờ Sửu, ngày Mậu Tuất, tháng 3/1028) trùng khít với thời


gian trong chính sử (Ngày Mậu Tuất, 3/1028)…


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

Ngoài ra, kết cấu theo lối chương hồi là một dạng thức của kiểu kết cấu tuyến tính
truyền thống khi dựa vào khung lịch sử của các triều đại để dựng khung truyện kể. Mặc
dù vận dụng kĩ thuật kết cấu chương hồi truyền thống nhưng TTLS thập niên đầu thế kỉ
XXI có nhiều đổi mới hiện đại về ngôn ngữ, về cách khắc họa nhân vật. Nhân vật là các
danh nhân nổi tiếng nhưng nội hàm tư tưởng lại hướng về các hiện trạng đương đại. Tiêu
<i>biểu là những cuốn TTLS: Mười hai sứ quân, Hào kiệt Lam Sơn, Bắn rụng mặt trời của</i>
<i>Vũ Ngọc Đĩnh, Nam quốc sơn hà, Anh hùng Đông A dựng cờ bình Mơng của Cư sĩ n</i>
<i>Tử Trần Đại Sỹ, Uy Viễn tướng công, Lý Công Uẩn của Ngô Văn Phú, Tây Sơn bi hùng</i>
<i>truyện của Lê Đình Danh, Thăng Long ký của Nguyễn Khắc Phục… Đặc điểm dễ nhận</i>
thấy của TTLS chương hồi là mở đầu mỗi hồi đều có hai câu văn biền ngẫu tóm tắt nội
dung của hồi đó và kết thúc mỗi hồi đều có một câu: “Dục tri hậu sự như hà, thả kiến hạ
hồi phân giải” nghĩa là “Muốn biết sự việc xảy ra như thế nào, xem hồi sau sẽ rõ”. Mặc
dù sáng tác theo xu hướng này nhưng nhiều nhà văn khơng rập khn máy móc mà đã có
sự biến cải hiện đại hơn. Ví dụ, nếu TTLS của Vũ Ngọc Đĩnh và Trần Đại Sỹ tuân thủ
nghiêm ngặt công thức xây dựng tác phẩm theo kết cấu chương hồi truyền thống khi phân
tác phẩm thành các “hồi” thì TTLS của Ngô Văn Phú không đặt ra các “hồi” như tiểu
thuyết cổ điển Trung Quốc mà đặt thành các “chương”, không lặp lại các câu mở đầu đối
ngẫu và mẫu lời dẫn và lời kết mở nhưng lối kể chuyện ở ngôi thứ ba. Không sử dụng câu
văn biền ngẫu mà thay bằng những câu cách ngôn, châm ngôn, ca dao, thơ… làm đề từ,
<i>với chức năng gợi mở ở đầu mỗi chương. Trong khi đó, mặc dù ra đời sau nhưng Tây Sơn</i>
<i>bi hùng truyện (Lê Đình Danh) lại tuân thủ khá nghiêm ngặt mơ hình TTLS chương hồi</i>
cổ điển: đặt ra các chương (thay cho các hồi) (5 phần với 70 chương), đặt hai câu đối
ngẫu đầu mỗi chương, sử dụng lối chuyển đoạn nhưng trên cơ sở cách tân nhằm mang sắc
thái riêng. Ví dụ, đầu Chương 1, tác giả đề dẫn:


<i>Tại Đàng Ngồi, Tĩnh Đơ Vương lộng hành giết chết Thái tử</i>
<i>Ở Đàng Trong, Trương Phúc loan lập mưu đoạt quyền Đô Thống </i>
<i>Hoặc đầu Chương 3: </i>



<i>Thành Phú Xuân hoàng tộc tranh quyền </i>
<i>Đất Quy Nhơn anh hùng hội tụ</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

được trần thuật theo phương thức NKC ngơi thứ ba với điểm nhìn toàn tri. Điều này đã
giúp nhà văn bao quát toàn bộ sự kiện lịch sử, nhân vật, không gian và thời gian lịch sử
<i>rộng lớn. Chẳng hạn, Tây Sơn bi hùng truyện là tác phẩm thiên về các sự kiện, các chi tiết</i>
ly kì, các cuộc giao tranh quyết liệt, tập trung đầu tư cho hành động và ngôn ngữ nhân
vật, chủ yếu là ngôn ngữ đối thoại, nặng về kể và bình. Nhìn chung, kiểu kết cấu cổ điển
sẽ giúp người đọc dễ dàng nắm bắt cốt truyện của tác phẩm thông qua các phần, các
chương, mục, tạo nên mối liên kết chặt chẽ giữa các diễn biến nội dung của câu chuyện.
Tuy nhiên, kiểu kết cấu này dường như chưa đáp ứng được nhu cầu của độc giả hiện đại,
do đó, trong nỗ lực làm mới thể loại, kĩ thuật hiện đại ghi nhận thêm nhiều dạng thức kết
cấu lắp ghép, đồng hiện, phân mảnh, đa tầng bậc.


<i>2.2.2.2. Tiểu thuyết lịch sử kết cấu theo lối lắp ghép, đồng hiện</i>


Tiểu thuyết hiện đại phá vỡ hệ hình cũ với những kĩ thuật, thủ pháp riêng, định
hình những kiểu kết cấu mới. Xu hướng giảm nhẹ cốt truyện, nới lỏng độ căng của cốt
truyện đã làm cho tiểu thuyết hiện đại có cấu trúc phức tạp hơn với tính chất mở trên trục
thời gian và đường biên thể loại. Kĩ thuật lắp ghép của điện ảnh được các nhà tiểu thuyết
vận dụng như một “kĩ thuật giữ bí mật” nhằm đưa tiểu thuyết vào “những mê cung đầy
những ổ khóa”, chạy theo “tiếng gọi của trị chơi” ln vận động và biến chuyển không
ngừng. Kiểu kết cấu này khiến cho cốt truyện lỏng lẻo, mơ hồ, co giãn, khó nắm bắt. Cấu
trúc tác phẩm được chắp nối từ những mảnh vụn của hiện thực. Trong dịng chảy đó, các
tiểu thuyết gia lịch sử mười năm đầu thế kỉ XXI tiếp tục phát huy kiểu lắp ghép (montage)
quá khứ và hiện tại của nhân vật, hành động luôn chuyển từ thời gian này sang thời gian
khác. Sử dụng kết cấu lắp ghép thơng qua dịng chảy ký ức của nhân vật, hiện thực được
tiếp cận từ nhiều chiều: thời gian, khơng gian, điểm nhìn, các biến cố lịch sử gắn liền với
số phận con người, được phối hợp chặt chẽ tạo nên tính liên tục và ổn định cho tác phẩm.


<i>Các tác phẩm tiêu biểu: Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Mẫu Thượng Ngàn (Nguyễn Xuân</i>
<i>Khánh), Minh sư (Thái Bá Lợi), Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng (Bùi Anh Tấn),...</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

câu chuyện phải được bắt đầu từ lúc trẻ của Từ Lộ, biến cố gia đình đẩy Từ Lộ đến con
đường trả thù và tu hành đắc đạo thành Từ Đạo Hạnh, hóa kiếp thành Lý Dương Hốn để
<i>trở thành Lý Thần Tơng. Tuy nhiên, Giàn thiêu lại được trần thuật lắp ghép các sự kiện:</i>
Lý Thần Tông lên ngôi (1127) – cuộc đời Từ Lộ với mối tình Nhuệ Anh (1088) – câu
chuyện về Lý Thần Tơng làm vua và hóa hổ - Câu chuyện về Từ Lộ tu luyện thành Từ
Đạo Hạnh. Hai mảng hiện tại và quá khứ kết nối vào nhau, lý giải duyên nghiệp của nhân
vật Từ Lộ - Lý Thần Tông: một kiếp khổ nạn, một kiếp đế vương.


<i>Mẫu Thượng Ngàn (Nguyễn Xuân Khánh) có sự lắp ghép nhiều mảng khơng gian</i>
khác nhau: khơng gian văn hóa cộng đồng của làng Cổ Đình, khơng gian của cá nhân của
các nhân vật, không gian thờ cúng (thờ Mẫu), không gian tính dục, khơng gian xâm
chiếm, khai thác thuộc địa của thực dân Pháp… Thời gian truyện kể có sự biến chuyển
phi tuyến tính, song hành, đồng hiện, huyễn hoặc soi chiếu vào nhau. Hiện thực và huyền
ảo, ánh sáng và bóng tối, q khứ và hiện tại ln đan xen, trộn lẫn vào nhau tạo nên màu
sắc huyền thoại cho làng Cổ Đình vừa hư vừa thực, vừa gần vừa xa. Tác phẩm còn là sự
lồng ghép các câu chuyện với nhau một cách chặt chẽ: câu chuyện về làng Cổ Đình trong
cuộc chiến đấu chống lại Pháp xâm lược, sự giao thoa văn hóa Đơng – Tây; câu chuyện
về cuộc đời và số phận của những nhân vật: Nhụ, Điều, bà Tổ cô, bà Ba Váy,…tất cả tạo
nên một cấu trúc hoàn chỉnh cho tác phẩm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

Khai thác cuộc sống góc cạnh, nhiều chiều, cuộc sống như những mảnh vỡ được
lắp ghép, cắt dán, các nhà văn còn lựa chọn lối kết cấu dựa trên những nỗ lực sáng tạo
tiểu thuyết đương đại. Kết cấu đồng hiện góp phần mở rộng biên độ thể hiện hiện thực
lịch sử nhằm xóa nhịa khoảng cách giữa q khứ và hiện tại, tạo nên cái nhìn đa chiều về
cuộc sống và con người. Lịch sử trong cái nhìn hiện đại không đơn thuần là lịch sử của
các sự kiện liên quan đến sự tồn vong của một quốc gia mà còn được mở rộng biên độ
<i>sang địa hạt của văn hóa, phong tục, tín ngưỡng (Mẫu Thượng Ngàn (Nguyễn Xuân</i>


<i>Khánh), Oan khuất (Bùi Anh Tấn)), dã sử, huyền thoại, kỳ ảo (Giàn thiêu (Võ Thị Hảo),</i>
<i>Đất trời, Gió lửa (Nam Dao), Bí mật hậu cung (Bùi Anh Tấn)), gia tộc, dịng họ, thậm chí</i>
<i>lịch sử gắn liền với đời tư, thế sự, nhân sinh (Đàn đáy (Trần Thu Hằng), Nguyễn Du</i>
(Nguyễn Thế Quang))… Nhìn chung, với việc tiếp cận những kĩ thuật điện ảnh (lắp ghép,
đồng hiện) TTLS đương đại đã thể hiện những cách tân đầy sáng tạo, đa dạng, chứa đựng
những quan niệm mới của nhà văn về hiện thực, phản ánh nhiều vấn đề của cuộc sống, gia
tăng tính đối thoại và luận giải của tiểu thuyết, làm thay đổi cách tiếp nhận của độc giả.
Tóm lại, đổi mới dạng thức TTLS kết cấu theo hướng hiện đại thể hiện những nỗ lực của
các nhà văn đương đại. Tùy vào mục đích, ý đồ nghệ thuật và tư tưởng của nhà văn mà
các tác gia lựa chọn một phương thức kết cấu tối ưu trong việc xây dựng cốt truyện, hệ
thống sự kiện, nhân vật, không – thời gian nhằm giải mã, chiếm lĩnh và khơi mở lịch sử,
văn hóa và con người trong quá khứ.


<b>2.3. Các xu hướng và dạng thức tiểu thuyết lịch sử nhìn từ tương tác thể loại</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

<i>niệm đồng nhất với khái niệm liên văn bản của Bakhtin khi đưa ra khái niệm cách kể đa</i>
<i>âm: là “sự sáp nhập những thể loại phi tiểu thuyết (truyện ngắn, phóng sự, thơ, tiểu luận,</i>
…) vào tiểu thuyết” [74,79]


Các nhà hình thức luận Nga, M.Bakhtin, G.Genette xem sự pha trộn thể loại chính
là những biểu hiện của tính liên văn bản. Tương tác thể loại là “hiện tượng hai hay nhiều
thể loại của một giai đoạn, một thời kì, một nền văn học, thuộc về một hay nhiều hệ thống
thể loại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, xâm nhập vào nhau, mô phỏng nhau,… để cùng
biến đổi hoặc hình thành thể loại mới (với cấu trúc ít nhiều thay đổi về “tố chất thẩm mĩ
chủ đạo”, “giọng điệu”, “dung lượng và cấu trúc chung của tác phẩm.”” [120, 5]. Tương
tác thể loại diễn ra trên các loại quan hệ khác nhau: giữa loại với loại, giữa thể với loại,
giữa thể với thể, giữa yếu tố với yếu tố. Tương tác thể loại có thể diễn ra theo các hình
thức chính: tổng hợp thể loại, đổi ngơi – tiếp sức giữa các thể loại, loại bỏ, thay thế thể
loại. Với TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI, chúng tôi nhận thấy không chỉ lịch sử trở thành
cảm hứng chủ đạo mà nó cịn pha trộn cả thơ, truyện ngắn, những đối thoại đầy tính chất


kịch, cổ tích, truyền thuyết, huyền thoại… để mở rộng biên độ thể loại.


<i><b>2.3.1. Sự xâm nhập của truyện ngắn trong tiểu thuyết lịch sử </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

trong tiểu thuyết thì đó là toàn bộ lịch sử của con người được miêu tả trong sự vận động
và phát triển của nó. Cốt truyện của truyện ngắn thường tự giới hạn về thời gian và khơng
gian nhưng chức năng của nó là để nhận ra một ấn tượng sâu đậm về cuộc đời và tình người
trong cuộc sống. Truyện ngắn thường chọn một sự kiện quan trọng nào đó, cịn trong tiểu
thuyết có nhiều sự kiện, nhiều tuyến cốt truyện đan chéo, chồng chất lên nhau. Trong
truyện ngắn, hành động cơ bản được bắt đầu ngay một cách mau lẹ chứ không phải được
dắt dẫn từ từ như trong tiểu thuyết. Kết cấu của truyện ngắn thường gồm nhiều tầng truyện
và thường được dựng theo kiểu tương phản, liên tưởng. Bút pháp trần thuật thường là
chấm phá. Yếu tố có ý nghĩa quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là chi tiết có dung
lượng lớn và hành văn ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết.


Với tư duy tiểu thuyết, truyện ngắn có độ nén, tính vấn đề, tính mở, tính đa âm rất
cao. Do đó, tương tác giữa truyện ngắn và TTLS là sự xâm nhập của hình thức tự sự cỡ
nhỏ vào trong cấu trúc tự sự cỡ lớn. Nhìn từ góc độ thể loại có thể thấy TTLS giai đoạn
này có sự nới rộng cấu trúc thể loại, “mở rộng trường nhìn”, góp phần tạo nên nhiều tiếng
nói khác nhau trong tiểu thuyết. Tính liên thể loại thể hiện qua hai hình thức chính: truyện
lồng truyện và lắp ghép truyện.


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

của Thần Sông,… những câu chuyện ngắn tuy tách biệt nhưng lại lặn sâu trong cấu trúc
tác phẩm tạo nên sự hòa hợp một cách khéo léo.


Lồng truyện hay lắp ghép truyện đều là những biểu hiện của tính chất liên văn bản
trong nỗ lực mở rộng đường viền của thể loại. Đó là “tổng thể các quan hệ với những văn
bản khác được tìm thấy bên trong văn bản” [73]. Tuy nhiên, xét từ góc nhìn thể loại, kĩ
thuật lắp ghép thể hiện rõ ý thức nghệ thuật của nhà văn trong việc đưa những câu chuyện
do chính mình sáng tạo nhằm hướng đến mục đích, ý đồ nghệ thuật nào đó. Trần Viết


Thiện gọi đó chính là “trị chơi rubic mà sự cố tình đặt bên cạnh nhau những mảng màu
khác nhau đã tạo cho tác phẩm một bức tranh nhiều màu sắc trong tiểu thuyết đương đại”
[121, 60]. Ưu điểm của thể loại tự sự cỡ nhỏ đã được các nhà TTLS đương đại sử dụng
trong việc lắp ghép những câu chuyện rời rạc tạo thành trường tự sự cỡ lớn nhằm đạt tới
khả năng bao quát hiện thực lịch sử rộng lớn, phù hợp với đặc trưng thể loại. Có thể kể
<i>đến những tác phẩm tiêu biểu như: Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Mẫu Thượng Ngàn (Nguyễn</i>
<i>Xuân Khánh), Đàn đáy (Trần Thu Hằng), Minh sư (Thái Bá Lợi), Đàm đạo về Điều Ngự</i>
<i>Giác Hồng, Bí mật hậu cung (Bùi Anh Tấn),…</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

xây dựng hai câu chuyện hoàn toàn khác nhau nhưng tác giả lại đặt chúng trong một bối
cảnh lịch sử, có sự gắn kết về mặt thời gian và không gian thể hiện rõ ý đồ nghệ thuật
nhằm làm sáng rõ chủ đề của tác phẩm: thân phận con người trong quá khứ khi mang tình
u nghịch dị.


<i>Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hồng với hình thức tự sự mới lạ khi sáng tạo nên</i>
phương thức đa chủ thể trần thuật. Trong lời kể của 6 nhân vật người kể chuyện là sáu câu
chuyện được lắp ghép, kết dính vào nhau tạo nên một mạch tự sự về triều đại nhà Trần:
người kể chuyện hàm ẩn (NKC1), Trần Thái Tông (NCK2), Trần Thủ Độ (NKC 3), Trần
Tung (NKC 4), Thiền sư Bảo Sát (NKC 5), Trần Nhân Tông (NKC 6). NKC hàm ẩn kể
về sự kiện nhà Trần thay nhà Lý và vai trò của Trần Thủ Độ, những thịnh suy và hưng
vong của hai triều đại cùng thân phận của những người phụ nữ trong toan tính chính trị
của các triều đại. NKC 2 – vua Trần Thái Tơng đã kể về chính cuộc đời cùng những đớn
đau, dằn vặt trong mối tình chính trị đầy bi kịch với Lý Chiêu Hoàng. NKC 3 – Trần Thủ
Độ trong cơn hấp hối với những biện minh, sám hối của một con người nhuốm đầy máu
và nước mắt vì sự nghiệp dịng họ, đất nước. Bên cạnh đó, tác phẩm mang đến cho người
đọc những phần khuất lấp trong cuộc đời bi thương của Trần Liễu qua lời kể của Trần
Tung (NKC 4). Thiền sư Bảo Sát lí giải nhiều vấn đề quốc gia dân tộc khi trực tiếp luận
bàn, đàm đạo với Điều Ngự Giác Hồng. Trần Nhân Tơng xuất hiện trong vai trị NKC 6,
đồng thời cũng là chứng nhân trong các câu chuyện của Trần Thái Tông, Trần Thủ Độ.
Câu chuyện về những cuộc chiến chống giặc Mông – Nguyên đầy khốc liệt và vinh


quang, những trăn trở, khoắc khoải về Đạo – Đời trong việc trị nước an dân cùng những
khát khao hòa hợp dân tộc đều hiển hiện trong từng câu chuyện của nhà vua. Nhìn chung,
TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI tận dụng triệt để ưu thế lớn nhất của mình trong việc thu
nhận và dung chứa tất cả các thể loại: thơ, kịch, truyện ngắn… để mở rộng trường nhìn,
biên độ sáng tạo và khả năng tiếp cận hiện thực lịch sử, từ đó, tiếp cận được cuộc sống đa
tầng bậc, đa sắc màu của con người đương đại.


<i><b>2.3.2. Sự xâm nhập của thơ trong tiểu thuyết lịch sử </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

<i>tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh đều sử dụng câu thơ đề từ: Hồ Quý Ly (Thường độc</i>
hành, thường độc bộ/Đạt giả đồng du niết bàn lộ (Thiền sư Huyền Giác); Thiên giang hữu
<i>thủy, thiên giang nguyệt/Vạn lý vô vân, vạn lý thiên (Trần Thái Tơng)); Mẫu Thượng</i>
<i>Ngàn (Cơ Chín ngự đồng dệt gấm thêu hoa/Thêu non, thêu nước, cô thêu ra đơi rồng</i>
<i>chầu; Đẹp lạ đẹp lùng…/Rõ ràng cơ Chín trong đền Sịng cơ giá lâm (Văn Cơ Chín)); Đội</i>
<i>gạo lên chùa (Cư trần lạc đạo thả tùy duyên/Cơ tắc san, hề khốn tắc miên/Gia trung hữu</i>
bảo, hưu tầm mịch/Đối cảnh vô tâm, mạc vấn Thiền (Trần Nhân Tông)). Trong nhiều tác
phẩm, thơ không chỉ thể hiện chức năng minh họa cho hoạt động sáng tác, đối đáp, ngâm
vịnh, truyền dạy giáo lý giữa các nhân vật mà nó cịn là phương tiện để cấu thành cốt
truyện, mở rộng đề tài, thể hiện chủ đề, nới rộng biên độ thể loại, thực hiện chức năng kết
<i>nối liên văn bản. Giàn thiêu (Võ Thị Hảo) là trường hợp tiêu biểu. Tác phẩm có bốn phần</i>
<i>thì mở đầu ba phần đều là những bài thơ độc đáo: phần 2 (Ru cá bơn), phần 3 (Bài ca đầu</i>
<i>lâu dã nhân), phần 4 (Bài ca chu sa đỗ tễ). Dưới đây là bài thơ Ru cá bơn: </i>


Trơn
Lạnh


Những chiếc vẩy biết khóc
À ơi…


Lời ru cá bơn



mồ côi


Lời ru cá bơn
À ơi


Ai chôn chữ trinh ba vạn
À ơi…


Ai chém chữ trinh chín ngàn
Ru nào


Mỹ nhân đọa xoáy nước
Ngơ ngẩn đường tu
Ru nào


Cá bơn


Phơi thân cỏ rạp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

những đoạn lời kinh Phật rất dài có chức năng như một chương mở đầu tác phẩm (chương
<i>I – Chương VIII) giống các bài thơ Ru cá bơn, Bài ca đầu lâu dã nhân, Bài ca chu sa đỗ tễ.</i>


Ngoài ra, phần lớn thơ trong TTLS là phương thức chuyển tải tâm trạng của nhân
vật trữ tình, nhân vật bộc lộ suy nghĩ, tư tưởng, tình cảm, đồng thời là kênh chuyển tải
<i>triết lý nhân sinh sâu sắc của tác giả. Những bài thơ như Tiểu sơn thiên (Từ Huệ), Việt</i>
<i>giang ngâm (Tô Dịch Giản), Nam quốc sơn hà (khuyết danh), … được lồng vào trong cấu</i>
<i>trúc Giàn thiêu giúp cho nhân vật thể hiện cảm xúc, phơi bày tâm trạng, tạo nên chất thi</i>
vị, trữ tình, làm giảm độ căng cho tác phẩm. Những bài thơ chữ Hán được tập hợp thành
<i>tập Bắc hành tạp lục ghi lại những địa danh, hình ảnh, nhân vật, cảnh vật và hoàn cảnh</i>


mà Nguyễn Du (trong tác phẩm cùng tên) đã trải nghiệm, cùng những hoài niệm riêng tư
<i>cảm nhận trong hành trình sứ bộ sang Trung Hoa. Đặc biệt, Đoạn trường tân thanh là</i>
tiếng kêu thân phận cho những kiếp người chịu nhiều bất công, ngang trái, là “nỗi khát
khao tự do của người nghệ sĩ trước thực tại nghiệt ngã, bủa vây” [65, 106].


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

<i>hoạt riêng tư khi sống ẩn dật ở Côn Sơn qua bài thơ Đời làm quan. Tóm lại, TTLS đương</i>
đại thu nhận nhiều thơ, giàu chất thơ, mang lại cho thể loại một vẻ tươi mới, đưa tiểu
thuyết nói chung và TTLS nói riêng chiếm lĩnh vị thế trung tâm của đời sống văn học,
đồng thời khẳng định khả năng uyển chuyển, linh hoạt giữa các thể loại “không thể nào
thực hiện một sự phân loại hợp lý và vững chắc các thể loại” [126, 271].


<i><b>2.3.3. Sự xâm nhập của kịch trong tiểu thuyết lịch sử</b></i>


Theo Bakhtin, tiểu thuyết chính là những tiếng nói xã hội khác nhau, đơi khi là những
ngôn ngữ xã hội khác nhau và những tiếng nói cá nhân khác nhau được tổ chức lại một cách
nghệ thuật. Tiểu thuyết là “sự va chạm, tương tác và chồng lấn lên nhau” giữa các thể loại.
Hiện thực cuộc sống sôi động với bao bộn bề, ngổn ngang thúc đẩy nhà văn đương đại phải
đối thoại và tìm cách giải quyết thơng qua những sáng tạo nghệ thuật. Heghen nhấn mạnh
<i>rằng “tình thế giàu xung đột là đối tượng ưu tiên của nghệ thuật kịch”. Với kịch chân lý lịch</i>
sử là chân lý lịch sử bên trong của sự xung đột, còn xung đột trong TTLS chỉ là bộ phận của
tồn thể cái thế giới mà nó thể hiện. Tiểu thuyết đưa đến một hiện thực xã hội đã được xác
định trong một thời đại bằng toàn cục sắc thái và khơng khí riêng của thời đại đó. Do tiểu
thuyết mơ tả cái tồn cục của các đối tượng nên nó phải đi vào các chi tiết nhỏ của đời sống
thường nhật và thời gian của hành động. Trong một thế giới nhiều mảnh vỡ, tồn tại bao nhiêu
tình thế giàu xung đột nảy sinh: xung đột giữa cái cũ và cái mới, giữa bảo thủ và đổi mới
<i>trong Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn (Nguyễn Xuân Khánh), Thế kỉ bị mất (Phạm Ngọc</i>
<i>Cảnh Nam); giữa tư tưởng nhân nghĩa và cướp đoạt trong Hội thề (Nguyễn Quang Thân);</i>
<i>giữa tình yêu và dục vọng trong Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Đàn đáy (Trần Thu Hằng), Bí mật</i>
<i>hậu cung (Bùi Anh Tấn); giữa tự do và quyền lực trong Nguyễn Du (Nguyễn Thế Quang),</i>
<i>Minh sư (Thái Bá Lợi), Huyền Trân (Nguyễn Hữu Nam); giữa trí thức với quyền lực, giữa</i>


<i>dục vọng, bản năng với lý trí trong Hội thề (Nguyễn Quang Thân), Oan khuất (Bùi Anh</i>
<i>Tấn); giữa Đạo và Đời trong Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng (Bùi Anh Tấn), Tám triều</i>
<i>vua lý (Hoàng Quốc Hải)… Nhiều mối xung đột nảy sinh trong đời sống hiện thực lịch sử,</i>
<i>trong suốt chặng đường dựng nước và giữ nước (xung đột giữa ta và địch): Bà triệu, Lê Lợi –</i>
<i>Hàn Thế Dũng; Tám triều vua Lý Hoàng Quốc Hải, Hội thề – Nguyễn Quang Thân, Đất trời</i>
– Nam Dao,… được các nhà TTLS đương đại mang ra luận giải, đối thoại như là một cách
mô tả hướng vận động của hiện thực lịch sử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

kịch phải thống nhất tập trung, địi hỏi chi tiết, tình tiết, sự kiện khơng những phải cơ đúc,
gãy gọn mà cịn phải liên đới với nhau một cách chặt chẽ, logic, tất yếu, tự nhiên. Chẳng hạn,
<i>trong Con đường định mệnh, Hoàng Quốc Hải sử dụng kĩ thuật tỉnh lược thời gian, tập trung</i>
dồn nén rất nhiều sự kiện diễn ra trong giai đoạn lịch sử rất dài 153 năm. Trong 550 trang
đầu, người kể chuyện thuật lại câu chuyện về những năm đầu tiên trị vì của Lý Nhân
Tơng diễn ra trong vịng 5 năm (trung bình 110 trang/năm). Từ đời Lý Thần tông trở về
sau, nhà văn chỉ quy về một không gian thật hẹp, tập trung vào các sự kiện chứ không đi
vào miêu tả tỉ mỉ các sự kiện ấy. Cuộc đời ngắn ngủi của Lý Huệ Tông được kể trong
vòng 46 trang sách với tốc độ trần thuật trung bình là 3.54 trang/năm. Ngắn ngủi và giản
lược nhất là giai giai đoạn cuối cùng của triều Lý, với cách kể ngắn gọn: “Lý Huệ Tông
lập công chúa Phật Kim làm hoàng thái tử Chiêu Thánh. Lại kèm thêm một chiếu nữa:
Chiếu nhường ngôi… Trần Cảnh vào chầu, nữ chúa vời vào hậu cung chơi bời cho có
bạn…thế là hai trẻ thành thân. Được mấy tháng sau ngày cưới, Trần Thủ Độ lại bày ra
chuyện nhường ngôi….Thế là nhà Lý mất ngôi nước, nhà Trần tự nhiên được ngôi nước
mà không hao tổn máu xương” [tr.979 – 980].


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

khắc họa nội tâm, những đoạn triết lý, bình luận…). Cốt truyện kịch được dẫn dắt theo quy
luật nhân quả, các mối liên hệ phải thật chặt chẽ, có những chỗ ngoặt, những đoạn đột biến,
những bước nhảy vọt được cấu tạo bằng những sự việc bất ngờ gây hứng thú, buộc người
xem phải theo dõi liên tục. Ngược lại, người đọc TTLS có thể lướt qua những đoạn mà mình
khơng thích.



<i>Nhân vật trong kịch là nhân vật hành động. Nhân vật kịch có suy nghĩ cũng phải</i>
thể hiện ra bằng hành động. Nhân vật thường xuyên hoạt động, thực hiện hành động này
tới hành động khác dẫn đến sự chồng chất dồn nén tạo thành xung đột kịch: Từ Lộ, Ỷ Lan
<i>(Giàn thiêu), Trần Thủ Độ (Tám triều vua Lý, Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng), Hồ</i>
<i>Quý Ly (Hồ Quý Ly), Cả Hinh, Lụa (Thế kỉ bị mất), Trần Khắc Chung (Huyền Trân),</i>
<i>Bạch Dung (Đàn đáy), Nguyễn Hoàng (Minh sư),… Nhân vật Từ Lộ trong Giàn thiêu</i>
(Võ Thị Hảo), ngay từ đầu xuất hiện là một người yêu say đắm Nhuệ Anh và là chàng thư
sinh, nho nhã. Cái chết oan khuất của cha đã làm thay đổi suy nghĩ và hành động của Từ.
Từ quyết tâm lên đường tìm cách trả thù. Hành động từ bỏ tình u Nhuệ Anh, vượt qua
bao khó khăn đến Thiên Trúc học phép thuật, quay về giết Đại Điên, đặc biệt khát vọng
tình u khơng thực hiện được trong hiện thực ln cháy bỏng trong lịng Từ, để đến khi
trở thành thiền sư Từ Đạo Hạnh, tu hành đắc đạo nhưng Từ vẫn luôn ấp ủ thực hiện
những khát vọng nhằm hưởng thụ hết những gì đã bỏ lỡ. Càng ngày Từ càng dấn sâu vào
khát vọng bản năng, những tham vọng quyền lực. Càng dấn thân càng thất vọng, càng
khát khao càng không được thỏa mãn. Hóa hổ là hậu quả tất yếu của lịng tham quá lớn
<i>trong Từ. Tóm lại, sự xâm nhập của kịch trong TTLS là sự tương tác giữa loại và thể theo</i>
hình thức tiếp sức, tổng hợp thể loại, là sự tương tác mang tính đồng đại, tạo nên sự dung
hợp thể loại. Đây là mối tương tác trong cùng hệ thống, mang tính đồng đại tạo nên q
trình chuyển thể thể loại một cách dễ dàng. Từ đó, TTLS và kịch có thể chuyển hóa qua
lại, tạo nên những tác phẩm kịch lịch sử hoặc kịch bản sân khấu, kịch bản phim, điển hình
<i>là trường hợp Hội thề (Nguyễn Quang Thân), Oan khuất, Bức huyết thư (Bùi Anh Tấn)…</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

Đây là khuynh hướng xuất hiện không nhiều nhưng đã mở ra chiều kích mới trong việc
tiếp cận hiện thực lịch sử theo cái nhìn hiện đại, luận giải và đối thoại với lịch sử. Nhìn
chung, sự tương tác với nhiều thể loại và yếu tố ngoài hệ thống thực sự là những thể
nghiệm độc đáo của tiểu thuyết lịch sử. Nhìn vào tiến trình vận động và phát triển của thể
loại, có thể nhận thấy, chính sự tương tác với truyện ngắn, thơ, kịch, các yếu tố huyền
thoại, tơn giáo, tín ngưỡng… theo chiều đổi ngơi, tiếp sức, tổng hợp thể loại tạo nên sự đa
dạng về xu hướng và dạng thức tiểu thuyết lịch sử, thậm chí sinh thành nhiều thể loại
mới: tiểu thuyết lịch sử văn hóa – phong tục, tiểu thuyết lịch sử huyền thoại, truyện ngắn


lịch sử, kịch lịch sử... Bên cạnh đó, tương tác theo chiều tổng hợp thể loại tạo điều kiện
cho TTLS giai đoạn này phát huy tối đa trường phản ánh hiện thực và con người trong
thời đại mới. Sự thay đổi tư duy thể loại đặt con người trong sự quan sát từ góc nhìn cá
nhân, kéo con người sử thi trở về đời thường với hành trình đi bản thể, tìm lại chính mình
hoặc thậm chí nhìn vào sâu thẳm trái tim mình để tự thú, sám hối, đối thoại với chính
<i>lương tri của mình. Ví dụ, Từ Lộ trong Giàn thiêu trải qua bao kiếp người vẫn loay hoay</i>
kiếm tìm bản thể, kiếm tìm một điều gì đó mơ hồ tựa như tình u, tựa như cuộc sống
đích thực của một con người. Khả năng tổng hợp, tiếp sức, đổi ngơi giữa các thể loại cịn
tạo nên sự đổi mới mạnh mẽ phương thức tự sự của thể loại TTLS. Trong đó, TTLS được
đổi mới theo hướng đa dạng hóa hình tượng người kể chuyện, gia tăng vai trị, chức năng
của người kể chuyện, đặc biệt, có sự chuyển hóa linh hoạt giữa các dạng thức người kể
chuyện, đơi khi người kể chuyện mất đi vai trị mà nhường vai trần thuật cho nhân vật
<i>trong tác phẩm (Hồ Nguyên Trừng trong Hồ Quý Ly, Ba Váy trong Mẫu Thượng Ngàn,</i>
<i>Cả Hinh trong Thế kỉ bị mất …); hay những nỗ lực làm mới thể loại trên cơ sở gia tăng</i>
điểm nhìn trần thuật, đổi mới diễn ngơn lịch sử, giọng điệu…tạo nên diện mạo hoàn toàn
mới mẻ cho TTLS giai đoạn mười năm đầu thế kỉ XXI.


<b>Tiểu kết</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Ở đây, tác giả dựa vào những câu chuyện trong quá khứ
cộng với hư cấu để tạo nên một tác phẩm gây hứng thú với người đọc. Mức độ hư cấu ở
mỗi tiểu thuyết là khác nhau tùy vào dụng ý nghệ thuật của tác giả. Trải qua gần một thế
kỉ, TTLS đã vận động mạnh mẽ từ quan niệm truyền thống “trung thành” với lịch sử đến
quan niệm hiện đại “luận giải, đối thoại, nhận thức lại” lịch sử’; từ đơn giản về nội dung
và nghệ thuật thể hiện đến đa dạng hóa, phong cách hóa nghệ thuật tự sự và đổi mới
phương thức xây dựng hình tượng nghệ thuật, từ đó, tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này gặt
hái được nhiều thành tựu đáng trân trọng. Sự đổi mới tư duy và quan niệm về thể loại thúc
đẩy sự phát triển và đổi mới của các xu hướng và dạng thức thể loại. TTLS giai đoạn này
thực sự đã tạo một bước đột phá khi có sự mở rộng biên độ kết cấu: từ kết cấu truyền
thống chuyển dần sang kết cấu hiện đại/ hậu hiện đại, từ cảm thức lịch sử đơn chiều


chuyển dần sang cảm thức lịch sử đa chiều, từ đó, hiện thực lịch sử được khám phá nhiều
chiều, đa dạng, phức tạp, lý giải được các vấn đề thế sự, nhân sinh. Bên cạnh đó, TTLS
đặt trong xu hướng tương tác thể loại với các thể loại khác theo hình thức tiếp sức, tổng
hợp thể loại đã làm cho TTLS giai đoạn này thực sự mở rộng tối đa biên độ sáng tạo, tạo
nên nhiều lớp diễn ngôn lịch sử mới.


<b>Chương 3 </b>


<b>ĐẶC TRƯNG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỈ XXI</b>
<b>– NHÌN TỪ THẾ GIỚI NHÂN VẬT</b>


<b>3.1. Các kiểu nhân vật</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

phân biệt với tính cách là một đơn vị, trong khi đó, theo G.N.Popelop thì các nhân vật
trong một tác phẩm nghệ thuật thực sự tạo thành một hệ thống hồn chỉnh. Chúng hình
như đều liên quan nhau khơng chỉ móc nối nhau bằng tiến trình sự kiện được miêu tả
(không phải bao giờ cũng thế) mà suy cho cùng còn bằng tư duy nghệ thuật của nhà văn.
Hệ thống nhân vật bộc lộ nội dung của tác phẩm, nhưng tự nó lại là một trong các phương
diện của kết cấu tác phẩm. P. Hamon dựa trên phân tích văn bản cho rằng nhân vật được
phân chia thành ba phạm trù: Phạm trù nhân vật – qui chiếu, phạm trù nhân vật – chỉ xuất,
<i>phạm trù nhân vật trùng lặp. Theo E.M.Foster trong Diện mạo tiểu thuyết (1927) thì nhân</i>
<i>vật được chia theo hai xu hướng: nhân vật dẹt – khơng có chiều sâu và nhân vật trịn – cá</i>
tính phức tạp. Theo Phương Lựu, nhân vật văn học được phân loại dựa trên các góc độ:
Xét trên phương diện tư tưởng, căn cứ vào phẩm chất nhân vật có thể chia nhân vật thành
ba loại: nhân vật chính diện và nhân vật phản diện và nhân vật trung gian. Dựa vào kết
cấu, ý thức hệ và cấu trúc của tác phẩm, ta có ba loại nhân vật: nhân vật chính, nhân vật
trung tâm và nhân vật phụ. Xét từ góc độ thể loại ta có nhân vật tự sự, nhân vật kịch, nhân
vật trữ tình. Trong đó, nhân vật tự sự là nhân vật được miêu tả theo phương thức tự sự và
xuất hiện trong các tác phẩm tự sự, đặc biệt là tiểu thuyết. Nhân vật tự sự được miêu tả đầy
đặn, phong phú và đa dạng nhất. Xét từ góc độ chất lượng nghệ thuật chúng ta có nhân vật


tính cách, nhân vật điển hình. Xét về cấu trúc, nhân vật được chia thành nhiều loại: nhân vật
chức năng, nhân vật “loại hình”, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng,… Những sự phân
biệt loại hình như trên mang tính chất tương đối, loại này bao hàm yếu tố của loại kia,
nhưng xét trong từng thể loại chúng ta tìm thấy nét ưu trội trong từng cấu trúc của chúng để
xem xét loại hình nhân vật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

<i>Tiến trong luận án Con người trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới đã phân chia</i>
nhân vật dựa trên phương diện bản chất xã hội và loại hình văn học (bình diện xã hội,
mục đích thể hiện nhân vật): con người dưới góc nhìn bản chất xã hội bao gồm người
lính, người nơng dân, người tri thức; con người dưới góc nhìn loại hình văn học bao gồm
con người lịch sử - văn hóa, con người “huyền thoại”, con người “dị biệt”. Nhìn chung, sự
mở rộng trường nhìn của các nhà văn và sự đa dạng của các khuynh hướng nghệ thuật nên
việc thể hiện thế giới nhân vật trong tiểu thuyết hết sức đa dạng và phong phú. Do đó,
việc khu biệt một số loại hình nhân vật như trên dường như các tác giả đã làm nghèo đi sự
phong phú của nhân vật trong loại hình tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới.


Đối với thể loại TTLS, có nhiều quan niệm khác nhau trong việc phân loại nhân
vật. Chẳng hạn, Phạm Xn Thạch phân loại nhân vật nhìn từ góc độ ngữ nghĩa, xuất hiện
đồng thời trong các TTLS cả ba dạng nhân vật: nhân vật – chủ thể của tiến trình lịch sử,
nhân vật – nạn nhân của lịch sử và nhân vật – kẻ quan sát lịch sử. Nguyễn Thị Tuyết
Minh dựa trên cấp độ loại hình nhân vật để phân chia nhân vật trong TTLS Việt Nam từ
1945 đến 2008 thành các kiểu: nhân vật mang khát vọng lịch sử, nhân vật số phận trong
dòng lịch sử, nhân vật biểu tượng, nhân vật lưỡng diện, đa diện.


Trong <i>Về lý thuyết tự sự của N.Frye, tác giả Phan Thu Hiền dựa vào lý thuyết về</i>


<i>chức năng hành động của nhân vật của N.Frye (Giải phẫu phê bình, 1957) để phân loại</i>
nhân vật:


<i>1. Nếu năng lực hành động ấy siêu tuyệt hơn về loại đối với cả con người</i>


lẫn mơi trường của con người, ta có nhân vật là thần linh, và câu chuyện về
<i>nhân vật đó là một thần thoại.</i>


<i>2. Nếu năng lực hành động ấy siêu tuyệt hơn về mức độ đối với cả con</i>
<i>người lẫn mơi trường của con người, ta có nhân vật của romance, với hành</i>
động phi thường, kỳ diệu nhưng được nhận diện như con
<i>người. Romance có thể bao gồm huyền thoại, truyện dân gian, những thể</i>
loại văn chương bắt nguồn hoặc mang đặc tính cơ bản của chúng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

4. Nếu năng lực hành động ấy không siêu tuyệt đối cả với mơi trường lẫn
<i>người đồng loại, ta có nhân vật của thức bắt chước thấp – thức này bao gồm</i>
<i>phần lớn hài kịch và tự sự hiện thực chủ nghĩa.</i>


5. Nếu năng lực hành động đó kém hơn so với chúng ta, chúng ta có cảm
<i>giác khinh thị và nhân vật thuộc mô thức châm biếm, mỉa mai.[110, 60]</i>
Từ lý thuyết này, soi chiếu vào trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thập niên đầu
thế kỉ XXI, chúng ta có thể nhận dạng một số kiểu nhân vật tương ứng với từng thức nhân
vật theo quan niệm của N.Frye: ứng chiếu với mô thức thứ 3 là kiểu nhân vật sử thi, nhân
vật anh hùng với những khát vọng lịch sử lớn lao; thức thứ 2 tương ứng với kiểu nhân vật
huyền thoại, kiểu nhân vật với hành động phi thường, kỳ diệu nhưng được nhận diện như
con người; thứ thứ 4 tương ứng với kiểu nhân vật đời tư – thế sự, khi nhân vật không siêu
tuyệt đối với môi trường lẫn người đồng loại, nhân vật là một trong chúng ta. Người đọc
tiếp nhận nhân vật bằng kinh nghiệm của mình với cảm giác về tính người bình thường
của nó và địi hỏi tác giả về một nguyên tắc thể hiện.Nhìn chung, sự phân chia các loại
hình nhân vật chỉ mang tính chất tương đối bởi trong thực tế sáng tác chúng có sự trùng
khít lẫn nhau. Các loại nhân vật trên không xuất hiện đồng thời với lịch sử văn học nhưng
chúng có thể đồng hiện song song trong một nền văn học, đôi khi trong cùng một tác
phẩm. Bên cạnh đó, tiểu thuyết là một thể loại đang trong tiến trình vận động và biến đổi
khơng ngừng, điều đó sẽ kéo theo sự thay đổi của loại hình nhân vật.



<i><b>3.1.1. Nhân vật sử thi hóa </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

thiêng liêng của dân tộc, sẵn sàng hy sinh những gì thuộc về cá nhân để hướng về cái
chung. Họ là những người anh hùng gắn liền với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, đấu
tranh chống giặc ngoại xâm. Ngồi tầm vóc vũ trụ, nhân vật anh hùng sử thi còn sáng
ngời vẻ đẹp của đức hạnh, trí tuệ, tài năng và lịng dũng cảm. Tuy nhiên, do nhu cầu đổi
mới phản ánh hiện thực trong văn học, các nhà văn đã khơng cịn nhìn con người anh
hùng như những người khổng lồ nữa mà thay vào đó là cái nhìn đa chiều, đa cảm xúc:
vừa tự hào yêu mến vừa đầy giả định, suy xét. Con người sử thi/anh hùng trở thành đối
tượng để suy ngẫm, chiêm nghiệm, giả định, phán xét đồng thời là đối tượng để bộc lộ cái
tôi đầy riêng biệt của nhà văn. Trong tác phẩm của những nhà văn như Vũ Ngọc Đĩnh,
Hồng Lại Giang, Hồng Quốc Hải, Lê Đình Danh, Hàn Thế Dũng, Trần Đại Sỹ, Ngô
Văn Phú, Nguyễn Khắc Phục hoặc một số tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn
Quang Thân, Thái Bá Lợi, Bùi Anh Tấn… cảm hứng sử thi khơng cịn giữ vai trị chủ đạo
nhưng vẫn khơng thể thiếu trong việc xây dựng hình tượng nhân vật anh hùng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

ngọn lửa ngẫu nhiên bùng phát mà được thắp lên từ những suy tư chiêm nghiệm sáng
<i>suốt, sâu sắc về con người và vận mệnh của đất nước, nhân dân: Hồ Quý Ly (Hồ Quý Ly –</i>
<i>Nguyễn Xuân Khánh), Nguyễn Huệ (Tây Sơn bi hùng truyện – Lê Đình Danh), Lê Lợi (Lê</i>
<i>Lợi – Hàn Thế Dũng, Hội thề – Nguyễn Quang Thân, Đất trời – Nam Dao), Bà Triệu (Bà</i>
<i>Triệu – Hàn Thế Dũng), Đinh Bộ Lĩnh (Đinh Bộ Lĩnh – Hàn Thế Dũng, Mười hai sứ quân –</i>
<i>Vũ Ngọc Đĩnh), Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt (Tám triều vua Lý – Hoàng Quốc Hải), Trần</i>
<i>Thủ Độ (Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng – Bùi Anh Tấn),… Người anh hùng Lê Lợi</i>
<i>(Lê Lợi – Hàn Thế Dũng, Hào kiệt Lam Sơn – Vũ Ngọc Đĩnh) là con người đại diện cho</i>
khát vọng đánh đuổi giặc xâm lăng của dân tộc Việt Nam thế kỉ XV. Xuyên suốt tác phẩm,
Lê Lợi hiện lên trong vai trò vị chủ tướng hoạch định đường lối, đồng thời trực tiếp tổ chức
thực hiện cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Bằng tài năng chính trị và qn sự,
ơng đã cùng nhân dân bảo vệ vững chắc bờ cõi đất nước. Triệu Thị Trinh kiên trinh, bất
<i>khuất trong (Bà Triệu – Hàn Thế Dũng) với câu nói “Tơi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp</i>
<i>luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển khơi, đánh đuổi giặc Ngô giành lại giang sơn, cởi ách nô</i>


<i>lệ cho muôn dân chứ tôi không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người”[tr.331] đã thể hiện</i>
một tính cách anh hùng hào kiệt, là kết tinh cho tinh thần yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc
<i>muôn đời của dân tộc Việt. Người anh hùng Lý Thường Kiệt (Tám triều vua Lý – Hoàng</i>
Quốc Hải), tựu trung cho sức mạnh và tinh thần chống giặc Tống xâm lược của quân dân nhà
<i>Lý. Nhân vật Đinh Bộ Lĩnh (Đinh Bộ Lĩnh – Hàn Thế Dũng) là người anh hùng mang trong</i>
mình khát vọng độc lập. Đây là nhân vật lịch sử kiệt xuất của nước ta thế kỉ X, với khát vọng
được cống hiến tài trí, dẹp bỏ mọi bất cơng ngang trái, giải phóng cho mn dân, ơng đã
đứng lên dẹp loạn 12 sứ quân, làm cho đất nước thái bình, người dân được đồn tụ, tự do.
Xây dựng những con người mang khát vọng giải phóng lịch sử là cách để nhà văn khám phá
tầm vóc và ước vọng của toàn dân tộc một cách toàn diện và sâu sắc. Đó cũng là cách khám
phá những hằng số lịch sử trong cái nhìn triết học và văn hóa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

ý thức về địa thế kinh đô trong thế vững bền ngàn năm, ông đã chọn vùng đất “rồng cuộn hổ
ngồi” xây dựng kinh đô Thăng Long phồn thịnh, mở ra vận hội mới cho triều đại nhà Lý và
<i>toàn dân tộc. Trần Thủ Độ (Tám triều vua Lý, Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng – Bùi Anh</i>
Tấn) đã sớm nhận ra vai trò lịch sử của nhà Lý đã hết, đồng thời nhận thấy vận hội nhà Trần
đã đến, dịng họ dũng mãnh của ơng có thể đảm đương sứ mệnh gánh vác non sơng. Vì vận
mệnh của đất nước, Trần Thủ Độ đã kiên quyết loại bỏ những đấng quân vương ngu tối đang
trị vì thiên hạ. Với bản lĩnh khác thường, ông đã “thà chịu tiếng bất trung cịn hơn mang tiếng
ngu trung”, ơng đã sắp đặt việc Lý Chiêu Hồng nhường ngơi cho Trần Cảnh, làm một cuộc
đổi thay triều đại mà không hề xảy ra đổ máu. Đó là bản lĩnh của một nhà chính trị đầy táo
<i>bạo, sáng suốt và khơn khéo. Hồ Quý Ly (Hồ Quý Ly – Nguyễn Xuân Khánh) nhận thức</i>
được vận mệnh nhà Trần đã hết. Khát vọng nắm giữ quyền lực để cải cách, chấn hưng lại đất
nước đã thơi thúc Q Ly “làm biến pháp”, “sốn ngôi đoạt vị”, chủ trương bằng mọi cách để
làm cho đất nước “thay máu” nhanh chóng và có khả năng tự lập, tự cường. Tham vọng thay
đổi cục diện của đất nước, giữ yên giang sơn và lòng dân của Hồ Q Ly, xét một cách tích
cực, đó là cuộc cách tân dân chủ vì lợi ích bình đẳng của trăm họ. Khát vọng của Hồ Quý Ly
là khát vọng của một nhà chính trị có tinh thần trách nhiệm, dám tranh biện với cái cũ, cái trì
trệ, và tranh biện với chính mình để củng cố niềm tin vào con đường mình đang đi. Nguyễn
<i>Hồng (Minh sư – Thái Bá Lợi) nhận thức được sự nguy hại nên đã dùng mưu kế thoát khỏi</i>


nanh vuốt của Trịnh Kiểm. Đi về vùng đất phương Nam trù phú nhưng đầy hiểm trở là cách
để Nguyễn Hoàng gây dựng cơ đồ riêng cõi cho mình. Nguyễn Hồng từng bước chiêu mộ
anh hùng hào kiệt như Nguyễn Thiệu, Đỗ Chiêu, Phạm Dữ, Tống Phước Trị, Mạc Cảnh
Huống, Chế Mơ,… phị trợ cho mình, từng bước dựa trên “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” để
tiến hành sự nghiệp mở rộng địa bàn, khai phá những vùng đất mới, gây dựng giang sơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71>

tưởng cho tác phẩm. Nhân vật mang khát vọng lịch sử cịn thể hiện những tìm tịi sáng tạo
của nhà văn trong quá trình “giải mã” căn nguyên của lịch sử, góp phần lý giải tính tất yếu để
nhận thức sâu sắc hơn quá trình vận động của lịch sử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72></div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

<i>Nguyễn Hoàng trong Minh sư là người ln thẳng thắn dám nhìn thẳng vào sự thật</i>
để tìm ra cho mình mục đích sống tốt hơn. Một con người đứng đầu trăm họ nhưng không
màng đến việc tụng ca, tồn tâm tồn ý cho cơng việc, tận hiến thân mình cho đất nước đến
hơi thở cuối cùng, biết trân trọng hiền tài, yêu thương thuộc hạ như người thân máu thịt. Tài
năng và đức độ của Chúa đã soi sáng cho cả vùng Thuận Hóa nghèo nàn dần thay da đổi
thịt. Khơng những thế, Nguyễn Hồng còn là người sống giản dị, gần gũi, chan hòa, ứng xử
tinh tế, khơn khéo nhưng vẫn tốt lên vẻ uy quyền khiến mọi người nể trọng và tuân phục.
Vì thế, Nguyễn Hoàng xứng đáng được mệnh danh là vị chúa Tiên, một anh hùng mở cõi,
<i>làm rạng danh cho dáng hình đất nước khi xưa, hơm nay và mai sau. Minh sư còn là thế</i>
giới của những anh hùng khai quốc cơng thần phị giúp Chúa Nguyễn gây dựng giang sơn
như Nguyễn Ư Dĩ – chỗ dựa vững chắc về tinh thần, Đỗ Chiêu – cánh tay phải đắc lực,
Phạm Dữ – cánh tay trái đáng tin cậy, Nguyễn Thiệu, Chế Mơ – tinh thần hịa hợp dân tộc
Việt - Chăm, …


</div>
<span class='text_page_counter'>(74)</span><div class='page_container' data-page=74>

1986, đặc biệt, thập niên đầu thế kỉ XXI, tinh thần luận giải, đối thoại, nhận thức lại lịch sử
đã chi phối quan niệm nghệ thuật về con người trong thời đại mới. Theo đó, quan niệm về
người anh hùng có sự đổi mới mạnh mẽ: cảm hứng ngợi ca nhường chỗ cho cảm hứng thế
sự - đời tư. TTLS đi vào khai thác kiểu con người đời tư, con người ở góc độ cá nhân, xen
lẫn ánh sáng và bóng tối, cao cả và thấp hèn, vinh quang và đắng cay, anh hùng và gian
<i>hùng: Hồ Quý Ly (Hồ Quý Ly – Nguyễn Xuân Khánh), Lý Thường Kiệt (Tám triều vua Lý</i>


<i>– Hoàng Quốc Hải, Bí mật hậu cung – Bùi Anh Tấn), Trần Thủ Độ (Đàm đạo về Điều Ngự</i>
<i>Giác Hoàng – Bùi Anh Tấn), Lê Lợi (Đất trời – Nam Dao, Hội thề – Nguyễn Quang</i>
<i>Thân), Gia Long (Nguyễn Du – Nguyễn Thế Quang), Nguyễn Hoàng (Minh sư – Thái Bá</i>
Lợi),… Hình ảnh Trần Thủ Độ là người có cơng to lớn trong việc gây dựng cơ đồ cho nhà
Trần nhưng trong cái nhìn của thời đại và hậu thế, đó là một con người gian hùng, khắc bạc.
Là kẻ gian hùng, độc ác nhưng ông luôn sống có trách nhiệm với bản thân, dịng họ và dân
tộc. Trong Thủ Độ, trái tim ấm nóng vẫn ln cháy sáng. Ơng u thương và trọn tình với
Trần Thị Dung, giàu lòng thương và độ lượng với Lý Chiêu Hoàng, tự vấn lương tâm khi
nghĩ về sự ép buộc Trần Cảnh và Lý Chiêu Hoàng phải sống ly tan. Như thế, Trần Thủ Độ
từ lịch sử đi vào tiểu thuyết với những mảng sáng và tối đã dấy lên trong lòng người đọc sự
nể trọng, ưu ái đối với một nhân vật lịch sử còn nhiều tranh cãi. Với cái nhìn “giải thiêng”
<i>lịch sử, nhân vật Lê Lợi (Hội thề - Nguyễn Quang Thân) có những nét khác biệt so với</i>
nguyên mẫu lịch sử. Đó là con người đầy vẻ kiêu hùng, quyết liệt, khôn khéo nhưng cũng là
con người trần tục như một kẻ nông phu. Tài năng giúp ơng giành được giang sơn nhưng sự
ích kỷ, nhỏ nhen tầm thường đã đẩy ông rơi vào bi kịch gia tộc. Nhìn chung, nghệ thuật
khắc họa hai phần sáng và tối trong tính cách, phẩm chất của người anh hùng thời loạn cho
thấy TTLS đã chạm tay vào thực tế cuộc sống đương đại khi kéo lịch sử gần với đời sống
hiện thực hơn.


<i><b>3.1.2. Nhân vật huyền thoại hóa </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(75)</span><div class='page_container' data-page=75>

Châu, Nguyễn Huy Thiệp. Tiếp theo đó là sự xuất hiện hàng loạt các nhà tiểu thuyết viết
<i>theo khuynh hướng này như Bảo Ninh (Nỗi buồn chiến tranh), Dương Hướng (Bến khơng</i>
<i>chồng), Phạm Thị Hồi (Thiên sứ), Châu Diên (Người sơng mê), Nguyễn Bình Phương</i>
<i>(Thoạt kỳ thủy, Ngồi), Nguyễn Việt Hà (Cơ hội của chúa), Tạ Duy Anh (Đi tìm nhân vật,</i>
<i>Thiên thần sám hối), Hồ Anh Thái (Cõi người rung chuông tận thế, Đức Phật, nàng</i>
<i>Savitri và tôi),… đặc biệt, trong địa hạt của TTLS, khuynh hướng này in đậm trong các</i>
<i>sáng tác của Nguyễn Xuân Khánh (Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa),</i>
<i>Nguyễn Khắc Phục (Thăng Long ký), Võ Thị Hảo (Giàn thiêu),…Từ cái nhìn đa chiều về</i>
hiện thực đời sống, thúc đẩy các nhà TTLS đương đại ln tìm cách đổi mới bút pháp


nghệ thuật nhằm thỏa mãn khát vọng chiếm lĩnh những chiều bí ẩn, lắng sâu, chìm khuất
trong tâm hồn con người và chiêm nghiệm triết lý về cuộc đời. Trong TTLS thập niên đầu
thế kỉ XXI, các nhà văn đã sử dụng tính chất nghịch dị, kỳ ảo để xây dựng nên hai kiểu
<i>nhân vật mang đậm yếu tố huyền thoại, đó là: nhân vật dị thường và nhân vật huyễn ảo.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(76)</span><div class='page_container' data-page=76>

<i>đỏ” [tr.74]; “đôi bàn tay gấu, to, thơ rám, ngón tay sần sùi với những chiếc lơng thơ cứng</i>
<i>như lơng lợn lịi cùng cặp môi dầy thưỡn ra ướt đẫm nhục dục”. Ngạn La mang vẻ đẹp</i>
thuần khiết, là “viên ngọc lạc loài lẫn vào trong đá sỏi”[tr.39]. Vẻ đẹp của nàng mê hồn,
mê hoặc cả Diêm Vương, lại được thượng đế ban tặng chiếc rốn màu chu sa, “là niềm
khối lạc vơ tận và đem lại may mắn cho ngôi báu”. Mặc dù là biểu tượng của dục vọng
nhưng kì lạ thay, đến chết Ngạn La vẫn là một trinh nữ. Nhân vật Ngạn La phải chăng là biểu
tượng cho cái dục vọng mà Thần Tông không bao giờ đạt được trong suốt hành trình theo
đuổi qua hai kiếp của mình.


<i>Với Mẫu Thượng Ngàn, Nguyễn Xuân Khánh sử dụng bút pháp huyền thoại sáng</i>
tạo những nhân vật kì ảo: bà Tổ Cơ, cơ Mùi, ông hộ Hiếu. Câu chuyện huyền hoặc về
cuộc đời bà Tổ Cô sống đến 90 tuổi, qua hai lần đò với bao gian truân của kiếp hồng
nhan, nhưng trong bà vẫn toát lên sức hút mạnh mẽ, mang lại niềm tin cho mọi người. Bà
là Mẫu với phép nhiệm mầu chữa bệnh cho ông trưởng Cam và tái sinh ông một lần nữa.
Câu chuyện về việc bà nuôi ngựa ngài ở đền Mẫu để trừng trị những kẻ báng bổ thần
thánh. Bà cịn có khả năng thơng trước mọi sự, khi tiên đốn về cuộc đời cơ Mùi. Cơ Mùi
trải qua ba đời chồng, trở về hầu cận bên Mẫu, từ đó, cơ có khả năng chữa bệnh cho moi
người bằng một thứ lá lẩu cô mang từ trong rừng ra. Cách cô chữa bệnh cũng rất kỳ lạ
như nắm lấy bàn tay người bệnh và truyền niềm tin vào từ Mẫu. Ơng Hộ Hiếu từ một
người bình thường trở thành một bậc phù thủy cao tay, sau một lần bị sét đánh khơng
chết. Ơng có khả năng trừ tà chữa bệnh điên và các bệnh hiểm nghèo khác. Bùa của
ơng như linh vật chun chở chữ Thánh, “đó là chữ Tâm, chữ Đạo, chữ Độ của nhà
Phật” [tr.228].


</div>
<span class='text_page_counter'>(77)</span><div class='page_container' data-page=77>

chỉ niệm câu thần chú nhà Phật. Tiếng “A di đà Phật” như một câu thần chú, đem lại sức


mạnh kì diệu để chống lại sự đau đớn thể xác, để không làm trái với những niềm tin của
cả đời mình. Chính tâm từ, niềm tin vào sức mạnh tuyệt đối của chân lý đã giúp sư cụ Vô
Úy vượt qua được nghiệp chướng của cuộc đời mình ở cái tuổi thất thập cổ lai hy, đó
chính là sức mạnh của tâm linh xuất phát từ sức mạnh tinh thần của con người. Huyền
thoại từ câu chuyện nàng Remediot của G.M.Marquez được huyền tích qua hình tượng
nhân vật Rêu của nhà văn. Rêu mang vẻ đẹp mong manh, đơn hậu, đến mức nhìn cơ khiến
người ta có cảm giác đó là một thiên nữ. “Cơ gái nhà trời có cánh. Những cơ gái biết bay
trong khơng trung, rắc hương, rắc hoa của Đức Phật xuống trần thế. Cô là một thiên nữ
tán hoa”[tr.499]. Rêu là niềm vui, ánh sáng của hạnh phúc. Bất kể nơi nào cô xuất hiện
đều mang lại khơng khí sơi động vui tươi, là một điều diệu kỳ. Rêu có tiếng hát ma mị,
mê hoặc “văng vẳng mơ hồ, lúc đứt, lúc nối, véo von… trong vắt. Tiếng hát như ma trơi
chập chờn trong gió” [tr.509]. Cũng như Remediot, Rêu chọn cái chết để lưu giữ mãi vẻ
đẹp của tuổi trẻ, là sự giải thốt cho chính sự trắng trong của cuộc đời “cô vẫn như lúc
sống, vẫn đẹp như hoa”. Nỗi cô đơn và sự hoài nghi của Rêu như là điểm khúc xạ của
cuộc sống con người đương đại: loay hoay, kiếm tìm, thất vọng và đổ vỡ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(78)</span><div class='page_container' data-page=78>

<i>thành hổ – dã nhân: “đám lông vằn vện trên người càng mọc dài ra, dài rủ cả xuống mặt</i>
<i>sàn đá xanh. Bây giờ, trông nhà vua là một con hổ. Mà lại mang nhác một con dã nhân”</i>
[tr.460]. Chính sự biến dạng đó đã khiến nhân vật rơi vào bi kịch – bi kịch tham vọng quá
lớn. Như vậy, số phận của nhân vật Từ Lộ nhuốm đầy màu sắc huyền ảo và có thể coi là
một bi kịch: bi kịch do hồn cảnh và bi kịch do chính bản thân Từ tạo ra.


Kiểu nhân vật huyễn ảo có khi hóa thân trong con người bình thường, có lúc được
mang tên gọi cụ thể rõ ràng, nhưng nhiều khi chỉ là những hồi âm, vang vọng, những cái
bóng hay những tiếng nói mơ hồ khơng xác định, thậm chí nó ẩn hiện trong vô vàn cỏ
cây, vật giới quanh ta. Tất cả tạo nên một khơng khí huyễn hoặc vừa đậm đặc, vừa bàng
bạc bao phủ lên câu chuyện. Cá Bơn xuất hiện không nhiều nhưng để lại ấn tượng sâu sắc
trong lịng người đọc. Cá Bơn có xuất thân u buồn. Tuổi thơ gắn liền với thác Oán, sông
Gâm. Chàng lớn lên nhờ những bát nước cốt chắt ra từ những con cá luộc. Chàng không
<i>tên, không tuổi. Cá Bơn mang hình hài dị dạng: “dài như con cá Bơn khổng lồ”, khuôn</i>


<i>mặt với “nước da trắng bạc”, “gương mặt khơng một nếp nhăn”, “bàn tay lạnh như thân</i>
<i>mình một con cá” nhưng tâm hồn rất đỗi sáng trong: vẫn tơn thờ mẹ cá, vẫn một tình u</i>
tha thiết với Nhuệ Anh. Cá Bơn giống như một thiên thần lạc nơi trần thế, là kết tinh
những gì đẹp đẽ và thuần khiết nhất.


Với thủ pháp lạ hóa, nhà văn đã mang đến cho tác phẩm khơng khí ánh sáng mới –
ánh sáng của tình yêu thương khi xây dựng nhân vật Dã Nhân. Dã Nhân hiện lên trong tác
phẩm đậm màu sắc huyền ảo khi mang hình thù một con thú nhưng lại có trái tim của một
<i>con người. Dã Nhân hiện ra với ngoại hình kỳ lạ “đôi núm vú đen và một khuôn ngực</i>
<i>lông lá”, “đôi tay rậm rịt cũng đầy lông hung hung” thế nhưng người đọc không cảm</i>
thấy khiếp sợ ngược lại rất u mến nhân vật này. Dã Nhân đóng vai trị như một vị cứu
tinh đã làm tái sinh ý chí sống trong Từ bằng những giọt sữa linh thiêng, màu nhiệm. Mặt
khác, Dã Nhân như một người mẹ thứ hai đã ni nấng chăm sóc Từ đến khi đắc đạo và
mãi theo bước chân chàng trong suốt hai kiếp đời ln lạc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(79)</span><div class='page_container' data-page=79>

<i>đó cịn là những oan hồn quanh miếu thổ thần, dật dờ, “mặc áo trắng và xõa tóc” bên</i>
nách cắp con; những hài nhi chết yểu vì tên bay đạn lạc, thiếu sữa, đói khát, những hồn áo
nâu với hộp xương sọ phô màu xám xỉn; hồn oan khuất của Thái hậu Thượng Dương và
<i>bảy mươi sáu cung nữ trong lãnh cung… Giàn thiêu còn là nơi xuất hiện của rất nhiều</i>
quỷ sứ, lũ ngạ quỷ “được ra khỏi vạc dầu địa ngục để tái sinh trở lại thành người trong
một kiếp khác” [tr.396]. Trong tiểu thuyết Nguyễn Xn Khánh, đó là những hồn ma
thơng qua những câu chuyện kể của bà cụ Thầm về “những người cõi âm, những người đã
chết”, hay câu chuyện về cơ Thắm có số phận hẩm hiu, trẫm mình nơi sông nước. Thế
giới ma quỷ trong những câu chuyện đối thoại của bà với cõi âm. Bà là “sứ giả của hai
cõi, đã nối liền cõi dương và cõi âm”, trao đổi thông điệp của thế giới thần linh, ma quỷ
cho con người hiện tại, bà nói với Nguyệt: “ta nói cho mà biết. Hơm xưa cơ đi làm đồng
về. Ta thấy con ma nam theo cô về tới cổng chùa” [tr.155]. Hồn ma người đàn bà áo tơi
mất con ma mị, hư ảo, thoắt ẩn thoắt hiện làm Nhụ hoang mang: “Rõ ràng là một người
đàn bà với mớ tóc dài để xõa và chiếc áo trắng thùng thình, tay áo thụng che kín bàn
tay… Cái bóng trắng ấy đứng lơ lửng chân không chạm đất.” [tr.794]. TTLS Việt Nam


đương đại đã có ý thức tạo ra sự ảo hóa giữa hư và thực, giữa cõi trần và cõi âm, giữa
người và ma để khám phá hiện thực đang cịn dang dở, bóc trần những tầng vỉa sâu thẳm
trong vơ thức con người.


Tóm lại, với việc kết hợp hai yếu tố hiện thực và huyền ảo, nhà văn đương đại
muốn kéo văn học áp sát hơn với đời sống, giúp ta tiếp cận con người ở hai chiều tốt, xấu,
miêu tả sự giằng xé đầy đau đớn của con người muốn vươn tới những khát vọng chân
chính. Những tác phẩm trên cịn là bản tình ca đẹp về lịng nhân ái, khẳng định bản chất
tốt đẹp của con người, sức sống lâu bền của những giá trị chân – thiện – mĩ. Có thể nói,
việc sử dụng yếu tố huyền thoại trong việc xây dựng hệ thống nhân vật, các nhà văn đã
khơng ngừng nỗ lực tìm tịi khai phá theo một khuynh hướng sáng tác mới – khuynh
hướng hiện thực huyền ảo.


<i><b>3.1.3. Nhân vật thế tục hóa</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(80)</span><div class='page_container' data-page=80>

cho “ngôi đền lịch sử” trong mối quan hệ bất khả xâm phạm với các vấn đề thế sự - đời
tư. Tuy nhiên, khi cái nhìn của nhà văn có sự chuyển biến từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu
thuyết, từ cảm hứng lịch sử dân tộc sang cảm hứng thế sự - đời tư, con người trong tiểu
thuyết là con người thế tục, con người cá thể với những khát vọng và dục vọng, con người
như những thân phận trong xã hội. Con người cá nhân được khai thác trong sự va đập với
con người xã hội trong trăm ngàn mảnh đời khác nhau “đầy những vết dập xóa trên thân
thể trong tâm hồn”. Thế giới nội tâm của con người được khám phá ở bình diện ý thức,
tiềm thức và vơ thức, nói như Bakhtin thì con người trong tiểu thuyết khơng bao giờ trùng
khít với chính mình. Có thể thấy, với việc phát triển đề tài thế sự, đời tư, tiểu thuyết có thể đi
sâu vào những nơi sâu kín của tâm hồn con người, suy nghĩ cặn kẽ về các trạng thái nhân thế.
Con người đời thường được chú ý và thể hiện sâu sắc với những số phận bất hạnh, những
thân phận bi kịch. TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI đậm tính nhân văn hơn khi nhìn nhận con
người ở phần khuất lấp, khó nắm bắt ấy.


<i>3.1.3.1. Nhân vật bản năng</i>



TTLS giai đoạn mười năm đầu thế kỉ XXI với việc tiếp cận ngày càng sâu sắc với
những kĩ thuật tiểu thuyết hiện đại, càng trở nên đa dạng hơn trong cách xây dựng nhân
<i>vật. Các nhân vật trong Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân</i>
<i>Khánh), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Hội thề (Nguyễn Quang Thân), Nguyễn Thị Lộ (Hà</i>
<i>Văn Thùy), Bí mật hậu cung (Bùi Anh Tấn), Thế kỉ bị mất (Phạm Ngọc Cảnh Nam), …</i>
ngày càng được khám phá và thể hiện ở góc độ tâm lý. Với cái nhìn đầy nhân bản, các
nhà TTLS đương đại sử dụng yếu tố bản năng với một dụng ý rõ ràng, không che giấu
như một lời khẳng định nhu cầu tự nhiên của con người, giúp cho nhà văn thể hiện con
người chân thực hơn, người hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(81)</span><div class='page_container' data-page=81>

nhận xét của Nguyễn Trãi: “người có bản năng làm người mạnh mẽ, người cũng đòi hỏi
được yêu thương, ân ái, được chiều chuộng, được chăm sóc như ai.”, thế nhưng do mang
vận mệnh của cả dân tộc, ông ln phải kìm nén những khát khao dục vọng của mình.


Tình yêu trong TTLS giai đoạn trước đây được đưa vào trong tác phẩm như “một
tiêu chuẩn nhằm thử thách tinh thần ý chí nghị lực và đạo đức của những con người anh
<i>hùng.”[83, 125]. Chẳng hạn, tình yêu giữa Đặng Thị Huệ với Tĩnh Đô Vương trong Bà</i>
<i>Chúa Chè, tình u giữa An Tư với Trần Thơng trong An Tư, tình u giữa Trần Ngun</i>
<i>cơng chúa với Phạm Ngũ Lão trong Trần Nguyên chiến kỷ, tình yêu giữa Quỳnh Dao và</i>
<i>Bảo Kim trong Đêm hội Long Trì, giữa Bích Hà với Phùng Chính trong Lê Đại Hành,…</i>
Trong cái nhìn truyền thống, tình u và tính dục ln bị chế ngự bởi các thiết chế văn
hóa – xã hội, quan niệm hà khắc, kìm hãm bản năng sống của con người. Tuy nhiên, tình
yêu trong cái nhìn của các nhà TTLS đương đại đầy nhân bản khi gắn liền tình u và tính
dục, tình u là sự hịa quyện, kết nối giữa thể xác với tâm hồn. Bằng cách khám phá khát
vọng bản năng tính dục của con người một cách thành thực, đôi khi trần trụi, một số tác
phẩm của Võ Thị Hảo, Nguyễn Xuân Khánh, Nam Dao, Hoàng Minh Tường, Phạm Ngọc
Cảnh Nam, Hà Văn Thùy đã mang đến cái nhìn chân thực về những phần khuất lấp của
con người trong q khứ. Tình u có sức mạnh thơi thúc Nhuệ Anh từ bỏ gia đình, trốn
chạy cuộc hơn nhân với Lý Câu để tìm đến Từ Lộ. Trái tim Từ Lộ bị bao bọc bởi hằn thù


nhưng tình yêu mãnh liệt của Nhuệ Anh đã đưa Từ Lộ trải qua những khoảnh khắc tột
cùng sung sướng trong sự nhiệm màu hân hoan.


</div>
<span class='text_page_counter'>(82)</span><div class='page_container' data-page=82>

khát khao cháy bỏng giúp cả hai tìm lại chính mình, cùng mơ về khung trời hạnh phúc:
“chàng sẽ cùng Ngô Thuấn đi thật xa, đến một chân trời góc bể nào đó, khơng ai biết
chàng lẫn Ngơ Thuấn là ai, để cùng cày cấy sống cuộc sống yên bình.” Tình u là sự
mầu nhiệm có sức mạnh vơ song mà ở đó Ngơ Thuấn có thể từ bỏ tất cả để lựa chọn con
đường duy nhất được sống bên người mình yêu, chấp nhận trở thành thái giám suốt đời
sống trong hậu cung theo hầu Lý Thái Tông. Lựa chọn đó khiến trái tim chàng như xát
muối khi phải chấp nhận hứng chịu sự chế nhạo và cười chê của người đời, không cách
nào chuộc lỗi lầm với Thuần Khanh, đau đớn hơn, chàng phải lìa bỏ thân phận của một
người đàn ơng thực thụ. Viết về mối tình đồng giới giữa Ngô Thuấn và Nhật Tông, tác giả
đã kéo họ trở về đời thường nhất với những góc khuất trong tâm hồn bằng một cái nhìn
đầy nhân bản.


</div>
<span class='text_page_counter'>(83)</span><div class='page_container' data-page=83>

bà luôn tiềm thức và chỉ cần đánh thức và khơi dậy nó. Cơ Mùi trải qua ba đời chồng,
người nào cũng chết vì “chân khí suy kiệt” vì mắc chứng “thượng mã phong”. Sinh lực
tràn trề khiến người đàn ông lúc nào cũng thèm khát nhưng họ đâu biết rằng: “khi người
đàn bà thức dậy, thì tiềm lực của cô ta là vô cùng mãnh liệt, và cường độ càng lúc càng
tăng cho tới vơ biên. Ơi! Một sức mạnh, một tinh lực ngút ngàn” [tr.248].


</div>
<span class='text_page_counter'>(84)</span><div class='page_container' data-page=84>

lần nữa được đưa ra luận giải với góc nhìn cận cảnh, mang đến cho độc giả cái nhìn thấu
triệt về những biểu tượng của lịch sử. Trong khi đó, quan niệm nghệ thuật về con người
bản năng có sự vận động đột phá so với giai đoạn trước đây, khi một số nhà văn mạnh tay
khám phá phần bản năng tính trong người đàn bà Việt: ý thức giải phóng cá nhân diễn ra
càng ngày càng mãnh liệt và sâu sắc.


<i>3.1.3.2. Nhân vật bi kịch</i>


Xây dựng kiểu nhân vật bi kịch là một trong những đổi mới của TTLS đương đại


khi khai thác kiểu nhân vật đời tư, thế sự. Nhân vật không chỉ được đặt trong mối quan hệ
với quốc gia, dân tộc, dòng họ, mà còn được đặt trong cái nhìn cá nhân. Lúc này, nhân vật
được các nhà văn miêu tả từ điểm nhìn bên trong để nhận ra những giằng xé nội tâm,
những tiếng kêu của thân phận, những mất mát, đổ vỡ của kiếp người. Trong cơn bão táp
của thời đại, họ là nạn nhân của lịch sử, là con rối trong trò chơi của thời thế. Họ rơi vào
bi kịch, họ bị đặt vào tình cảnh trớ trêu, ln ngơ ngác, lạc thời. Họ có thể là nạn nhân do
sự lựa chọn của lịch sử: Trần Thị Thu Ngừ, Lý Chiêu Hoàng, Trần Cảnh, Nghệ Tơng,
Ngun Trừng, Nguyễn Trãi,…; họ cũng có thể là nạn nhân của tham vọng quyền lực:
Thượng Dương thái hậu, Lý Huệ Tông, Hồ Quý Ly,…; và người phụ nữ chính là nạn
nhân đáng thương nhất trong những cơn bão thời đại ấy: Lý Chiêu Hoàng, Huyền Trân,
Nhuệ Anh, Ngạn La, Huy Ninh, Quỳnh Hoa, Thanh Mai, Nguyễn Thị Lộ, Bạch Dung,
Mùi, Ba Váy, Lụa, …


<i>Con người – bi kịch của sự lựa chọn</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(85)</span><div class='page_container' data-page=85>

thuẫn, giằng xé, đau đớn, mặc cảm tội lỗi vì “đã làm đổ vỡ cơ nghiệp nhà Trần”. Hay đó
<i>là những đứa trẻ cịn rất nhỏ như Lý Chiêu Hồng và Trần Cảnh trong Tám triều vua Lý</i>
<i>(Hoàng Quốc Hải), Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng (Bùi Anh Tấn) bị đặt lên ngơi vua</i>
vì nước cờ chính trị của các phe cánh. Ngồi trên ngai vàng, nữ hồng vướng víu trong bộ
triều phục dài rộng quá khổ, lúng túng “hệt như một đứa trẻ không thuộc bài”. Trong khi
thiên hạ chém giết, giành giật nhau hầu mong chiếm đoạt ngai vàng thì với Chiêu Thánh,
nó chỉ là “một thứ đồ chơi xa xỉ”, “không bằng mấy cái vỏ hến” [tr.42]. Với Trần Cảnh,
ngơi báu cũng có khác gì một thứ “đồ chơi mới” hấp dẫn hơn mà thôi. Nhưng đã bị lựa
chọn, Trần Cảnh khơng cịn cách nào khác phải gánh vác trách nhiệm thật nặng nề mà
trong lòng đầy nỗi đau đớn khơn ngi về sự đổi chác tình u nhằm giữ vững vương
<i>quyền. Đó có thể là Lý Nhân Tơng (Con đường định mệnh – Hồng Quốc Hải) mang</i>
trong mình bi kịch chịu sự lựa chọn của lịch sử và bi kịch khơng thể thực hiện trọn vẹn
chí lớn chấn hưng đất nước. Bảy tuổi lên ngôi trong tâm thế của một đứa trẻ chỉ biết vui
chơi, chưa hiểu thấu được vai trò của bậc quân vương, để người khác mượn tay gây nên
<i>bao vết nhơ lịch sử. Đó là Trần Nguyên Hãn trong Oan khuất, Người con trang Sơn Đông</i>


anh dũng chiến đấu để bảo vệ giang sơn, giành ngôi báu về cho chủ tướng nhưng khi
kháng chiến thắng lợi cũng là lúc Trần Nguyên Hãn nhận về mình kết cục bi thương.


<i>Trên bước đường mở cõi, để có được thành cơng Nguyễn Hồng (Minh sư – Thái</i>
Bá Lợi) cũng phải chấp nhận những mất mát, hy sinh lớn lao cho vận mệnh quốc gia, dân
tộc. Mặc dù những cuộc chinh chiến đều giành thắng lợi nhưng mỗi cuộc chiến đi qua là
mỗi lần trái tim ông khắc sâu thêm vết thương đau đớn: Trái tim ông tan nát khi phải tự
mình dâng người thiếp yêu quý Ngọc Lâm cho Lập Bạo: “Nguyễn Hồng ơm chặt Ngọc
Lâm vào lịng mà nước mắt ơng đầm đìa trên áo nàng. Ơng đau khổ như đã hồn tồn mất
nàng. Ơng khơng muốn bng nàng ra khỏi vịng tay của mình vì ơng biết nếu nàng rời
khỏi ơng là mất nàng mãi mãi” [tr.296]; bàng hồng, thương xót trước cái chết của hai
thuộc hạ thân tín Nguyễn Thiệu và Chế Mơ; đau đớn trước sự hy sinh của hai người con
trai yêu quý. Mất mát, đau thương nhưng Đoan quận công vẫn can trường làm trụ cột
vững chắc cho giang sơn xã tắc. Có thể nói, người anh hùng mở cõi ln đặt lợi ích,
quyền lợi của quốc gia, dân tộc lên trên hết mọi nhu cầu cá nhân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(86)</span><div class='page_container' data-page=86></div>
<span class='text_page_counter'>(87)</span><div class='page_container' data-page=87>

không nguôi trong đời sống và là hạt nhân trong sáng tác của Nguyễn Du. Nhìn chung,
viết về người tri thức, các nhà TTLS đương đại đã có thái độ trân trọng và cảm thơng. Họ
xây dựng mẫu hình người trí thức với vẻ đẹp trí tuệ, giàu khát vọng sáng tạo và cống hiến
tài năng cho đất nước nhưng tâm hồn họ lại dễ bị tổn thương, bởi lẽ, con người cũng
không thể lớn hơn thân phận của chính mình.


<i>Người phụ nữ - bi kịch trong cơn bão táp của thời đại</i>


TTLS giai đoạn trước 1986 viết về người phụ nữ thường đề cập về nỗi xót xa của
họ trên bình diện cái ta chung của dân tộc: nỗi nhục mất nước, nỗi đau mất chồng vì chiến
<i>tranh (Đặng Thị trong Trần Nguyên chiến kỷ, Lan Anh trong Ai lên Phố Cát), khát vọng</i>
<i>được cống hiến cho đất nước (Chí trong Trùng Quang tâm sử, Triệu Thị Trinh trong Vua</i>
<i>Bà Triệu Ẩu, Tiết Thị Huệ trong Tiếng sấm đêm đông, Ngọc Nương trong Việt Thanh</i>
<i>chiến sử, An Tư trong An Tư…). TTLS giai đoạn này cũng đi vào khai thác đời tư của</i>


nhân vật ở góc nhìn nữ giới để nhận ra khát vọng bản năng và nhu cầu giải phóng bản thể
<i>như Đặng Thị Huệ (Bà Chúa Chè), Dương Hậu (Cái hột mận),… nhưng chưa sâu sắc và</i>
toàn diện. TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI đậm chất thế sự và mang tính nhân văn hơn khi
khắc họa những hình tượng người phụ nữ từ nhiều điểm nhìn khác nhau, đặc biệt, trong
đó tâm lý của nhân vật được khai thác tối đa để nhận ra những tiếng kêu của thân phận.
Ám ảnh người đọc sâu sắc là số phận những người phụ nữ trong cuộc sống vương giả
<i>nhưng bất hạnh như Huy Ninh, Quỳnh Hoa (Hồ Quý Ly – Nguyễn Xuân Khánh), Lý</i>
<i>Chiêu Hoàng, Ỷ Lan, Dương hoàng hậu (Tám triều vua Lý – Hoàng Quốc Hải), Huyền</i>
<i>Trân (Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng – Bùi Anh Tấn, Huyền Trân – Nguyễn Hữu</i>
<i>Nam), Ngọc Vạn (Công nữ Ngọc Vạn – Ngô Viết Trọng),… hay những thường dân thấp</i>
<i>hèn như Ngạn La (Giàn thiêu – Võ Thị Hảo), Mùi, Ba Váy (Mẫu Thượng Ngàn – Nguyễn</i>
<i>Xuân Khánh), Bạch Dung (Đàn đáy – Trần Thu Hằng), Rêu (Đội gạo lên chùa – Nguyễn</i>
<i>Xuân Khánh), Lụa (Thế kỉ bị mất – Phạm Ngọc Cảnh Nam), Ngọc Lâm, Tư Trà, Lộc</i>
<i>(Minh sư – Thái Bá Lợi), Tạ Thuần Khanh, nàng Mỵ Ê, Tuất (Tám triều vua Lý – Hoàng</i>
Quốc Hải)…


</div>
<span class='text_page_counter'>(88)</span><div class='page_container' data-page=88>

tuyệt vọng khơng gì có thể bù đắp được thì với Quỳnh Hoa và Thanh Mai là nạn nhân của
những mưu đồ chính trị.


Nhuệ Anh, Ngạn La, Lê Thị Đoan đều là những thân phận mỏng manh bị cơn
cuồng phong vùi dập. Nhuệ Anh là tiểu thư xinh đẹp, hiều dịu, thế nhưng cuộc tình với
Từ Lộ đã dẫn bước nàng vào con đường đầy bi kịch. Nàng chấp nhận trốn chạy cuộc hôn
nhân với Lý Câu để đi theo tiếng gọi tình yêu. Hận thù chất ngất trong lịng Từ Lộ đã
khơng cịn chỗ cho tình yêu của nàng. Lúc tận hưởng niềm hạnh phúc tột cùng của tình
yêu cũng là lúc nàng nhận sự quay lưng của Từ Lộ. Từ Lộ rời xa nàng để theo con đường
tu nghiệp báo thù cho phụ mẫu. Nhuệ Anh đau khổ tìm đến sơng Gâm gieo mình tự trầm.
Được Cá Bơn cứu sống nhưng linh hồn nàng đã chết cùng mối tình ngang trái. Nàng đoạn
tuyệt hồng trần, nương nhờ cửa Phật, mong tìm chốn bình yên. Trớ trêu thay, cuộc gặp gỡ
Dương Hoán, đã khiến trái tim Nhuệ Anh càng thêm đau đớn. Những giọt nước mắt của
Nhuệ Anh đã gột rửa hết lớp hổ của Lý Thần Tơng và đó như là lời cảnh tỉnh sau cùng,


<i>kết thúc duyên nghiệp của hai người. Trong Giàn thiêu, cuộc đời Ngạn La là những chuỗi</i>
bất hạnh khi bị người cha ruồng bỏ, thậm chí tìm cách giết hại. Hai lần nàng trở thành
cung nữ của vua Lý Nhân Tông và Lý Thần Tông, bị đưa lên giàn thiêu để táng xác theo
vua. Đón nhận cái chết nhưng Ngạn La vẫn mãi xinh đẹp, trong trẻo, ngây thơ và tốt bụng
giữa chốn cấm cung đen tối, bẩn thỉu. Hình ảnh người phụ nữ Lê Thị Đoan giả trai đi thi,
vạch trần tội ác của bọn vua quan phong kiến và nhận lãnh cái chết vinh quang đã mang
đến cho tác phẩm những giá trị nhân văn sâu sắc. Như vậy, viết về các nhân vật nữ, Võ
Thị Hảo thể hiện quan điểm nữ quyền sâu sắc. Tất cả mọi phụ nữ đều mang vẻ đẹp trong
sáng, có tâm hồn nhân hậu, vị tha nhưng ở họ luôn ẩn tàng sức sống mãnh liệt, luôn ý
thức sống vượt lên trên số phận.


</div>
<span class='text_page_counter'>(89)</span><div class='page_container' data-page=89>

<i>Trong Mẫu Thượng Ngàn, những nhân vật nữ vốn được nhà văn rất dụng công xây</i>
dựng nên càng sống động. Đặc biệt, khi viết về nỗi đau của các nhân vật, Nguyễn Xuân
Khánh đã giành cho họ cả niềm yêu thương, sự cảm thông và tấm lịng trân trọng, nâng
niu: Bà Tổ cơ có một số phận long đong; Ba Váy – cuộc đời éo le, ngang trái của tình u
dang dở, hạnh phúc khơng trọn vẹn; bà Mùi – tình duyên lận đận, trái ngang với ba cuộc
hôn nhân đầy bất trắc; cô bé Nhụ - tan vỡ một giấc mộng về hạnh phúc lứa đôi của tuổi
trẻ; Chị mõ Pháo – nỗi đau mất chồng con, trở nên điên dại; Cái Hoa – đẹp nhất làng
<i>nhưng suốt đời làm kiếp mõ hèn mạt, sống lay lắt cô đơn, bị đời khinh rẻ. Đội gạo lên</i>
<i>chùa khắc họa hình ảnh cơ Nguyệt bất hạnh: mồ côi cha mẹ từ nhỏ, chứng kiến cái chết</i>
oanh liệt của người chồng đầu tiên,… sau lấy anh Hạ - một quái nhân của làng. Những
thân phận như cô Khoai, cơ Rêu, cơ Ngơ, cơ Xim,… là hình bóng sống động cho cuộc đời
đau khổ của con người.


<i>Thái Bá Lợi trong Minh sư thể hiện tư tưởng nhân văn thơng qua hình tượng</i>
những người phụ nữ bị chiến tranh vùi dập, hủy hoại ước mơ và hạnh phúc. Ngọc Lâm
chấp nhận hy sinh, dâng mình cho giặc Lập Bạo đem lại sự bình yên cho quan dân Thuận
Quảng. Người phụ nữ tài đức vẹn toàn đã phải đau đớn, nhẫn nhục để làm tròn nhiệm vụ.
Cái kết cay đắng Ngọc Lâm nhận lãnh không phải là cái chết mà là sự tủi nhục trong suốt
chặng đường còn lại của cuộc đời. Nhân vật chị Tư Trà là một trong những nạn nhân của


chiến tranh chống Mĩ khốc liệt. Trải qua hai đời chồng với hai lần góa bụa, người phụ nữ
ấy phải nếm trải mọi đắng cay, vùi dập của chiến tranh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(90)</span><div class='page_container' data-page=90>

nội tâm của họ để nhìn, để phơi bày những mất mát, đổ vỡ, để lắng nghe tiếng thở dài của
mỗi số phận.


<b>3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật</b>


Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong TTLS Việt Nam giai đoạn 1900 - 1985 về cơ
bản chưa thoát khỏi cách xây dựng nhân vật truyền thống, vẫn mang tính ước lệ, tượng
trưng. Vì thế nhân vật chỉ nổi bật nét chung, thiếu cá tính và rất ít khả năng “nổi loạn”.
<i>Tuy nhiên, trong cái nhìn của TTLS sau 1986, đặc biệt đầu thế kỉ XXI, tính phức hợp, đa</i>
<i>bình diện trở thành một đặc tính nổi bật của các nhân vật, đồng thời chi phối mạnh mẽ</i>
đến phương thức xây dựng nhân vật và một số phương thức khác của nghệ thuật tự sự và
thi pháp thể loại. Vì vậy nhân vật trong TTLS giai đoạn này đã thực sự thốt khỏi hình
thức “sơ đồ hóa” để hiện lên đầy đặn hơn, sống động hơn. Nhiều tiểu thuyết đi sâu vào
đời sống tinh thần con người để qua đó, thấy được “hình bóng của cuộc đời”. Nói như
M.Kundera: “Tiểu thuyết là một sự chiêm nghiệm về cuộc đời thông qua các nhân vật
tưởng tượng” [74, 89]. Nhìn chung, các tác giả đã hội tụ được khả năng xây dựng nhân
vật trong TTLS khi kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, từng bước cách tân, làm cho
thể loại trở nên năng động hơn, uyển chuyển hơn, phù hợp với thị hiếu của độc giả thời
hiện đại.


<i><b>3.2.1. Khắc họa chân dung nhân vật</b></i>
<i>3.2.1.1. Khắc họa nhân vật qua ngoại diện </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(91)</span><div class='page_container' data-page=91>

sinh ra, thoạt tiên tướng mạo giống vàng rồng, tiếng khóc văng như chuông đổ, khuôn
mặt khôi ngô tuấn tú lạ thường. Hai vai có nốt ruồi đỏ như son, quả là chỉ có Bồ Tát hay
<i>Thần nhân giáng thế mới có quý tướng như vậy” [tr.78]. Trong Thiền sư dựng nước,</i>
Hoàng Quốc Hải kể về sự đầu thai kỳ lạ của Lý Công Uẩn: do mẹ giao cấu với thần mà


sinh ra Lý Công Uẩn. Đặc biệt, khi lên sáu, thiền sư Vạn Hạnh đã nhận thấy ở Lý Cơng
Uẩn có ngoại hình kỳ tướng, tướng mạo đế vương: “Đích thị là bậc minh vương thánh đế
trời ban cho nước ta, ban cho Đạo ta, để gỡ cho thế nước đang lâm vào trì bế, nát rối”
[tr.51]. Những đặc điểm ngoại hình đó dự thuật về một bậc vua anh minh, tài giỏi, sẽ thay
đổi diện mạo của lịch sử, đem lại cuộc sống ấm no, thái bình thịnh trị lâu bền cho dân tộc.
Tuy nhiên, TTLS giai đoạn này có sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại khi
miêu tả ngoại diện của nhân vật nhưng trên cơ sở cách tân nguyên tắc xây dựng nhân vật
nhằm làm mới nhân vật, giúp độc giả cùng khám phá tính cách, lý giải số phận nhân vật
đồng thời cùng đối thoại với lịch sử. Nhân vật không chỉ được khắc họa bằng vài nét
chấm phá diện mạo bên ngoài mà ngòi bút của các nhà văn đương đại đã chú tâm xây
dựng nhân vật một cách toàn diện hơn, chân thực hơn thông qua những đặc điểm trên cơ
<i>thể nhân vật: đơi mắt, vú, mơng, làn da, rốn,... Ví dụ, khắc họa chân dung của những nhân</i>
vật phản diện, những con người có tâm địa xấu xa, độc ác, các nhà văn khơng chỉ miêu tả
<i>hình dáng bên ngồi mà sử dụng nhiều hơn nghệ thuật miêu tả chi tiết đôi mắt. Chẳng</i>
hạn, đôi mắt của Hồ Quý Ly sáng lên khi nói về chuyện canh tân, khi nhìn cảnh vợ con
quấn quýt, long lanh giận dữ với những kẻ chống đối và lạnh lẽo khi đọc được ý nghĩ của
<i>con; nhân vật Lý Trác (Giàn thiêu), có đơi mắt “đôi con ngươi Thái Bảo vằn máu, sắc</i>
lạnh như mắt cọp bắt mồi” [tr.46], đôi mắt của Đại Điên “nửa khép nửa mở. Khi khép như
mèo ngái ngủ. Khi trừng từng như mắt cọp đói, con người thống ánh đỏ” [tr.74]; nhân
<i>vật Lý Tài (Tây Sơn bi hùng truyện) có “đơi mắt lươn, mũi nhọn, lưỡng quyền cao”</i>
[tr.142], đó là gương mặt của hạng người nham hiểm, xảo trá. Tập Đình thì “mày xếch,
mắt cú vọ, miệng thì vêu, hàm có ngạnh” [tr.143], ấy là gương mặt của kẻ hung tàn, bất
nhân, là chân dung của kẻ chuyên nịnh hót, hách dịch,…


</div>
<span class='text_page_counter'>(92)</span><div class='page_container' data-page=92>

rộng biết nhiều lại giỏi cầm kỳ thi họa. Khi trở thành nhà sư Từ Đạo Hạnh, bút pháp khắc
họa nhân vật không được chú ý ở ngoại hình mà đã có sự dịch chuyển vào trong suy nghĩ,
<i>hành động. Thơng qua điểm nhìn của Trần Cảnh nhân vật Trần Thủ Độ trong Đàm đạo về</i>
<i>Điều Ngự Giác Hoàng hiện lên là một con người mạnh mẽ, quyết đốn, nhiều tâm cơ,</i>
ln khát khao quyền lực, có trái tim sắt đá, tâm hồn cằn cỗi: “Ơng ta đứng đó, ánh mắt
trừng trừng nhìn ta thật dữ dội và dường như cịn ẩn trong đó cả sự đe dọa vơ hình nào đó.


Sức mạnh của con người này hiển hiện qua từng ánh mắt lẫn cử chỉ của ông ta” [tr.81],
“bàn tay rắn chắc, cứng và lạnh như đá”, “tia mắt sắc bén” [tr.82]. Nguyễn Hoàng trong
<i>Minh sư (Thái Bá Lợi) được nhận diện qua tướng mạo phi phàm: “Vị quận cơng ba mươi</i>
tư tuổi có tướng mạo khôi ngô, vai lân, lưng hổ, trán rộng, mắt phượng… đó là bậc phi
thường, thơng minh, tài trí, có đức rộng cảm hóa được lịng người” [tr.38]. Ngược lại,
nhân vật Trịnh Kiểm gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc với tướng mạo khác thường
biểu hiện là một con người đa nghi, thâm độc: “Dáng đi chắc chắn, mới trông tưởng là đi
chậm, nhưng thực ra anh ta đi rất nhanh, nói năng gãy gọn khúc chiết” [tr.45]. Việc khắc
họa ngoại diện là cách nhà văn xây dựng tính cách nhân vật: can đảm, mưu lược, thơng
minh nhưng quyết đoán, cơ mưu, tham quyền lực. Theo nhận xét của nhiều người thì có
thể sống với Trịnh Kiểm lúc hoạn nạn chứ không thể sống với nhau lúc vinh quang. Thật
vậy, sau khi Nguyễn Kim mất, Trịnh Kiểm lần lượt trừ khử những người cản đường ơng,
thậm chí muốn sát hại em vợ là Nguyễn Hoàng. Với việc thâu tóm quyền lực trong tay,
Trịnh Kiểm đã nhiều lần gây ra những cuộc nội chiến đẫm máu với nhà Mạc khiến đời
sống nhân dân lầm than khổ cực.


</div>
<span class='text_page_counter'>(93)</span><div class='page_container' data-page=93>

xoan, mi thanh mục tú. Chẳng cần trang điểm cũng đẹp nõn nà”. Mùi có “dáng người cân
đối. Đơi vú nở nang. Eo thon nhỏ. Đôi mông nẩy đều chắc nịch hứa hẹn sự đông đàn dài
lũ”. Ba Váy “có gương mặt trịn vành vạnh, vai cũng trịn, những bàn tay thì bụ bẫm như
tay trẻ con. Đơi mơng đít mẩy, hứa hẹn sẽ rất to và trịn”. Khi xây dựng chân dung những
người phụ nữ ấy, ông đều gắn cho họ những phẩm chất rất nữ tính ngay từ ngoại hình,
đậm chất sắc dục – như một điểm tựa, khiến tâm hồn, phẩm cách được nâng lên, giúp họ
<i>có niềm tin vào sức mạnh của Mẫu. Trong Tám triều vua Lý, với hệ thống ngôn từ hoa mĩ,</i>
nhà văn đã phác họa nên những bức chân dung vừa sắc nét vừa sống động. Cơng chúa
Bình Dương mang vẻ đẹp vừa mềm mại vừa mạnh mẽ: “người cao, thân lẳn mình trắm,…
suối tóc dài đen nhức,… vầng trán cao, trước trán có một xốy tóc. Mắt to, sáng với cặp
mi cong, lông mày đen mướt chạy tới đuôi mắt. Đôi má hơi bầu bầu, da trắng hồng hơi
nhuốm nắng,…” và “tính tình cơng chúa dứt khốt, mạnh mẽ như tính con trai, chứ khơng
ủy mị thướt tha” [tr.52–53]. Lê Thị Khiết mang vẻ đẹp dân dã của cô thôn nữ: “gương
mặt trái xoan thanh tú,…hàm răng đều tăm tắp, mỗi khi cười cả gương mặt bừng sáng


khiến ta có cảm giác hàm răng trắng và đôi môi mọng đỏ kia tựa như cái đài hoa của một
bông hoa đẹp” [tr.239]. Nhan sắc của hoàng hậu Thượng Dương là nhan sắc chim sa cá
lặn, xứng danh là một trang quốc sắc thiên hương: “cặp mắt sáng, nước da mịn hồng như
trứng gà bóc, đơi mơi đỏ như tơ son, hai hàm răng đều tăm tắp trắng như những hạt ngô
nếp, cặp má bầu, gương mặt bà rực rỡ như một tấm gương sáng. Trời phú cho bà một thứ
nhan sắc tự nhiên không cần bất cứ loại đồ trang sức nào, ngay cả son phấn.” [tr.62]. Nhìn
chung, việc miêu tả ngoại hình vừa tạo dựng chân dung nhân vật thật sinh động vừa giúp
người đọc khám phá được một phần con người bên trong của nhân vật.


<i>3.2.1.2. Khắc họa nhân vật qua hành động</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(94)</span><div class='page_container' data-page=94>

hành động, từ đó bộc lộ bản chất và tính cách nhân vật. Hình ảnh quyết tâm trả thù cho
cha mẹ, được nhà văn miêu tả qua những chi tiết như viết đơn bằng máu, lao đến đánh
Đại Điên, từ bỏ tất cả để tu luyện nhằm trả thù. Ở Từ Lộ hành động quyết tâm trả thù của
chàng cũng có những phút như muốn qn đi để tìm đến hạnh phúc cịn sót duy nhất của
chàng là nàng Nhuệ Anh. Ở Từ Đạo Hạnh nổi bật nhất là hành động rũ bỏ kiếp sống hiện
tại để mong được hưởng thụ những thứ mà kiếp trước đã bỏ lỡ, kể cả khi trở thành Lý
Thần Tơng nhưng vẫn cảm thấy thiếu vắng điều gì. Bản chất của nhân vật Từ Lộ - Từ
Đạo Hạnh – Lý Thần Tông rất đa diện, ở nhân vật vừa có cái cao cả xen lẫn cái thấp hèn,
vừa tồn tại cái tốt vừa xen lẫn cái xấu xa, tranh đấu bên bờ thiện – ác. Nhân vật Ỷ Lan
cũng được tác giả phục dựng đầy sinh động. Hành động bức chết Dương Thái hậu và 76
cung nữ trong lịch sử khiến người đọc không khỏi hoảng sợ, ngỡ ngàng. Để chuộc tội, Ỷ
Lan cho xây chùa, tô tượng, đúc chuông như một cách giảm nhẹ tội lỗi cho chính mình
chứ khơng phải để tu thiện cơng đức. Hành động trốn chạy hôn nhân, tự vẫn của Nhuệ
Anh đều thể hiện lòng chung thủy của nàng với Từ Lộ. Hành động trốn chạy giàn thiêu
của Ngạn La, hành động tố cáo tội ác của triều đình và tự sát của Lê Thị Đoan… đều thể hiện
bản lĩnh, tính cách của nhân vật nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(95)</span><div class='page_container' data-page=95>

sự phát triển của lịch sử Đại Việt nghìn năm văn hiến. Nhìn chung, nhân vật trong TTLS
đương đại thể hiện mình thơng qua hành động, tuy nhiên, hành động của họ ln gắn liền


với q trình đấu tranh tâm lý, những suy tư, trăn trở và dằn vặt để giải quyết mâu thuẫn
trong hiện thực lịch sử đầy ngổn ngang, biến động.


<i><b>3.2.2. Khắc họa tâm lý nhân vật</b></i>


Milan Kundera đã nêu khác biệt cơ bản giữa khoa học lịch sử và TTLS chính là
những cố sự bên trong con người. Tiểu thuyết không hướng đến lịch sử xã hội mà quan
tâm đến những vấn đề bức thiết và riêng tư của con người, điều mà khoa học lịch sử bỏ
quên. Sức hấp dẫn của nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết chính là những xung đột, giằng
xé bên trong được nhà văn khám phá bằng sự am tường đời sống nội tâm và những quy
luật tâm lý. Sử dụng đối thoại và thâm nhập thế giới nội tâm nhân vật bằng độc thoại nội
tâm, dòng ý thức, tiềm thức và vô thức là những phương thức hữu hiệu giúp nhà văn
khám phá những bậc thang tâm trạng, những nếp suy tưởng bên trong nhân vật.


<i>3.2.2.1. Khắc họa tâm lý nhân vật qua vô thức </i>


Vận dụng tâm lý học hiện đại, đặc biệt là phân tâm học, một số nhà văn đã đi theo
<i>hướng thăm dị vơ thức để khám phá thế giới nội tâm đầy bí ẩn của con người: Giàn thiêu</i>
<i>(Võ Thị Hảo), Hội thề (Nguyễn Quang Thân), Đất trời (Nam Dao), Đàn đáy (Trần Thu</i>
<i>Hằng), Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân Khánh), Nguyễn Thị Lộ (Hà</i>
<i>Văn Thùy), Thế kỉ bị mất (Phạm Ngọc Cảnh Nam), Nguyễn Du (Nguyễn Thế Quang),</i>
<i>Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hồng, Bí mật hậu cung (Bùi Anh Tấn),…</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(96)</span><div class='page_container' data-page=96>

chỗ dựa, kiếm tìm sự bình an, thanh thản đôi khi là sức mạnh trong tâm hồn. Và hơn thế,
nhà văn đã thổi vào tác phẩm của mình hơi thở văn hóa phương Đơng với bao điều kì diệu
của đời sống tâm linh hồn nhiên, chất phác.


<i>Trong Đất trời, Nam Dao đã để nhân vật Nguyễn Trãi bộc lộ tâm sự thầm kín của</i>
lịng mình bằng những giấc mơ. Nhiều lần đối mặt với Xuyến nhưng Nguyễn Trãi lại ngỡ
đó là người đàn bà áo xanh vẫn từng hiện về trong giấc mơ của ông: “Người con gái ngồi


trên giường, mớ tóc huyền bung ra đổ xuống bờ vai như thác chảy… Trãi sực đưa mắt lên
xà nhà. Mơ hay là thực đây?” Nhiều lần đối diện với Nguyễn Thị Lộ, Nguyễn Trãi lại
tưởng đó là Xuyến của ngày xưa: “Tơi mơ. Một giấc mơ ban hạ ở góc chợ nhốn nháo. Mở
mắt ra, nhìn đi. Tơi vẫn cịn mơ ư? Nhác thấy hình hài em, ở đó, có thật” [tr.252]. Nhiều
đêm trong những giấc mơ chập chờn, Trãi nghe thấy lời dặn dò của cha: “Tai Trãi văng
vẳng lời cha “làm trai thì về mà trả ơn nước, thế mới là báo hiếu. Nợ nước trước, thù nhà
sau” [tr.91]. Giấc mơ về hình ảnh con rắn trở đi trở lại trong những cơn mộng mị của
<i>Nguyễn Trãi. Qua những giấc mơ như thế, chúng ta nhận biết được những tầng kí ức sâu</i>
<i>thẳm trong tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của Nguyễn Trãi. Trong Hội thề, Nguyễn Thị Lộ</i>
ln mộng mị về cái chết của hồng hậu Ngọc Trần hiến mình cho thần sơng để đổi lấy
vận mệnh đế vương cho con trai mình. Giấc mơ về sự tự do, bình đẳng của Nguyễn Du
<i>(Nguyễn Du – Nguyễn Thế Quang). Những cơn mộng mị của Trần Cảnh (Đàm đạo về</i>
<i>Điều Ngự Giác Hoàng – Bùi Anh Tấn) báo trước điềm xấu sắp xảy ra trong hôn nhân với</i>
người vợ yêu quý. Và hai mươi năm sau Trần Cảnh tiễn Lý Chiêu Hoàng về nhà chồng
mà trong nhiều giấc mơ vẫn thảng thốt không yên, trái tim vẫn luôn nhói đau rỉ máu.
<i>Tương tự, ta bắt gặp hình ảnh của Phan Châu Trinh (Thế kỉ bị mất – Phạm Ngọc Cảnh</i>
Nam) luôn bị ám ảnh cùng những cơn mộng mị về cái chết đau thương của cha mình với
thủ cấp bị bêu trên cọc tre đã thôi thúc ông phải “bẻ ghi cho con tàu lịch sử rẽ vào con
đường khác, con đường khôn ngoan hơn của kẻ yếu, là phải tự cường trước đã” [tr.414].
Có thể thấy rằng, trong cái nhìn của thời đại mới, TTLS khơng ngừng biến chuyển, đổi mới
bút pháp nghệ thuật khi tiếp tục đi sâu khám phá đời sống con người ở góc độ vơ thức,
nhằm phát hiện chiều sâu nhân tính thiêng liêng tiềm ẩn trong mỗi con người. Điều này góp
phần khơng nhỏ trong việc xây dựng một quan niệm tồn diện hơn về con người đa diện.


<i>3.2.2.2. Khắc họa tâm lý nhân vật qua đối thoại và độc thoại nội tâm </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(97)</span><div class='page_container' data-page=97>

<i>Thủ Kim trong Tiếng sấm đêm đơng,…, song hình thức này vẫn cịn đơn giản. Tuy nhiên,</i>
trong TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI các nhà văn không chỉ đặt nhân vật trong những
cuộc đối thoại giữa nhân vật này với nhân vật kia, với những tình huống gay go, căng
thẳng khơng chỉ tạo điều kiện để nhân vật có cơ hội tự bộc lộ mình, thể hiện mình, mà


cịn ẩn ngầm trong văn bản sự đối thoại các tư tưởng, quan điểm, đối thoại của các nền
văn hóa, đối thoại giữa hiện tại và quá khứ.


<i>Trong Giàn thiêu, Võ Thị Hảo xây dựng rất nhiều các cuộc đối thoại giữa các nhân</i>
vật như cuộc đối thoại giữa Lý Trác và Lê Thị Đoan khi định đoạt số phận của những
cung nữ trước giàn thiêu. Thông qua cuộc đối thoại, người đọc dễ dàng nhận diện tâm địa
xấu xa của Lý Trác khi hắn luôn thúc giục nhà vua hạ lệnh giết Ngạn La, ngược lại, nhân
vật Lê Thị Đoan hiện lên là một người mạnh mẽ, dũng cảm, dám chống lại cường quyền
đòi quyền sống cho người cung nữ nói riêng và người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói
<i>chung. Đặc biệt, trong Giàn thiêu cuộc đối thoại giữa Ỷ Lan và Dương Thái hậu đã dựng</i>
lên hình ảnh con người đa diện, con người luôn phải tranh đấu với những tốt – xấu, thiện
– ác, cao cả - thấp hèn trong bản thân mình. Từ cuộc đối thoại với hồn ma, những phần khuất
lấp của Ỷ Lan bị vạch trần, vị thánh nhân Ỷ Lan bị “giải thiêng” trước mắt người đọc. Hành
động bức hại Thái hậu Thượng Dương cùng 76 cung nữ để chiếm đoạt quyền lực, mãi mãi là
vết nhơ không bao giờ thanh tẩy được.


<i>Cuộc đối thoại giữa Nguyễn Hoàng (Minh sư – Thái Bá Lợi) với hai người lính trẻ</i>
thể hiện nhân cách cao đẹp của vị anh hùng mở cõi: thẳng thắn nhìn thẳng vào sự thật để
tìm ra mục đích sống cuộc đời. Một con người khơng thích việc ngợi ca, khơng nhiễm
bệnh cơng thần, tồn tâm tồn ý cho cơng việc, tận hiến cuộc đời cho đất nước, đặc biệt
gần gũi, sẻ chia, trân trọng những thuộc hạ bên mình:


“Các anh khơng nói thì ta nói vậy. Các anh có tội là dám nói sau lưng ta.
Nhưng đúng là ta sợ chết mà thốt thân vào xứ này. Nào ta có nghĩ ngay
được chuyện mở cõi như giờ đâu. Nhưng gặp vận may mà khơng làm là có
tội. Cũng như các anh q mến ta cho ta một bữa ăn khi đang đói, nếu ta
tham lam đòi ăn thật nhiều, hoặc khinh khi các anh, chê bữa ăn dở thì hai tội
ấy ngang nhau. Các anh đã nhắc ta một sự thật mà ta có thể qn thì đó là
<i>Minh sư của ta” [tr.414].</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(98)</span><div class='page_container' data-page=98>

xảo quyệt, cực quyền và tàn bạo, song trong một khoảnh khắc nào đó, vua cũng là con
người đức độ, thấu lẽ nhân tình:


“- Này, khanh thử nói xem: Ta là người như thế nào?
Quá bất ngờ, mồ hơi Nguyễn tốt ra:


- Tâu Hồng thượng. Hồng thượng là đấng thiên tử anh minh, kẻ nô tài này
đâu dám có điều gì ạ.


- Ấy! Khơng được rồi! Đừng nịnh ta. Những từ “anh minh”, “sáng suốt” ta
nghe chán rồi. Ngươi cứ nói thẳng ra: ta là ơng vua tàn bạo phải khơng?


- Có thể khanh nghĩ thế mà cũng khơng nghĩ thế nhưng nhiều người nghĩ
thế. Ta có làm nhiều điều mà thiên hạ cho là tàn bạo, ta không muốn nhưng
ta phải làm, nếu không ta sẽ chết và khơng có được giang sơn ngày nay”
[tr.345].


Trong khi đó, Nguyễn Du rất khơn khéo, vừa giữ được nhân cách của bậc thi nhân
vừa khơng phạm đến lịng tự ái của nhà vua:


“ – Thơ khanh viết hay lắm. Sao khanh khơng có bài bào ca ngợi ta nhỉ?
Khanh có thể viết một bài hay một quyển thật hay ca ngợi ta và triều đại ta
không?


-….


- Muôn tâu bệ bạ. Ơn của Bệ hạ đối với thần như trời như bể, thần đâu dám
chối từ. Nhưng nghĩ công lao người từ buổi mưu nghiệp lớn ở chỗ mất,
dựng nên giang sơn thế này xưa nay chưa từng có, không bút nào tả xiết.


Thế nhưng Bệ hạ vốn không thích ngợi ca, giờ làm văn ngợi ca, hậu thế lại
hiểu lầm người thích tơ vẽ mà làm giảm cơng nghiệp đích thực, mà thần thì
cũng…”


Gia Long ngắt lời:


- Khơng cịn là Nguyễn Du chứ gì? Ngươi khơng chịu làm chứ gì?
- Bệ hạ xin cho thần được làm điều thần nghĩ” [tr.350 – 251].


</div>
<span class='text_page_counter'>(99)</span><div class='page_container' data-page=99>

tích cách của vị hoàng đế bề ngoài sắt đá lạnh lùng mà lại hiểu việc của thi nhân, hiểu
lòng người đến vậy. Một người tàn bạo, độc ác trên chính trường lại khơng thích ngợi ca,
xu nịnh, q trọng hiền tài: “một nhà thơ đích thực thì khơng được xu nịnh bất kỳ ai, kể
cả quyền lực và mỹ nữ” [tr.351].


Trong tác phẩm của Bùi Anh Tấn, trong mỗi nhân vật nhà văn lựa chọn ngơn ngữ
cho phù hợp với vị trí, trình độ, thành phần xuất thân và tính cách nhân vật. Những cuộc
<i>đối thoại giữa Trần Cảnh với Trần Thủ Thủ trong Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng</i>
diễn ra căng thẳng và gay gắt. Qua những cuộc đối thoại, Trần Cảnh vạch trần tội ác của
Trần Thủ Độ đối với nhà Lý và cuộc hôn nhân của nhà vua với Lý Chiêu Hoàng. Trần
Thủ Độ thể hiện sự quyết đốn, khát khao quyền lực đã thơi thúc ơng nhẫn tâm, tàn độc
để thay đổi lịch sử. Ngược lại, Trần Cảnh được khắc họa là một con người lương thiện,
thủy chung, đau đớn trên ngôi cao quyền lực. Hay qua cuộc đối thoại giữa Trần Cảnh với
Lý Chiêu Hoàng, cho thấy Trần Cảnh hết mực yêu thương, thủy chung trong hơn mười
năm chung sống với vợ nhưng yếu đuối hèn nhát, bất lực trước cường quyền. Trong khi đó,
Lý Chiêu Hoàng là một người phụ nữ yếu mềm, chân thành, thủy chung nên chấp nhận cuộc
sống lay lắt cô đơn, đau khổ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(100)</span><div class='page_container' data-page=100>

<b>Tiểu kết</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(101)</span><div class='page_container' data-page=101>

<b>Chương 4</b>



<b>ĐẶC TRƯNG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỈ XXI</b>
<b>– NHÌN TỪ PHƯƠNG THỨC TỰ SỰ</b>


<b>4.1. Hình tượng người kể chuyện</b>


Theo T.Todorov, nhân vật kể chuyện “khơng chỉ mang chức năng kể, mà cịn định
giá và đánh giá” [131, 262]. G.Genette lại quy chiếu người kể chuyện (NKC) về phương
diện thời gian trần thuật khi ông cho rằng: “người kể chuyện là người hiện thực hóa tồn
bộ câu chuyện”. Rõ ràng, dù nhìn ở bất kỳ phương diện nào đi chăng nữa thì vai trị và
chức năng của NKC trong văn bản tự sự không thể phủ nhận thậm chí nó cịn là trung tâm
của văn bản tự sự. Bởi đến với một tác phẩm, chúng ta không thể không đặt câu hỏi: Ai là
người kể? Kể về vấn đề gì? Và kể như thế nào? Sở dĩ một câu chuyện kể cho chúng ta một
hay nhiều cách hiểu, nhìn nhận, đánh giá… là do NKC cung cấp. Nếu khơng có NKC thì văn
bản khơng tồn tại. Truyện kể chỉ diễn ra khi có sự xuất hiện của NKC cũng như q trình
hiện đại hóa các chức năng của chúng trong một truyện kể.


</div>
<span class='text_page_counter'>(102)</span><div class='page_container' data-page=102>

<i><b>4.1.1. Đổi mới hình thức người kể chuyện ngơi thứ ba </b></i>


Theo G.Genette, NKC dị sự là NKC ở ngôi thứ ba; câu chuyện được kể lại bởi một
người không phải là nhân vật trong truyện; người trần thuật nằm ngoài những biến cố, sự
kiện của câu chuyện mà được nó kể lại, đây là kiểu trần thuật giấu mặt, khơng cơng khai,
lộ diện; trần thuật theo điểm nhìn tác giả, hoặc nhân vật, tùy theo mức độ trần thuật. NKC
đứng đằng sau nhân vật để “bài trí, tổ chức, sắp xếp” câu chuyện; NKC dị sự đứng bên
ngoài quan sát và kể lại câu chuyện nên khả năng bao quát mọi biến cố, mọi thời khắc
trong câu chuyện là rất lớn. Ngồi ra, NKC dị sự cịn có khả năng nhập thân vào nhân vật
để các nhân vật tự bộc lộ cảm xúc, tình cảm, thái độ, quan điểm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(103)</span><div class='page_container' data-page=103>

<i>Trong tác phẩm Hồ Quý Ly, chúng ta thấy có sự đan xen NKC ngơi thứ 3 và NKC</i>
ngôi thứ nhất, tạo nên sự linh hoạt trong việc sáng tạo phương thức trần thuật. Bao quát


toàn bộ tác phẩm vẫn là hình tượng của NKC ngơi thứ ba tồn tri (9/13 chương). NKC
<i>ngơi thứ ba trong tác phẩm Hồ Quý Ly đứng đằng sau bức màn chiến sự, đứng trên nhân</i>
<i>vật để kể câu chuyện lịch sử một cách khách quan. NKC trong Hồ Quý Ly khái quát cho</i>
độc giả tình hình chính trị, xã hội những năm cuối nhà Trần, đặc biệt NKC đi sâu vào
khai thác nhân vật lịch sử ở khía cạnh đời tư, tiêu biểu là nhân vật Hồ Quý Ly. Bằng lời
kể của NKC, người đọc hình dung ra triều đại nhà Trần đang trên đà suy sụp, rệu rã, một
triều đại với vơ vàn những thách thức và khó khăn, mâu thuẫn bên trong và giặc ngoại
xâm bên ngoài cùng lúc vét cạn sức lực của một triều đại vốn đã già nua, suy kiệt. Trong
hồn cảnh đó, Hồ Q Ly nổi lên như một nhà cải cách, thay đổi những cái thối ruỗng,
mục nát bằng những cái mới tiến bộ hơn. Tuy nhiên con đường và đích đến của Hồ Quý
Ly lại khơng được lịng dân, ơng trở thành loạn thần cướp ngôi nhà Trần. Để đạt được
tham vọng, Hồ Quý Ly đã dùng thủ đoạn và âm mưu độc ác, phế truất nhà Trần lập nên
nhà Hồ năm 1400. Bên cạnh việc kể lại câu chuyện lịch sử những năm cuối nhà Trần,
NKC còn tổ chức, lựa chọn, xử lý các cứ liệu lịch sử bằng cách xây dựng, dẫn dắt các tình
huống, chi tiết, xử lý cốt truyện, hư cấu, sáng tạo thêm các tình tiết sự kiện, tâm lý nhân vật
để làm tăng thêm tính chất tiểu thuyết hóa cho tác phẩm.


<i>Tiểu thuyết Giàn thiêu (Võ Thị Hảo) đã kết hợp giữa lịch sử với những câu</i>
chuyện dã sử, huyền thoại, truyền thuyết dân gian để sáng tạo nên thế giới nghệ thuật
đầy lôi cuốn. Cuộc đời của Từ Lộ – Từ Đạo Hạnh – Thần Tông gắn liền với phông nền
bức tranh lịch sử đầy biến động dưới hai triều đại nhà Lý giai đoạn cuối thế kỉ XI đầu
thế kỉ XIII. NKC đã xây dựng một bức tranh xã hội mà trong đó người phụ nữ bị khinh
thường, bị gạt bỏ tàn nhẫn ra khỏi bộ máy chính quyền như Lê Thị Đoan; chịu sự ép
uổng, sắp đặt nhân duyên bất như ý như Nhuệ Anh; hay hai lần bị mang ra giàn thiêu
như Ngạn La... NKC đã tạo dựng một xã hội phong kiến nhuốm đẫm màu sắc Phật giáo
<i>đúng với sự thực thời vua Lý Nhân Tông và Lý Thần Tông. Điểm khác biệt giữa Giàn</i>
<i>thiêu với tác phẩm khác ở chỗ nhà văn đã xây dựng được một thế giới nghệ thuật mang</i>
màu sắc kỳ ảo, với các nhân vật như Từ Lộ, Nhuệ Anh, Ngạn La... có những đặc điểm
kỳ ảo về ngoại hình, tính cách, cuộc đời. Đặc biệt, qua cuộc đời kì lạ của nhân vật Từ Lộ –
Từ Đạo Hạnh – Thần Tông, NKC muốn gửi gắm đưa ra những triết lý giàu tính nhân văn.



</div>
<span class='text_page_counter'>(104)</span><div class='page_container' data-page=104>

tái hiện lại những sự kiện, biến cố to lớn và những hệ lụy của nó tới lịch sử và số phận
con người. Đó là mâu thuẫn trong nội bộ của nghĩa quân Lam Sơn ngay trong những ngày
cuối cùng của cuộc binh biến giữa những trí thức và các võ quan. Dưới con mắt của NKC
thông tỏ mọi sự, các mảng đời sống hiện thực không ngừng được mở rộng và thu hẹp một
cách linh hoạt. Bên cạnh đó, hình tượng các nhân vật trên vũ đài chính trị ấy hiện lên với
chân dung vơ cùng sống động. Đó là chân dung chủ tướng Lê Lợi rất đỗi oai hùng mà
bình dị thậm chí cịn có nét thơ lậu, nét võ biền ở các võ tướng như Phạm Vấn, Lê Sát hay
tấm lòng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Những bi kịch của người trí thức với lý tưởng nhân
nghĩa giữa những võ tướng, những bi kịch tình yêu cùng với số phận dang dở của những
người phụ nữ hiện ra trước mắt người đọc với nhiều trang viết sinh động, hấp dẫn.


<i>Với Mẫu Thượng Ngàn, tất cả những biến cố lịch sử và sự kiện hư cấu được tn</i>
chảy theo mạch trần thuật mang tính khách quan của NKC. Quá trình thực hiện kế hoạch
đánh chiếm Bắc Kì lần hai do tướng Henri Riciere đảm trách rồi đến trận quyết chiến ở
Cầu Giấy của quân Pháp với quân cờ Đen được tái hiện bằng những trang văn giàu sức
thuyết phục. Song hành với kế hoạch đánh chiếm là chính sách khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp mà việc xây đồn điền là một sự cụ thể hóa. Ở làng q nghèo như Cổ Đình,
cư dân phải chịu cuộc sống bị áp bức và tủi nhục, ngột ngạt trong sự kiềm tỏa của kẻ thù.
Những hiện thực lịch sử ấy hiện lên qua lời kể của NKC toàn tri một cách tường minh,
khúc chiết.


<i>Với dung lượng đồ sộ (3509 trang), Tám triều vua Lý mang tính chất liên hồn, tái</i>
hiện 216 năm trị vì của vương triều nhà Lý, NKC đã cung cấp cho người đọc tồn bộ q
trình hình thành, phát triển và tiêu vong của một triều đại. Tuy vậy, NKC đã không lựa chọn
bao quát toàn bộ các sự kiện của một triều đại mà chỉ lựa chọn một số sự kiện và nhân vật
tiêu biểu, đặc biệt, NKC chủ yếu xoay quanh cuộc đời của tám vị vua nhà Lý, trong đó, Lý
Thái Tổ, Lý Thái Tơng, Lý Thánh Tơng, Lý Nhân Tông được xem là một trong những vị vua
anh minh, tài giỏi lỗi lạc bậc nhất và đã để lại những dấu ấn đặc biệt trong lịch sử dân tộc.
NKC còn tập trung chủ yếu vào một số sự kiện mang tầm vóc lịch sử như: cơng cuộc xây


dựng đất nước và chống giặc ngoại xâm của quân dân nhà Lý.


</div>
<span class='text_page_counter'>(105)</span><div class='page_container' data-page=105>

“Lịch sử được phục hiện không chỉ bằng cảm hứng dân tộc đắm say mà còn là chất thơ bàng
bạc, chất triết thuyết và chất nhân văn sâu sắc”[65, 42].


<i><b>4.1.2. Đổi mới hình thức người kể chuyện ngôi thứ nhất </b></i>


Với đặc trưng NKC hiện diện như một nhân vật trong truyện, NKC ngôi thứ nhất
có khả năng khai phá chiều sâu tâm hồn, khai mở những vùng bí mật ẩn tiềm trong tâm
thức con người. Khi đó, NKC tham gia vào câu chuyện khơng chỉ với tư cách là người kể
lại câu chuyện mà anh/cô ta đã từng chứng kiến, “trải nghiệm” mà qua đó, NKC cũng
chính là người bày tỏ một “thái độ”, “quan điểm” hoặc “lập trường” diễn ngôn hướng tới
nhân vật và sự kiện. Mặc dù, trong hành trình nỗ lực cách tân thể loại trên phương thức tự
sự, nhưng hình thức NKC này vẫn chiếm dung lượng rất ít trong TTLS đương đại (10%
dung lượng tiểu thuyết). Tuy nhiên, với tư cách là “cái tôi chứng nhân”, quan sát, NKC
cũng đã mang lại những hiệu ứng thẩm mĩ thú vị cho người đọc khi tham dự trực tiếp vào
<i>câu chuyện với tư cách là một nhân vật hành động: Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn (Nguyễn</i>
<i>Xuân Khánh), Oan khuất, Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng (Bùi Anh Tấn), Thế kỉ bị mất</i>
<i>(Phan Ngọc Cảnh Nam). Với cái tôi của nhân vật tự thuật (Hồ Nguyên Trừng - Hồ Quý Ly, bà</i>
<i>Ba Váy - Mẫu Thượng ngàn, Nguyễn Trãi - Oan khuất, Trần Thái Tông, Trần Thủ Độ,</i>
<i>Trần Tung, Bảo Sát thiền sư, Trần Nhân Tông - Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng, Cả</i>
<i>Hinh - Thế kỉ bị mất), giờ đây khoảng cách giữa câu chuyện và NKC, giữa NKC và các</i>
nhân vật trong truyện được thu hẹp đáng kể. Và quan trọng hơn nữa, độc giả có một niềm
tin vơ cùng lớn lao đối với câu chuyện mà cái tôi tự thuật kể, đồng thời như sống cùng
nhân vật, cùng nếm trải những cảm giác vui buồn với nhân vật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(106)</span><div class='page_container' data-page=106>

<i>Trong tác phẩm Mẫu Thượng Ngàn, nhân vật Ba Váy được tác giả trao quyền trần</i>
thuật (chương XI, XII với 5,7%, 46/807 trang). Qua lời kể của nhân vật xưng “tôi” này,
câu chuyện gia đình, dịng tộc, làng xã cùng những mối quan hệ giữa con người với con
người hiện lên sống động như nguyên bản hiện thực tràn vào tác phẩm. Ba Váy - từ một


cô gái hồn nhiên, chất phác ngay cả khi dâng hiến tình u cũng khơng hề vụ lợi. Ba Váy
đã phải làm vợ ba nhà Lý Cỏn, chịu cái thiệt thòi trăm bề của phận lẽ mọn song người đàn
bà ấy vẫn hồn nhiên sống với tất cả sức sống ứ tràn của mình, chơn chặt trong góc khuất
tâm hồn một bóng hình, một bí mật khơng dễ bị chia sẻ cùng ai. Người đàn bà ấy chứng
kiến và trải nghiệm tất cả những gì diễn ra trong ngơi làng mình có những suy nghĩ, cảm
nhận và ấn tượng riêng về những người xung quanh. Nghe tiếng đàn khóc người chết của
Trịnh Huyền, cái tơi trần thuật bộc bạch: “Nó làm cho tơi rưng rưng muốn khóc. Nó làm
cho tấm lịng mộc mạc của tơi thổn thức xốn xang.”[tr.550]. Đó là tiếng lịng của người
đàn bà trải qua nhiều bi kịch, là hiện thân cho vẻ đẹp bền bỉ của người phụ nữ Việt trong
văn hóa Mẫu tính vĩnh hằng.


Với kiểu trần thuật phi tác giả, hình tượng người trần thuật được đặt ở ngơi thứ nhất.
Hình bóng nhà văn đã được ẩn giấu đằng sau NKC. NKC đã được tác giả nhân vật hóa để
thực hiện vai trò dẫn truyện và minh chứng cho sự thật lịch sử. Người trần thuật ở ngôi thứ
nhất thường được tác giả gắn với những nhân vật hướng nội, nghĩa là để cho nhân vật tự kể
chuyện của mình hoặc kể về những việc liên quan tới mình thơng qua độc thoại nội tâm.
<i>Bước vào thế giới tâm hồn của Lý Thường Kiệt (Tám triều vua Lý – Hoàng Quốc Hải),</i>
người đọc sẽ nhận ra nơi con người tài năng lỗi lạc, một dũng tướng lẫy lừng của dân tộc là
một con người luôn bị những đớn đau dằn vặt vì buồn tủi, mặc cảm và giận thân. Trong lịng
Lý Thường Kiệt luôn trỗi dậy những kỉ niệm đớn đau mà chàng cố vùi sâu như một nấm mồ
chôn trong tâm khảm để rồi cuối cùng nó “ịa vỡ như một chiếc cống sập lúc triều cường”,
bão nổi. Khi gặp lại chàng thiếu niên trên cảng Vân Đồn thì tất cả những kỉ niệm xưa với
người vợ Thuần Khanh tức khắc òa vỡ như một tiếng sét đánh bất chợt, khiến những gì chơn
chặt trong lịng đều phơi ra tươi rói trong óc não ơng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(107)</span><div class='page_container' data-page=107>

vùng đất đầu sóng, ngọn gió. Từ đó, như một chứng nhân của lịch sử, Cả Hinh thuật lại câu
chuyện trăm năm trước của q hương mình, bắt đầu từ hình ảnh “đồn người xin xâu dài
dằng dặc, nón cời áo rách đơng nhung nhúc, nối đuôi nhau từng bước tiến lên.”[tr.23]. Cả
Hinh đi trong đồn người đó, đã chứng kiến biết bao “thân phận rách nát, hôi hám, bừng
bừng một ý thức quay quắt sau cơn mê dài nghìn năm tăm tối”[tr.24]. Trong sự u mê của một


quê hương nghèo khó bên dịng sơng Thu Bồn, ln khao khát cái mới, sự đổi thay, vì thế,
những tư tưởng tiến bộ của phong trào Duy Tân như luồng gió mới, khai mở dân trí, ý thức
dân quyền. Trong bối cảnh đó, Cả Hinh dần được thức tỉnh, say mê khi tiếp xúc với tân thư,
tiếp thu những học thuyết tiến bộ của cụ Phan Châu Trinh: khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân
sinh. Đồng thời, NKC xưng tơi cịn làm sống lại chân dung của những nhà cách mạng như
Phan Châu Trinh, Tăng Bạt Hổ, Phan Bội Châu, Lê Bá Trinh, Lương Văn Can, Phan Khôi,…
một cách sinh động.


</div>
<span class='text_page_counter'>(108)</span><div class='page_container' data-page=108>

<b>4.2. Điểm nhìn trần thuật</b>


Đối với một tác phẩm văn học thuộc loại hình tự sự, việc lựa chọn một phương
thức tự sự là quan trọng, đặc biệt là việc lựa chọn điểm nhìn trần thuật. Một tác phẩm văn
học phải được kể theo một thức hay một điểm nhìn nào đó. Như Iu.Lotman từng khẳng
định: “Hiếm có yếu tố nào lại liên quan trực tiếp đến việc xây dựng bức tranh thế giới như
điểm nhìn nghệ thuật” [84, 454]. Trần Đình Sử quan niệm: điểm nhìn là vị trí và trạng
thái của người trần thuật dùng để quan sát và kể chuyện. Nó liên kết tác giả, NKC và
người nghe chuyện (người đọc ẩn tàng) và người đọc thực tế thành một hệ thống. Theo
<i>Từ điển Thuật ngữ văn học: “Điểm nhìn nghệ thuật là vị trí từ đó người trần thuật nhìn ra</i>
và miêu tả sự vật trong tác phẩm (…). Sự thay đổi của nghệ thuật bắt đầu từ sự thay đổi
điểm nhìn” [51, 113].


Khi bàn về chức năng của điểm nhìn nghệ thuật, M.Jahn cho rằng: “Điểm nhìn
mang ý nghĩa của sự lựa chọn và giới hạn thơng tin trần thuật của việc nhìn các sự kiện và
cấu trúc của sự kiện từ điểm nhìn của một người nào đó và của việc tạo ra cái nhìn đồng
cảm hay mỉa mai ở người quan sát” [68, 41]. Điểm nhìn khơng đơn thuần chỉ sự quan sát
bằng thị giác mà điểm nhìn cịn gắn với tâm lí, quan điểm, lập trường của nhà văn, thể
<i>hiện quan niệm của nhà văn khi nhìn về cuộc sống đó như thế nào. Trong lý thuyết Tự sự</i>
<i>học kinh điển, G. Genette đã dùng thuật ngữ tiêu điểm (Focalisation) thay cho điểm nhìn.</i>
Và ơng đã gắn khái niệm Focalisation với người quan sát và người mang điểm nhìn.
Trong Focalisation, Genette đưa ra ba kiểu: Điểm nhìn bằng khơng hay điểm nhìn khơng


tiêu điểm hoặc khơng có tiêu điểm ưu tiên; điểm nhìn bên trong hay tiêu điểm bên trong và
điểm nhìn bên ngoài hay tiêu điểm bên ngoài. Như vậy, điểm nhìn nghệ thuật là “tâm điểm”
<i>của Tự sự học, là một vấn đề then chốt của kết cấu. Đồng thời, điểm nhìn nghệ thuật cịn thể</i>
hiện và chi phối quan điểm sáng tác của từng nhà văn khác nhau vì điểm nhìn chính là hình
thức tác giả lựa chọn để dẫn dắt câu chuyện trong tác phẩm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(109)</span><div class='page_container' data-page=109>

điểm nhìn trần thuật, các nhà văn viết TTLS góp phần tạo nên tính sinh động và sự hấp
dẫn đặc biệt cho tác phẩm của mình.


<i><b>4.2.1. Điểm nhìn bên ngồi </b></i>


Điểm nhìn bên ngồi của NKC ngơi thứ ba được phần lớn các tác giả TTLS trước
<i>1986 sử dụng như: Sống mãi với thủ đô, Lá cờ thêu sáu chữ vàng (Nguyễn Huy Tưởng),</i>
<i>Quận He khởi nghĩa, Tổ quốc kêu gọi (Hà Ân), Cờ nghĩa Ba Đình (Thái Vũ), Bóng nước</i>
<i>Hồ Gươm (Chu Thiên), Búp sen xanh (Sơn Tùng), Núi rừng n Thế (Ngun Hồng),…</i>
Với điểm nhìn này, NKC có khả năng bao quát toàn bộ sự kiện, nhân vật lịch sử mà
khơng có sự tham gia của nhân vật, làm hạn chế khả năng khám phá thế giới nội tâm của
con người. Đến những năm đầu thế kỉ XXI, TTLS vẫn tiếp tục phát huy vai trị của NKC
ngơi thứ ba, do đó điểm nhìn của NKC ngơi thứ ba (điểm nhìn bên ngồi) vẫn chiếm ưu
thế, đặc biệt trong những tác phẩm thuộc dạng thức kết cấu theo lối chương hồi. Điểm
nhìn bên ngồi tồn tri, giúp NKC trong tác phẩm của Vũ Ngọc Đĩnh, Lê Đình Danh, Hàn
Thế Dũng, Nguyễn Khắc Phục, Hoàng Quốc Hải,… tái hiện hiện thực lịch sử rộng lớn
của một giai đoạn, một thời kỳ hay cả một triều đại lịch sử; những bức tranh đời sống xã
hội được tái hiện chân thực, sinh động qua điểm nhìn này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(110)</span><div class='page_container' data-page=110>

người phải sống giấu mình, phải sống giả tạo với những lời xu nịnh, phải đối đầu với
những mưu mô xảo quyệt, tranh giành quyền lực, hãm hại lẫn nhau với nhiều biến động
<i>dữ dội như: loạn tam vương trong Thiền sư dựng nước, cuộc chính biến năm Quý Sửu</i>
(1073), cuộc trả thù của Đỗ Anh Vũ, cuộc tranh giành ngôi hồng thái tử của Đỗ thái hậu,
<i>cuộc đảo chính của Trần Thủ Độ trong Con đường định mệnh. Đối lập với đời sống hồng</i>


cung thâm nghiêm, huyền bí là đời sống giản dị, n bình nơi thơn ấp. Khơng gian đó được
mở rộng với tất cả sự sơi động của nhịp sống con người nơi đây: khơng khí làm việc sôi
động của dân làng hương Tam Sơn trong những ngày đi phá rừng lập phủ của hoàng thái tử
Lý Phật Mã, những lễ hội của làng Xuân Phương, hay khung cảnh náo nhiệt trong đám cưới
<i>của cu Sắn trong Thiền sư dựng nước; khơng khí nhộn nhịp, sơi động của trại dâu tằm đối</i>
<i>lập với khơng khí tĩnh lặng của làng Trích Sài ven sơng Tơ Lịch trong Con ngựa nhà Phật;</i>
<i>không gian tĩnh lặng, dân dã của hương Thỗ Lỗi trong Bình Bắc dẹp Nam… Tầm nhìn của</i>
người kể chuyện phóng ra xa để thu vào tác phẩm những cảnh tượng kỳ vĩ của non sơng
đất nước. Đó là những vùng biên ải xa xôi như Lạng Châu, lộ Hải Đông, cửa Tam Trĩ,
Mũi Ngọc, đảo Minh Châu, Đảo Sen, vùng kinh tế trọng điểm của cả nước với cảng Vân
Đồn… Nhưng đôi khi, tác giả lại thu tầm nhìn về gần hơn để người đọc được chứng kiến
cảnh dân kinh đơ Đại La đón mừng vua Lý Thái tổ, cảnh tiễn đưa hoàng thái tử Lý Phật
Mã đi mở phủ, cảnh xuân lúc Nguyên phi Ỷ Lan sinh hoàng thái tử Lý Càn Đức, cảnh
hoành tráng của kinh thành Thăng Long khi tiễn đưa và đón mừng vua Lý Thánh Tông
thắng trận trở về. Đối lập với cảnh sôi động, nhộn nhịp là cảnh tang thương của kinh
thành Thăng Long sau cái chết oan ức của Hoàng thái hậu Thượng Dương và bảy mươi
hai cung nữ, hay đó còn là cảnh đám tang đau thương của Thái sư Lý Đạo Thành; cảnh
điêu tàn, loạn lạc của kinh đô Thăng Long dưới thời Lý Cao tông, Lý Huệ tông. Ngồi ra,
người kể chuyện cịn hướng máy ảnh ra xa nhằm thu vào tầm mắt khơng gian rộng lớn,
hồnh tráng của hiện thực chiến tranh với những chiến công kỳ vĩ của vua tôi nhà Lý:
những cuộc dẹp loạn người man, những cuộc chinh phạt Chiêm Thành, những cuộc kháng
chiến chống quân Tống xâm lược. Tất cả được NKC tái hiện một cách rất trọn vẹn, chân
<b>thực và sinh động. </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(111)</span><div class='page_container' data-page=111>

<i>Dũng); là những chiêm nghiệm về sự thay đổi triều đại (Hồ Quý Ly – Nguyễn Xuân</i>
<i>Khánh, Mạc Đăng Dung – Lưu Văn Khuê, Đàm đạo về Điều ngự Giác Hoàng – Bùi Anh</i>
<i>Tấn, Hoàng hậu hai triều Dương Vân Nga (Hồng Cơng Khanh); là vấn đề thân phận con</i>
<i>người (Đàn đáy – Trần Thu Hằng, Oan khuất – Bùi Anh Tấn, Nguyễn Du – Nguyễn Thế</i>
<i>Quang, Huyền Trân–Nguyễn Hữu Nam); là những trăn trở về văn hóa, lịch sử (Mẫu</i>
<i>Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa – Nguyễn Xuân Khánh, Thế kỉ bị mất – Phạm Ngọc</i>


<i>Cảnh Nam); là những chiêm nghiệm về vấn đề mở mang bờ cõi (Huyền Trân – Phạm Hữu</i>
<i>Nam, Minh sư – Thái Bá Lợi, Cơng nữ Ngọc Vạn – Ngơ Viết Trọng),… Ngồi ra, với</i>
điểm nhìn bên ngồi, chân dung nhân vật lịch sử được khắc họa sinh động, sắc nét thơng
qua ngoại hình, hành động, hành vi, ngơn ngữ, tâm lí. Từ chân dung của những nhân vật
anh hùng sử thi như Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Trần Thủ Độ, Trần
Nhuật Nhuật, Hồ Quý Ly, Lê Lợi, Nguyễn Hoàng, Nguyễn Huệ… đến những nhân vật
huyền thoại hóa như Từ Lộ, Ngạn La, Cá Bơn, Dã Nhân, Tổ Cô, Hộ Hiếu hay những
nhân vật được “giải thiêng” theo hướng thế tục hóa như Ỷ Lan, Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị
Lộ, Nguyễn Du, những người phụ nữ bình dân như Mùi, Ba Váy, Nhụ, Nguyệt, Lụa,…
đều được khắc họa vô cùng đậm nét, chân thực. Nhìn chung, với điểm nhìn bên ngồi
NKC trong tác phẩm phát huy được khả năng bao quát hiện thực lịch sử rộng lớn, song bị
hạn chế trong việc khắc họa tâm lý nhân vật. Do đó, TTLS mười năm đầu thế kỉ XXI luôn
ý thức đổi mới điểm nhìn trên cơ sở dịch chuyển từ điểm nhìn bên ngoài vào bên trong
nhân vật trên nguyên tắc luận giải nhằm khai phá chiều sâu, những miền bí ẩn trong tâm
hồn con người, khơi mở những hằng số của lịch sử.


<i><b>4.2.2. Điểm nhìn bên trong </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(112)</span><div class='page_container' data-page=112></div>
<span class='text_page_counter'>(113)</span><div class='page_container' data-page=113>

Lụa, Hoa người đọc cịn nhìn thấy trong khơng khí khốc liệt của chiến tranh vẫn tồn tại
những linh hồn cao thượng, bãn lĩnh sống phi thường của người phụ nữ Việt Nam.


Với điểm nhìn bên trong, các tác giả đã dành nhiều trang sách cho các nhân vật
độc thoại nội tâm, có khi phân thân đối thoại, tự vấn với chính mình để bộc lộ chiều sâu
tinh tế của tâm hồn. Nhờ sự chuyển đổi điểm nhìn cho nhân vật, độc giả cảm nhận những
trăn trở, suy tư, cả những thái độ, lập trường của các nhân vật đối với những biến cố, sự
kiện lịch sử, đối với những người xung quanh và đối với chính bản thân mình. Chẳng hạn,
trong quan niệm của các sử gia, Hồ Quý Ly là một người tàn bạo, tiếm ngôi nhưng những
trang viết của Nguyễn Xuân Khánh với sự di chuyển điểm nhìn vào thế giới nội tâm nhân vật
để phát hiện Hồ Quý Ly còn là một người rất cơ đơn, thèm được có người hiểu mình, một
người có tư tưởng cách tân, muốn đưa đất nước thốt khỏi tình trạng khủng hoảng. Có thể Hồ


Q Ly đã rất “thâm hiểm” khi dùng mọi thủ đoạn nhằm đạt được mục đích nhưng ơng vẫn
dằn vặt, đau đớn bởi dù sao Hồ Quý Ly cũng là một con người với đầy đủ lương tri. Ơng
cũng có những xúc cảm yêu thương, hờn giận, khát khao. NKC cũng di chuyển điểm nhìn
vào bên trong của từng nhân vật như Hồ Nguyên Trừng, Trần Khát Chân, Thanh Mai, Trần
Nghệ Tông,… để nhân vật có thể bày tỏ chính kiến của mình về các nhân vật khác và về
chính bản thân mình. Chính vì thế, hiện thực được đánh giá theo nhiều chiều khác nhau, dưới
các góc nhìn khác nhau, tạo nên bức tranh lịch sử đa chiều.


<i>Nguyễn Quang Thân trong Hội thề có lúc chuyển giao điểm nhìn của mình vào bên</i>
trong nhân vật Nguyễn Trãi để nói lên nỗi khát khao sự an dân, thuận dân của một con
người yêu nước thương dân sâu sắc. Điều này được thể hiện qua chính tâm trạng, suy
nghĩ khơng nên dùng binh đao để trả thù vì “lấy máu rửa máu thì bao nhiêu máu cho đủ”.
Nguyễn Trãi tự nhận thấy mình muốn hịa bình thì phải sử dụng lịng nhân, chính vì thế
ông luôn đối đầu với những tướng võ biền. Với việc chuyển giao điểm nhìn bên trong vào
chính nhân vật anh hùng lịch sử Lê Lợi để thấy cách nhân vật nhìn thời cuộc và con
người, đồng thời lý giải được nguyên nhân khi nhân vật đưa ra những quyết định của
mình trước lịch sử. Với điểm nhìn này, Lê Lợi không những không làm mất đi những nét
thô lậu của một thổ hào người Mường xứ Thanh mà còn giúp độc giả thấy được những
trăn trở suy tư, những phẩm chất khác người của một bậc đế vương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(114)</span><div class='page_container' data-page=114>

quan điểm về lịch sử và con người nơi NKC. Qua đó, người đọc có thể thấy hết được sự
thống nhất trong điểm nhìn của NKC và tác giả. Song chúng ta phải hiểu rằng khơng bao
giờ có sự trùng khít hồn tồn giữa thái độ NKC đối với câu chuyện được kể lại với quan
điểm của tác giả.


<i><b>4.2.3. Sự đa dạng hóa điểm nhìn trần thuật</b></i>


Đa điểm nhìn trần thuật là cùng một sự việc hay một nhân vật có rất nhiều điểm
nhìn soi chiếu vào, trong đó điểm nhìn của NKC hay tác giả cũng chỉ bình đẳng với điểm
nhìn của các nhân vật khác trong truyện. Việc phối hợp và di chuyển điểm nhìn bên ngồi


vào bên trong sẽ giúp cho nhà văn có điều kiện trổ nhiều ô cửa để khám phá đời sống từ
nhiều góc độ khác nhau. Nhà văn có đủ điều kiện để đào sâu vào cả tầng vô thức cũng
như miêu tả một cách sinh động những đường quành tâm trạng đầy tinh vi của nhân vật.
Từ phương diện đó, có thể nói, sự đan xen và dịch chuyển liên tục điểm nhìn cũng là một
cách thức tạo nên tính phức điệu của tiểu thuyết. Văn bản nghệ thuật trở thành một cấu trúc
đa tầng, có khả năng phá vỡ tính đơn âm và cùng lúc vang lên nhiều tiếng nói khác nhau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(115)</span><div class='page_container' data-page=115>

cũng được soi chiếu từ nhiều điểm nhìn: dưới mắt dân làng, cơ vừa đáng khinh miệt vừa
đầy thiêng liêng tin cậy khi trở về với Mẫu, trong mắt của Philippe Messmer, cô là người đàn
<i>bà có sức mạnh nội sinh, có cả sự kiêu hãnh mà hắn không bao giờ vượt qua. Trong Đội gạo</i>
<i>lên chùa, điểm nhìn bên trong và bên ngồi cũng được kết hợp khá khéo léo khi vừa đặt điểm</i>
nhìn vào NKC vừa đặt điểm nhìn vào nhân vật: chú tiểu An, cụ Vô Úy, sư Vô Trần, Nguyệt,
sư Khoan Độ,… Những dòng tự sự của chú tiểu An về mình, về những xung đột mâu thuẫn
trong nội tâm và cái nhìn về thế giới xung quanh (về chiến tranh, về đạo Phật, về những nỗi
đau khổ của con người) hiện lên cảm động và chân thực. Chân dung các nhân vật khác với
muôn mặt phức tạp của đời sống như cuộc đời chìm nổi của Nguyệt, bà Nấm, sư Vô Trần,
Rêu, cô Khoai, anh Hạ,… hiện lên trong cái nhìn khách quan nhưng đầy đồng cảm của NKC
<i>với điểm nhìn tồn tri. Có thể nói, Đội gạo lên chùa ln được chiếu rọi dưới cái nhìn nhân</i>
ái, khoan hịa của đạo Phật.


Từ một điểm nhìn bao quát, tùy vào sự kiện, diễn biến, tình huống của câu chuyện,
NKC sẻ chia điểm nhìn cho các nhân vật, khiến mỗi nhân vật có cái nhìn riêng về đối
tượng mình cần phán xét, nhờ đó đối tượng hiện lên trong một khơng gian ba chiều hồn
hảo. Lý Thái tơng dưới sự quan sát của các nhân vật trong tác phẩm hiện lên đa chiều, đầy
đủ và sinh động hơn. Qua sự quan sát và đánh giá của Mai Mạnh Minh thì Lý Phật Mã là
một con người tuấn tú, tướng mạo đàng hồng, học hành thơng tuệ lại sống giản dị, hịa
nhập với mọi người, khiến ai nấy đều cảm mến vì dễ gần. Ở ngôi cửu ngũ, Lý Thái tông
là một vị vua đại trí, có tầm nhìn xa trơng rộng lại có tính nhân ái bao dung. Dưới mắt của
Thiền sư Định Hương, Lý Thái Tông tỏ rõ là người vừa thận trọng vừa nhân ái, tinh tế
nhưng không kém phần quả đoán. Trong quan hệ vợ chồng, với Mai hồng hậu, Thái tơng


là người chồng mẫu mực, đáng kính. Sau những chặng đường của lịch sử, nhìn lại cuộc
đời của vua cha, Lý Thánh tông rút ra kết luận: “Suốt cuộc đời của phụ hồng, người chỉ
làm có hai việc lớn. Việc thứ nhất là lo cho dân nước được yên thịnh, ấm no. Việc thứ hai
là lo cho nền đạo thống nước nhà ngày càng tinh tấn, dân nước mọi người, mọi nhà đều
được đuốc tuệ của nhà Phật rọi soi tới” [tr.158].


</div>
<span class='text_page_counter'>(116)</span><div class='page_container' data-page=116>

<i>nhìn của Đỗ Chiêu, Phạm Dữ, Nguyễn Thiệu, nhân vật Nguyễn Hoàng (Minh sư – Thái</i>
Bá Lợi) thực sự là một minh chủ, chủ soái sáng suốt. Họ sẵn sàng hy sinh cả đời mình để
phục vụ cho sự nghiệp mở cõi của chủ tướng. Với Ngọc Lâm, người con gái hy sinh thân
mình cho sự nghiệp của Chúa vẫn một lịng ngưỡng phục và tin yêu ông: “thiếp xin vâng
lệnh tướng công, thiếp khơng nỡ nhìn cơ nghiệp của tướng cơng tan tành mà không xả
thân được.”[tr.313]. Đối với người dân vùng Ái Tử, Chúa Nguyễn ln được tơn kính, tin
tưởng, khâm phục. Bằng tài cao đức sâu, Đoan quận công đã cảm hóa được dân chúng
ngay cả kẻ thân tín của Trịnh Tùng. Chính vì thế, Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng ln tìm mọi
cách kiềm tỏa, cách ly, o ép nhằm diệt trừ hậu họa. Ngồi ra, nhờ có tính khách quan của
điểm nhìn trần thuật mà tác giả có thể dễ dàng gửi gắm tình cảm của mình tới nhân vật
bằng cái nhìn ngưỡng vọng, thành kính mà vẫn rất trung thực, khách quan. Qua cách đánh
giá của Đoàn Minh Thành (NKC trong thời hiện đại nhìn về quá khứ), Nguyễn Hoàng
hiện lên là một người tài ba cả về quân sự lẫn chính trị, ngoại giao. Ơng là người ln
bình tĩnh, sáng suốt, sống chan hòa với mọi người kể cả thuộc hạ và nhân dân; là người đa
mưu túc trí, cố kết được lịng dân, hóa giải mâu thuẫn dân tộc. Hơn bốn mươi năm vào
trấn thủ vùng đất mới, Nguyễn Hoàng đã tạo nên một cơ nghiệp lẫy lừng cho con cháu
muôn đời. Con người ấy đại diện cho tài năng, nhân cách và bản lĩnh của dân tộc Việt.


Tóm lại, trong TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI, sự luân chuyển giữa điểm nhìn của
NKC và nhân vật hết sức linh hoạt, đơi khi có sự ln phiên điểm nhìn của nhiều NKC
<i>(trường hợp Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng (Bùi Anh Tấn)) giúp cho việc đánh giá,</i>
luận giải những biến cố, sự kiện lịch sử một cách khách quan. Thơng qua điểm nhìn của
nhiều NKC (NKC chứng nhân), những phần khuất lấp, những mảng tối của lịch sử: bi
kịch vương quyền và hôn nhân trong cuộc đời Trần Thái Tông; Trần Thủ Độ - một người


có cơng hay có tội?; mối hiềm khích giữa hai chi trưởng và thứ trong dịng họ nhà Trần;
những chính sách bang giao của vua Trần Nhân Tông,… một lần nữa được đưa ra luận
bàn, đối thoại, luận giải một cách thấu đáo. Chính sự chuyển đổi linh hoạt điểm nhìn của
NKC tạo sự xen kẽ những câu chuyện một cách tự nhiên, thể hiện sự đa dạng của con
người cũng như hiện thực lịch sử.


<b>4.3. Diễn ngôn trần thuật</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(117)</span><div class='page_container' data-page=117>

văn học do M. Bakhtin nêu ra và ba là hướng nghiên cứu xã hội học, lịch sử tư tưởng điển
hình là Foucault. Ba cách tiếp cận khác nhau đã mở rộng nội hàm khái niệm diễn ngơn.
Trong đó, diễn ngơn là khái niệm chỉ cấu trúc, liên kết của đơn vị ngôn ngữ trên câu trong
quan niệm của các nhà ngữ học. Đối với nghiên cứu văn hóa là tìm hiểu các cơ chế tiềm
ẩn, những hạn chế lời nói trong thực tiễn giao tiếp, cịn trong nghiên cứu văn học, diễn
ngôn là chỉ chiến lược phát ngôn nghệ thuật, thể hiện trong các nguyên tắc cấu tứ, xây
dựng nhân vật, sử dụng ngôn ngữ để vượt thoát khỏi các hạn chế nhằm phát ra được tiếng
nói mới, thể hiện tư tưởng mới trong chỉnh thể sáng tác.


Lý thuyết tự sự học (G.Genette, Tz.Torodov, R.Barthes, Iu.Lotman) quan niệm
<i>diễn ngôn là cách thức cấu trúc văn bản. Mỗi văn bản tự sự là sự móc nối và luân phiên</i>
giữa diễn ngôn của NKC và diễn ngơn của nhân vật. Theo đó, một văn bản trần thuật
<i>thường bao gồm hai thành phần diễn ngôn: diễn ngôn của NKC và diễn ngôn của nhân</i>
<i>vật. Trong công trình Diễn ngơn truyện kể (Discours du récit), G.Genette cho rằng diễn</i>
ngơn truyện kể chính là cách thức kể một câu chuyện. Luận án chọn cách tiếp cận diễn
ngôn tức góc nhìn ngơn ngữ nghệ thuật, cụ thể là diễn ngơn trần thuật, và xem mỗi lớp lời
nói của người kể chuyện, của nhân vật là một tiểu loại diễn ngơn trần thuật. Theo đó, diễn
ngơn trần thuật bao gồm diễn ngôn của người kể chuyện và diễn ngôn của nhân vật. Diễn
ngôn của người kể chuyện gồm các lớp: diễn ngơn kể, diễn ngơn tả và diễn ngơn bình
luận; Diễn ngôn của nhân vật gồm các lớp: diễn ngôn đối thoại và diễn ngôn độc thoại.


<i><b>4.3.1. Diễn ngôn của người kể chuyện</b></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(118)</span><div class='page_container' data-page=118>

lời tả, lời bình luận hay lời gián tiếp tự do (còn gọi là lời nửa trực tiếp hay lời nói bán trực
tiếp).


<b>Bảng 4.1. Bảng thống kê về diễn ngôn của </b>NKC trong TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI


STT Tác phẩm


Diễn ngôn NKC
(trang/%)


Lời kể Lời tả Lời bình


1 <i>Hồ Quý Ly</i> 537 (67%) 89 (11%) 5 (0,6%)


2 <i>Giàn thiêu</i> 318 (60,3%) 48 (9,1%) 2 (0,3%)


3 <i>Mẫu Thượng Ngàn</i> 506 (62,7%) 61 (7,5%) 4 (0,5%)


4 <i>Hội thề</i> 187 (51%) 25 (6,8%) 4 (1%)


5 <i>Đất trời</i> 204 (51%) 41 (10,3%) 4 (1%)


6 <i>Minh sư</i> 289 (64,8%) 33 (7,45%) 2 (0,45%)


7 <i>Nguyễn Du</i> 171 (41,1%) 25 (6%) 3 (0,7%)


8 <i>Đàm đạo về Điều Ngự </i>


<i>Giác Hoàng</i> 104 (25,7%) 35 (8,6%) 25 (6,17%)


9 <i>Tám triều vua Lý</i> 634 (18%) 113 (3,2%) 6 (0,17%)
10 <i>Thế kỉ bị mất</i> 229 (49,5%) 36 (7,8%) 5 (1%)


<i>4.3.1.1. Diễn ngôn kể</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(119)</span><div class='page_container' data-page=119>

TTLS trước 1986 phần lớn sử dụng hình thức NKC ngơi thứ ba với cái nhìn tồn
tri, khả năng bao quát hiện thực rộng lớn của lời kể luôn chiếm ưu thế. Hơn nữa, diễn
ngôn lịch sử bị chi phối bởi cảm quan sử thi, cảm hứng ngợi ca, khẳng định niềm tự hào
về quốc gia, dân tộc, do đó, diễn ngơn trong TTLS giai đoạn này phần lớn theo khn
mẫu định sẵn, đồng nhất ít đổi mới. Tuy nhiên, tinh thần tân chủ nghĩa lịch sử đã giúp các
nhà văn đương đại xây dựng nhiều lớp diễn ngôn mới về lịch sử theo hướng đối thoại,
luận giải gắn liền cảm hứng thế sự - đời tư. Diễn ngôn kể của NKC không chỉ tái hiện bức
tranh lịch sử của các triều đại (Lý, Trần, Lê, Nguyễn) mà còn đi vào những thân phận
người trong sự va xiết của dịng xoay lịch sử. Diễn ngơn giai đoạn này thường chú ý đến
<i>những bi kịch của vua chúa, quan lại (Tám triều vua Lý, Đàm đạo về Điều Ngự Giác</i>
<i>Hồng, Hồ Q Ly, Thăng Long ký); nỗi cơ đơn, lạc lồi của người trí thức (Hội thề, Đất</i>
<i>trời, Nguyễn Du, Oan khuất); số phận đáng thương của những người phụ nữ (Đàn đáy,</i>
<i>Sắc đẹp khuynh thành, Mẫu Thượng Ngàn, Giàn thiêu); những nạn nhân của chiến tranh,</i>
những phận đời bất hạnh,… Đặc biệt, trong một số tác phẩm, diễn ngơn kể của NKC
<i>được chuyển hóa vào điểm nhìn bên trong của nhân vật (Hồ Nguyên Trừng trong Hồ Quý</i>
<i>Ly, Ba Váy trong Mẫu Thượng Ngàn, Từ Lộ trong Giàn thiêu, Cả Hinh trong Thế kỉ bị</i>
<i>mất, Nguyễn Trãi trong Oan khuất, Nguyễn Du trong Nguyễn Du,…) để nhân vật có thể</i>
tự thể hiện mình, từ đó, người đọc cảm nhận sâu sắc về cuộc đời, tài năng, tính cách, thói
quen, sở thích và thậm chí cả lối sống của những nhân vật lịch sử, làm cho nhân vật hiện
lên sinh động, đầy đặn và gần gũi hơn với đời sống hiện thực.


</div>
<span class='text_page_counter'>(120)</span><div class='page_container' data-page=120>

sự kiện lịch sử và những câu chuyện về cuộc đời, sự nghiệp cũng như số phận của những
<i>nhân vật lịch sử trong hơn 200 năm. Nhờ lời kể của NKC trong Thăng Long ký mà người</i>
đọc hiểu biết sâu sắc về một hơn qn bạo chúa Lê Long Đĩnh, người thích lấy việc giết
người và súc vật làm trò tiêu khiển. Lý Thái Tông không những là vị vua tài giỏi, một trí


tướng lão luyện trên chiến trường mà cịn là người rất đỗi bình dị, đời thường. Lý Thường
Kiệt, dù được vào cung làm quan chi cục hậu nhưng vẫn muốn xơng pha trận mạc, với
hồi bão lớn lao “muốn theo “Vệ Thanh, Hoắc Khứ” lo đi xa vạn dặm để lập công, lấy
được ấn phong hầu, để làm vẻ vang cho cha mẹ.


Lời kể trong tác phẩm không chỉ khắc họa nhân vật lịch sử mà còn phục dựng lại
những sự kiện lịch sử với đầy đủ chi tiết, mâu thuẫn, xung đột và những hệ lụy của chúng.
<i>Trong Hồ Quý Ly đó là những xung đột và mâu thuẫn những năm cuối nhà Trần: đất</i>
<i>nước và dòng tộc, lãnh thổ và quyền lực. NKC đã khắc họa lại những cuộc xâm chiếm</i>
của Chế Bồng Nga đánh phá Thăng Long và những mưu toan xâm lấn bờ cõi nhà Minh.
Song song đó là sự nổi loạn lên ngôi đổi họ của vua phường chèo Dương Nhật Lễ, sự nổi
dậy của giặc cỏ Phạm Sư Ôn và những toan tính bên trong hậu cung, tiêu biểu là sự thâu
<i>tóm quyền lực của Hồ Quý Ly. Trong Minh sư lời kể của NKC dẫn dắt người đọc lần theo</i>
những cuộc chiến tranh giành quyền lực giữa những thế lực Lê - Mạc, Trịnh – Nguyễn.
Những âm mưu, toan tính của cha con Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng nhằm tiêu diệt thế lực của
<i>những người có nguy cơ đe dọa đến ngơi cửu trùng, đặc biệt là Nguyễn Hồng. Trong Tám</i>
<i>triều vua Lý là những xung đột về quyền lợi, những âm mưu ngấm ngầm trong chốn hậu</i>
cung và những cuộc tranh giành quyền lực giữa các thế lực triều đình. Chẳng hạn, trong
<i>Thiền sư dựng nước, đó là cuộc tranh giành quyền lực giữa các con của vua Lý Thái Tổ;</i>
<i>trong Con đường định mệnh, là mâu thuẫn về quyền lợi giữa Thái hậu Thượng Dương và</i>
Hoàng thái phi Ỷ Lan.


</div>
<span class='text_page_counter'>(121)</span><div class='page_container' data-page=121>

<i>Tạ Thuần Khanh (Tám triều vua Lý – Hồng Quốc Hải); là mối tình đồng tính đầy trái</i>
<i>ngang của Lý Thường Kiệt và Lý Nhật Tôn (Bí mật hậu cung – Bùi Anh Tấn); nỗi lịng</i>
<i>oan khuất, bi kịch tru di tam tộc của Nguyễn Trãi (Oan khuất – Bùi Anh Tấn); những dằn</i>
<i>vặt, hối tiếc của Lê Lợi (Đất trời – Nam Dao); những khát khao tự do của Nguyễn Du</i>
<i>(Nguyễn Du – Nguyễn Thế Quang); là bi kịch cơ đơn của người trí thức như Nguyễn Trãi,</i>
Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Du; là những tiếng kêu thân phận của người phụ nữ, người vợ,
người lính trong cái khốc liệt của chiến tranh…



Ngoài ra, trong TTLS mười năm đầu thế kỉ XXI, để gia tăng sắc thái trong lời
NKC, diễn ngơn kể cịn có sự kết hợp giữa ngôn ngữ thuần Việt gần gũi dễ hiểu với ngôn
<i>ngữ dân gian. Với những tác phẩm Tám triều vua Lý (Hoàng Quốc Hải), Mẫu Thượng</i>
<i>Ngàn (Nguyễn Xuân Khánh), Sắc đẹp khuynh thành (Kiều Thanh Tùng),… các tác giả đã</i>
sử dụng lời kể đời thường, giản dị như trong ca dao nhưng vẫn tạo được khơng khí lịch sử
và không làm mất đi hồn cốt của tiếng Việt. Lời kể của NKC cịn có sự kết hợp những
yếu tố văn hóa, lịch sử, tơn giáo trong một hệ thống diễn ngôn vừa thống nhất vừa đa
<i>dạng. Giàn thiêu, Tám triều vua Lý, Đàm đạo về Điều ngự Giác Hoàng, Đội gạo lên chùa</i>
<i>đậm màu sắc của diễn ngôn Phật giáo; Hồ Quý Ly, Hội thề, Đất trời là hệ thống diễn ngôn</i>
<i>kể mang màu sắc Nho giáo, Mẫu Thượng Ngàn có sự kết hợp nhiều kênh ngơn ngữ giữa</i>
thuần Việt và Thiên Chúa giáo… Như vậy, thông qua lời kể, NKC đã xây dựng nên
những hình tượng nhân vật với đầy đủ chiều kích, đồng thời, đi sâu khám phá đời sống
nội tâm, những suy nghĩ, những chuyển biến tinh vi trong tính cách và tâm hồn nhân vật.
Từ đó, các nhân vật hiện liên khơng cịn là những pho tượng cẩm thạch vô tri vô giác nữa
mà tất cả mang một hình hài và tính cách hết sức sinh động, sắc nét và chân thực.


<i>4.3.1.2. Diễn ngôn tả</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(122)</span><div class='page_container' data-page=122>

truyện kể, nhưng truyện kể bản thân nó lại khơng loại bỏ miêu tả” [4, 97]. Vì vậy, sự xuất
hiện đúng lúc của lời tả sẽ làm tăng hiệu quả trần thuật. Nếu lời kể có phần khơ thì ngược
lại, lời tả lại vơ cùng mượt mà, trau chuốt, có sức gợi và lay động người đọc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(123)</span><div class='page_container' data-page=123>

kính của vùng Ái Tử với vùng đất trống trải, cát trắng, con đường làng gai góc, kinh đô Trà
Bàn oai hùng in dấu một thời vàng son của đế chế Chămpa hùng mạnh.


Sử dụng hệ thống ngơn ngữ giàu hình ảnh và mang giá trị tạo hình sâu sắc, lời tả của
người kể chuyện trong TTLS đã xây dựng nên những bức chân dung sinh động về các
<i>nhân vật lịch sử, đặc biệt là hệ thống nhân vật nữ. Trong các tác phẩm Mẫu Thượng</i>
<i>Ngàn, Giàn thiêu, Mạc Đăng Dung, Đất trời, Nguyễn Thị Lộ, … các tác gia không ngần</i>
ngại miêu tả những bộ phận nhạy cảm trên cơ thể người phụ nữ như đôi vú, làn da, mông,


đùi,… nhằm thể hiện vẻ đẹp mềm mại, gợi tình, giàu nữ tính. Đặc biệt, khám phá vẻ đẹp
<i>thân thể của người phụ nữ, các nhà văn đương đại, đặc biệt Phạm Ngọc Cảnh Nam (Thế</i>
<i>kỉ bị mất) còn muốn nhấn mạnh đến yếu tố phồn thực đặt trong mối tương giao hòa hợp</i>
đất trời, trong sự vĩnh cửu của tình u và tính dục: “Hai mươi lăm tuổi đời con gái, ngọn
lửa yêu đương bùng cháy lên hừng hực trong thân xác, làm nàng say ngất. Nàng nhắm
nghiền mắt lại, điên cuồng siết chặt lấy tơi, ghì đơi mơi vào bầu ngực đang căng nẩy lên
như hai con chim vừa sổ lồng của nàng.”[tr.103]. Những trang miêu tả đời sống tính dục
sống động khơng làm mất đi vẻ đẹp mà cịn tơn tạo thêm giá trị đầy nhân bản cho tác
phẩm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(124)</span><div class='page_container' data-page=124>

thể xã hội và sắc thái niềm tin vô thức thuộc đời Lý. Đấy là kiểu hành động và suy ngẫm,
phản xạ của sự hiểu biết tàn bạo nhất của con người về thế giới khách quan của tâm linh.
Đấng sáng tạo ra lịng ước muốn chính là con người và hình ảnh giàn thiêu (Võ Thị Hảo)
giống như một biểu tượng tự nhiên, trong vô thức, những ngọn lửa ma mị và mê hoặc ấy nói
với chúng ta về số phận của chính con người. Nhìn chung, cùng với lời tả, lời kể trong các
tác phẩm đã được NKC vận dụng khá thành công, qua lời tả người đọc có được cái nhìn chân
thực hơn về khơng gian cảnh vật cũng như con người trong tác phẩm. Lời tả xuất hiện đúng
lúc, hài hòa trong tác phẩm thể hiện sự sáng tạo nghệ thuật của các nhà TTLS đương đại.


<i>4.3.1.3. Diễn ngơn bình luận</i>


Giống như lời kể và lời tả, lời bình cũng là một dạng phát ngơn của NKC. Nếu lời
kể và lời tả vẫn giữ được phần nào tính khách quan thì lời bình là lời phát biểu trực tiếp
mang tính chủ quan của NKC. Thơng qua lời bình người đọc có thể đối thoại, luận giải cùng
nhà văn về các nhân vật lịch sử và các sự kiện lịch sử đã diễn ra trong quá khứ.


Trong TTLS Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI, chúng tơi nhận thấy lời bình của
NKC thường mang những triết lý, suy nghiệm về những vấn đề lớn lao của nhân sinh, thế
<i>cuộc, đặc biệt là sức mạnh quyền lực trong triều đình phong kiến. Chẳng hạn, trong Hồ</i>
<i>Quý Ly, con người phải lao đao trong toan tính, sự toan tính của quyền lực là những “âm</i>


mưu trong bóng đêm, như cái nhọt bọc càng lúc càng tấy, nhưng chẳng ai nhìn thầy cả”
<i>[tr.156]. Trong Tám triều vua Lý sức mạnh của “chất men quyền lực” được NKC nâng lên</i>
thành những triết lý sâu sắc: “Thế mới biết ở đời khơng có loại bẫy nào dụ được con
người vào trịng một cách đầy hứng khởi và tận lực dấn thân như cái bẫy quyền lực”,
“Phải chăng cuộc sống vương giả và những quyền uy tự thân nó đã làm hư hỏng một con
người”, “Đúng là ở đời khơng có chất men nào làm cho con người ta hư hỏng và sa đọa
<i>nhanh như chất men quyền lực”. Trong Oan khuất, sức mạnh quyền lực luôn ám ảnh và</i>
trở đi trở lại trong những trang văn: “Khi con người ta vươn lên đỉnh cao của quyền lực,
người ta khơng tiếc gì những âm mưu, thủ đoạn để mưu hại lẫn nhau” [tr.137]. Quyền lực
thỏa mãn được đam mê khi được xây dựng trên sự đau đớn, sự phục tùng của mọi người
<i>dành cho nó trong Đất trời (Nam Dao). Trong Nguyễn Du, NKC đã phải thốt lên rằng:</i>
“Ôi! Con đường quyền lực, con đường danh lợi làm cho con người càng bị tha hóa”
[tr.215].


</div>
<span class='text_page_counter'>(125)</span><div class='page_container' data-page=125>

luận giải và kiếm tìm những giá trị vĩnh hằng của văn hóa dân tộc. Những luận bàn của
<i>NKC trong Mẫu Thượng Ngàn về sức mạnh của Đạo Mẫu trong việc chở che, hóa giải và</i>
cứu rỗi những linh hồn đang dần bị lụi tàn bởi văn hóa ngoại lai; hoặc là những trăn trở,
suy tư của một người Trung Hoa về sự kỳ lạ, bí ẩn của nền văn hóa bản địa: “Nước chúng
tơi là một nước văn hiến hơn xứ sở này, vậy tại sao rất nhiều người sang đây lại không
quay về quê cũ, để rồi trở thành người xứ này”[tr.805]; những giá trị văn hóa Phật giáo
<i>đang trên đà tha hóa trong Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân Khánh); giá trị của văn hóa</i>
<i>Phật giáo trong kiến tạo nhà nước và giáo dục nhân tâm trong Đàm đạo về Điều Ngự</i>
<i>Giác Hoàng (Bùi Anh Tấn).</i>


Khi cảm hứng sử thi chuyển sang cảm hứng thế sự - đời tư, dường như các nhà
TTLS đương đại quan tâm nhiều hơn đến thân phận con người, bi kịch cá nhân trong
dịng xốy của lịch sử, như một nhu cầu cấp thiết nhằm chuyển tải những suy tư về vận
<i>mệnh dân tộc trong tương quan với số phận con người. Trong Tám triều vua Lý, nhà văn</i>
đã mượn lời của NKC để nêu lên triết lý về vần xoay cuộc đời trong biến thiên của lịch
sử: “mọi chuyện rồi cũng qua thơi, vì thời gian là người thầy thuốc vĩ đại làm cho ai nấy


đều dịu bớt nỗi đau và dần quên cả nỗi giận, buồn” và “ở đời chuyện gì cũng có thể xảy
ra, và người đời cũng dễ quên cả điều thiện lẫn điều ác” [tr.696]; và sự nhầm lẫn của
người đời quả là tai hại: “người đời nhầm lẫn lấy địa vị thay cho tài năng và nhân cách
đích thực” [tr.579]. Thân phận của những nàng ca nữ như Bạch Dung, Bạch Vân trong
<i>Đàn đáy trong cuộc đời trầm luân của kiếp người: “nàng nhận ra nàng đang ở trong một</i>
vòng xoáy hỗn độn của cuộc đời. Nàng là nàng và nàng cũng là chị em với trăm ngàn
nhiễu nhương và chỉ cần nàng xao nhãng một chút, tiếng hát sẽ trôi tuột đi như sương trên
đầu ngọn cỏ” [tr.67].


</div>
<span class='text_page_counter'>(126)</span><div class='page_container' data-page=126>

đả kích, phê phán các nhân vật lịch sử như: Lê Long Đĩnh, Ỷ Lan, Đỗ Anh Vũ, Lê thái
hậu, Lý Cao Tông, Nguyễn Thù, Trịnh Sâm, Nguyễn Hữu Chỉnh, Lê Chiêu Thống,…
Nhìn chung, sự xuất hiện đúng lúc diễn ngơn bình luận của NKC đã kiến tạo nên lớp diễn
ngôn lịch sử mới theo hướng luận giải, đối thoại. Hệ thống diễn ngơn mới này đã góp
phần thể hiện trực tiếp thái độ, tư tưởng và quan điểm mới mẻ, sâu sắc của nhà văn về các
vấn đề trong lịch sử. Lịch sử được giải phóng khỏi những quy phạm xưa cũ để mang
trong mình nó những hình thức thể hiện hoàn toàn mới, đầy sáng tạo và sức sống mới.


<i><b>4.3.2. Diễn ngôn của nhân vật</b></i>
<i>4.3.2.1. Diễn ngôn đối thoại </i>


Đối thoại là một trong những đặc trưng của ngôn ngữ tiểu thuyết. Thông qua đối
thoại trực tiếp giữa các nhân vật, tính cách nhân vật được thể hiện. Hình thức đối thoại
trực tiếp trong tác phẩm thể hiện phát ngôn chủ quan của nhân vật, nhưng là lời khách
quan của NKC, để nhân vật tự nói lên tiếng nói của mình, nhờ đó việc thể hiện nhân vật
tương đối khách quan và toàn diện. Tuy nhiên, trong tiểu thuyết, không phải mọi lời thoại
của nhân vật được giữ nguyên là lời đối đáp trực tiếp mà có khi NKC kể lại nhân vật đã
nói những gì, đối đáp ra sao. Lúc này, lời thoại của nhân vật đã được nhìn nhận dưới góc
nhìn chủ quan của NKC và trở thành lời kể đối thoại.


Các nhà tiểu thuyết đã có sự kết hợp giữa diễn ngơn của NKC với diễn ngôn của


nhân vật trong việc xây dựng thế giới hình tượng nghệ thuật, trong đó diễn ngơn đối thoại
của nhân vật chiếm số lượng lớn và là thành phần quan trọng trong diễn ngôn của tiểu
thuyết. Diễn ngôn đối thoại trong TTLS mười năm đầu thế kỉ XXI bao gồm đối thoại từng
cặp nhân vật (hình thức song thoại) và đối thoại giữa rất nhiều nhân vật với nhau (hình
thức đa thoại).


<b>Bảng 4.2 Thống kê về diễn ngôn song thoại trong TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI</b>


<b>ST</b>


<b>T</b> <b>Tên tiểu thuyết</b>


<b>Số</b>
<b>trang</b>


<b>Số</b>
<b>lượt</b>
<b>thoại</b>


<b>Số</b>
<b>cuộc</b>
<b>thoại</b>


<b>Số</b>
<b>lượt</b>
<b>trên</b>
<b>trang</b>


<b>Số lượt</b>
<b>trên cuộc</b>



1 <i>Giàn thiêu</i> 527 616 92 1.69 6.7


2 <i>Hồ Quý Ly</i> 802 1.108 132 1.38 8.4


</div>
<span class='text_page_counter'>(127)</span><div class='page_container' data-page=127>

4 <i>Thế kỉ bị mất</i> 484 829 113 1.7 7.3


5 <i>Đất trời</i> 397 930 100 2.34 9.3


6 <i>Hội thề</i> 366 471 62 1.28 7.6


7 <i>Đàm đạo về Điều</i>


<i>Ngự Giác Hoàng</i> 405 983 88 2.43 11.2


8 <i>Tám triều vua Lý</i> 3509 3193 319 3.30 10.00


<b>Bảng 4.3. Thống kê về diễn ngôn đa thoại trong TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI</b>


<b>ST</b>


<b>T</b> <b>Tên tiểu thuyết</b>


<b>Số</b>
<b>trang</b>


<b>Số</b>
<b>lượt</b>
<b>thoại</b>



<b>Số</b>
<b>cuộc</b>
<b>thoại</b>


<b>Số</b>
<b>lượt</b>
<b>trên</b>
<b>trang</b>


<b>Số lượt</b>
<b>trên cuộc</b>


1 <i>Giàn thiêu</i> 527 290 50 0.55 5.8


2 <i>Hồ Quý Ly</i> 802 1230 123 1.53 10.0


3 <i>Mẫu Thượng Ngàn</i> 807 815 97 1.0 8.4


4 <i>Thế kỉ bị mất</i> 484 113 43 0.23 2.6


5 <i>Đất trời</i> 397 285 38 0.7 7.5


6 <i>Hội thề</i> 366 800 72 2.18 11.12


7 <i>Đàm đạo về Điều</i>


<i>Ngự Giác Hoàng</i> 405 1.033 154 2.55 6.7


8 <i>Tám triều vua Lý</i> 3509 3664 322 1.0 11.37



</div>
<span class='text_page_counter'>(128)</span><div class='page_container' data-page=128>

<i>trần thuật. Cuộc đối thoại giữa Thái sư Lý Đạo Thành và Nguyên phi Ỷ Lan trong Con</i>
<i>đường định mệnh của Hoàng Quốc Hải có trường đoạn chen ngang cuộc hội thoại, đó là</i>
lời của người kể chuyện nhưng mang tư tưởng của nhân vật Lý Đạo Thành, nó chen vào
lời trực tiếp của nhân vật và làm gián đoạn cuộc thoại nhằm thể hiện những trăn trở, lo
lắng bên trong của nhân vật Đạo Thành về đức tính của Ỷ Lan:


– Dạ, nhân Thái sư nói đến chữ tâm. Chữ tâm bên nhà Phật, tôi đã được
đại lão tăng thống Lâm Huệ Sinh chỉ dẫn, vậy chớ còn chữ tâm bên nhà Nho
thì nghĩa hiểu ra sao, hành như thế nào, lại nữa tâm Nho với tâm Phật có gì
khác nhau khơng, xin Thái sư cho được thụ giáo.


<i>Nghe nguyên phi hỏi, Thái sư Lý Đạo Thành vừa mừng lại vừa lo. Mừng</i>
<i>vì chưa thấy có người đàn bà nào lại ham học, ham hiểu biết như người này.</i>
<i>Ham học hỏi, thành tâm tu tập để hoàn thiện nhân cách ắt sẽ trở thành người</i>
<i>thiện đức. Nhưng ham học hỏi để mưu cầu cho một toan tính ích kỷ mà khi</i>
<i>quyền lực vào tay thì đó lại là mối nguy cho xã tắc; ấy là chỗ Đạo Thành lo</i>
ngại. Sực nhớ chưa đáp lời Ỷ Lan, Thái sư bèn lên tiếng:


– Thưa nguyên phi, theo thiển ý của tôi đã lý hội được Nho cho cái Tâm là
phần chủ tể trong con người ta…[tr.513–514].


Ngoài ra, trong một số trường hợp, cuộc thoại của nhân vật có quan hệ trao đáp rất
lỏng lẻo, không chặt chẽ, hoặc là không bảo đảm nguyên tắc luân phiên lượt lời. Chẳng
<i>hạn, cuộc đối thoại giữa vua Thái tổ và Thiền sư Vạn Hạnh trong Thiền sư dựng nước từ</i>
trang 77 – 80, có 15 lượt lời, trong đó, nguyên tắc luân phiên lượt lời được đảm bảo từ
lượt lời thứ 1 đến lượt lời thứ 5 nhưng từ lượt lời thứ 6 đến lượt lời thứ 15 đều là lượt lời
của Thiền sư Vạn Hạnh với 10 lượt lời liên tiếp mà khơng cần có lời đáp của Lý Công
Uẩn. Hiện tượng “cướp lời” của nhân vật trong cuộc thoại nhằm bộc lộ những tư tưởng về
đường lối xây dựng vương triều của vị thiền sư, đồng thời, tạo khoảng lặng để Cơng Uẩn
có điều kiện lĩnh hội, suy ngẫm để rồi tn trào trong dịng suy tưởng ở cuối cuộc thoại.



</div>
<span class='text_page_counter'>(129)</span><div class='page_container' data-page=129>

thần với thần: đại nhân/theo phẩm hàm – tơi; có lối xưng hô giữa người trên và kẻ dưới:
đại nhân – kẻ hạ thần; có lối xưng hơ giữa chồng và vợ: chàng – nàng, phu qn/tướng
<i>cơng – phu nhân/thiếp… Ví dụ, nhân vật Trần Thuận Tôn và Hồ Nguyên Trừng (Hồ Q</i>
<i>Ly) ngồi quan hệ vua tơi họ cịn có quan hệ họ hàng (Thuận Tôn là em rể của Nguyên</i>
Trừng), và là những người bạn rất thân. Thế nhưng trong cách xưng hô họ vẫn giữ trọn
đạo vua tôi nghiêm ngặt. Thuận Tơn nói với Ngun Trừng: “Khanh vẫn đắm mình trong
rượu ư?”. Ngun Trừng đáp: “Hạ thần bất kính. Mong bệ hạ tha lỗi nhưng kẻ tiểu thần
này không thể không say được”. Thuận Tôn cười nhếch mép trả lời: “Cũng như ta chứ
sao? Thật không thể không đi tu được” [tr.450]. Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật trong
<i>Hội thề, là thứ ngơn ngữ giao tiếp mang tính quy phạm của thời đại: chúa công, khanh, ta,</i>
tiểu nhân, đại huynh, chàng, thiếp, quan ngài, kẻ học trò này… Loại ngôn ngữ này phủ
lên màu sắc lịch sử, đảm bảo tính chân thực cho tác phẩm.Thơng qua hình thức đối thoại,
người đọc nhận ra địa vị xã hội, chức tước, mối quan hệ thân sơ… giữa các nhân vật. Vị
thế của Lê Lợi chắc chắn phải khác Phạm Vấn và mối quan hệ giữa Lê Lợi với Phạm Vấn
cũng không giống với mối quan hệ giữa Lê Lợi và Nguyễn Trãi.


Bên cạnh đó, diễn ngơn đối thoại cịn mang tính chất quan phương cổ kính được
thể hiện qua mỗi lời nhân vật đối thoại, cho ta thấy được đời sống của mỗi triều, mỗi nếp
<i>sống trong xã hội, cộng đồng. Chẳng hạn, trong Giàn thiêu, Tám triều vua Lý hay Lý</i>
<i>Công Uẩn, Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng,… Võ Thị Hảo, Hoàng Quốc Hải, Ngô</i>
Văn Phú, Bùi Anh Tấn đều xây dựng bối cảnh lịch sử thời Lý, Trần ghi nhận sự phát triển
thịnh trị của đạo Phật. Người đọc dễ dàng tiếp cận hàng loạt những ngôn từ Phật giáo qua
<i>lời đối thoại của nhân vật. Trong Hồ Quý Ly xuất hiện rất nhiều lời thoại của nhân vật về</i>
ngôn ngữ Nho giáo: “Làm tơi phải hết lịng trung, làm quan phải giữ than bạch, làm con
phải giữ tròn đạo hiếu. Nếu là con mà bất hiếu, làm tôi mà bất trung thì thần minh tru
<i>diệt” [tr.19]. Đến Mẫu Thượng Ngàn, Thiên chúa lấn át văn hóa bản địa, con người quay</i>
về với đạo Mẫu. Do đó, ngơn ngữ theo ngun lý tính Mẫu được phát ngơn từ những câu
chuyện về “Thánh Mẫu, giá Mẫu, cơ hầu cho đến cơ Chín, cơ Bé, bà Chúa Thác bờ, bà
<i>Đà… Đàn đáy (Trần Thu Hằng) mang ngôn ngữ nho nhã của mảnh đất Thăng Long văn</i>


vật: thánh hiền, khuyển binh, tội khiếm đài, giáo phường, cõi tịch diệt, phong lưu quân tử,
duyên tình tục lụy, bán phấn bn hương,…


</div>
<span class='text_page_counter'>(130)</span><div class='page_container' data-page=130>

TTLS đã có sự cách tân đáng kể. Ngơn ngữ thường có sự kết hợp giữa ngơn ngữ quan
<i>phương cổ kính và ngơn ngữ của đời sống hiện đại, trong đó, tính đối thoại và tính cá thể</i>
<i>hóa của ngơn ngữ nhân vật được biểu hiện qua khả năng lột tả tính cách và đời sống nội</i>
<i>tâm của nhân vật. Mỗi nhân vật được nhà văn quan niệm như một ý thức, một tiếng nói,</i>
một chủ thể độc lập, nên ngơn ngữ đối thoại giữ vai trị quan trọng trong việc khắc họa
tính cách nhân vật. Chẳng hạn, những tranh luận về chính sự, thời cuộc bộc lộ một Hồ
Quý Ly với cá tính ngang tàng, quyết liệt, bướng bỉnh và quyết đốn. Khi giận dữ ơng dùng
cả những lời nói báng bổ: “Chu Hi là cái đếch gì! Trình Di cũng là cái đếch gì! Thuần một lũ
ăn cắp văn mà thơi…” [tr.732]. Khi đối thoại với con, ông trở thành một người cha gần gũi,
hiền lành. Ơng nói với con bằng những lời thân mật, dịu dàng: “Anh Trừng! Đã đến lúc cha
phải vào Tây Đô” [tr.669], “Anh Trừng đấy hả? Cha biết là anh sẽ đến” [tr.828].


Ví dụ, đoạn ơng với Nguyên Trừng:


“Ít ra ta cũng muốn xem thái độ quan thái bảo đối đãi với ta ra sao… Hà! Ta muốn
Quỳnh Hoa phải là con dâu ta… Ta muốn quan thái bảo phải là thân gia của ta…
Ông ta muốn thẳng thừng với ta ư? Thì ơng ta cứ việc thẳng thừng! Ông ta muốn là
kẻ trung trinh ư? Thì ơng ta cứ việc là kẻ trung trinh! Ta đâu có muốn và đâu có
thể cấm được ai… Chỉ có điều, nhất thiết ơng ta phải là thân gia với ta!” [tr.60].
Qua phát ngôn của mỗi nhân vật, người tiếp nhận không chỉ phát hiện ra bản chất
của chính nhân vật đó mà cịn có được những nhận định từ nhiều phía đối với các sự kiện
cũng như các nhân vật khác trong câu chuyện. Nét nho nhã, nhân hậu, vị tha của Nguyễn
Trãi không thể lẫn vào sự dung tục, võ biền, hiếu sát và tham tàn tốt lên từ những phát
ngơn mang tính “kinh điển” của Lê Ngân: “Nó chịu hàng thì tơi bú buồi cho các ông” hay
“Quân Sở tràn vào Bành Thành, trong ba ngày nấu hai mươi vạn người, tướng sĩ say
khướt, túi áo túi quần khơng chứa hết vàng bạc, binh lính đứa nào cũng lặc lè đi không
nổi. Thế mới xứng là con nhà võ. Cịn cánh ta thì mặc giáp trụ hộ vệ mấy anh học trị tiến


vào Đơng Quan như mấy thằng ăn xin sao?” [tr.174]. Tính cá thể hóa của ngơn ngữ nhân
vật cịn được người viết chú ý qua những biểu hiện rất nhỏ nhưng đầy tinh tế. Cách nói
mang đặc chất miền Trung của tướng quân Đinh Lễ hay của hàng tướng Thái Phúc trong
<i>Hội thề, của Lụa, Cái Hoa, Cả Hinh trong Thế kỉ bị mất: o ni, mần chi, ri, mô, răng, rứa,</i>
nỏ, he,… chính lớp ngơn ngữ này càng làm cho nhân vật trở nên gần gũi và chân thực.


</div>
<span class='text_page_counter'>(131)</span><div class='page_container' data-page=131>

Nguyễn Thế Quang, Thái Bá Lợi, Hoàng Quốc Hải, Phạm Ngọc Cảnh Nam,… nhân vật
thực hiện cuộc thoại theo hướng đối thoại, luận giải về văn hóa, tư tưởng, triết học, tơn
<i>giáo, thậm chí, trong một vài tác phẩm như Tám triều vua Lý, Đàm đạo về Điều Ngự Giác</i>
<i>Hoàng, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa yếu tố tôn giáo là chủ đề nổi bật chi phối</i>
phần lớn cuộc đối thoại của nhân vật: đối thoại giữa Lý Thái Tổ và thiền sư Vạn Hạnh về
đạo trị nước trên tinh thần kết hợp “tam giáo đồng nguyên”; đối thoại giữa thiền sư Vô Úy
và sư Vô Trần về quan niệm duyên và nghiệp trong giáo lý nhà Phật; đối thoại giữa các vị
<i>thiền sư với Đức Giác Hoàng về đạo và đời; đối thoại giữa các nhân vật trong Mẫu Thượng</i>
<i>Ngàn về sự xâm nhập của văn hóa ngoại lai đến nền văn hóa bản địa, mà Đạo Mẫu là hồn</i>
cốt dân tộc Việt... Tóm lại, ngơn ngữ đối thoại trong TTLS đương đại là thứ ngôn ngữ giàu
chất triết luận nhằm giúp nhà văn chuyển tải những quan điểm của mình về quá khứ và hiện
tại, đồng thời tạo ra những khoảng trống để người đọc cùng suy ngẫm, lý giải các vấn đề
lịch sử trong sự kết nối với hiện tại. Thông qua đối thoại, TTLS mười năm đầu thế kỉ XXI
khơng chỉ khắc họa tính cách nhân vật, bối cảnh thời đại mà còn thể hiện tư tưởng, quan
điểm của con người trong những thời điểm lịch sử nhất định.


<i>4.3.2.2. Diễn ngôn độc thoại </i>


Độc thoại nội tâm là thủ pháp nghệ thuật không thể vắng mặt trong việc khám phá
“con người trong con người”, nó cho phép nhà văn và người đọc trở thành những nhà du
hành trong thế giới tâm hồn sâu kín của nhân vật. Độc thoại nội tâm “là tiếng nói bên
trong tâm hồn nhân vật, là lời nhân vật tự nói về mình, tự bộc lộ những suy tư thầm kín,
thể hiện trực tiếp q trình tâm lí, nội tâm, mô tả hoạt động cảm xúc suy nghĩ của con
người trong dịng chảy trực tiếp của nó” [74,108]. Nhờ độc thoại nội tâm mà thế giới bên


trong đầy bí ẩn của con người khơng cịn là những khối băng đơng cứng, khơng cịn xa lạ
với chúng ta.


Tinh thần đổi mới, với sự trỗi dậy của ý thức cá nhân, yếu tố đời tư được các nhà
văn quan tâm chú ý nhiều hơn giai đoạn trước đây. Vì thế, những cảm xúc, trăn trở, suy
tư, chiêm nghiệm của con người về quá khứ được nhìn nhận đa chiều hơn. TTLS giai
đoạn này đã khơng ngừng tìm tịi, sáng tạo về mặt diễn ngôn trên cơ sở chuyển dịch đáng
kể từ diễn ngôn sử thi sang diễn ngôn đời thường với cái nhìn đầy nhân văn. Và độc thoại
nội tâm là một trong những biểu hiện sinh động cho sự chuyển dịch ấy.


<b>Bảng 4.4. Bảng thống kê các cuộc độc thoại trong TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI </b>
<b>(tham khảo số liệu [65, 139])</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(132)</span><div class='page_container' data-page=132>

1 <i>Giàn thiêu</i> 527 142 (27%) 17 (3.2%)


2 <i>Hồ Quý Ly</i> 802 256 (32%) 19 (2.4%)


3 <i>Mẫu Thượng Ngàn</i> 807 220 (27.3%) 11 (1.4%)


4 <i>Đất trời</i> 397 138 (35%) 10 (2.5%)


5 <i>Hội thề</i> 366 134 (36.6%) 16 (4.4%)


6 <i>Đàm đạo về Điều Ngự </i>


<i>Giác Hoàng</i> 405 242 (59.75%) 25 (6.2%)


7 <i>Thế kỉ bị mất</i> 490 156 (31.8%) 21 (4.3%)


8 <i>Bí mật hậu cung</i> 394 169 (42.9%) 30 (7.6%)



9 <i>Tám triều vua Lý</i> 3509 641 (18.2%) 64 (1.8%)


10 <i>Nguyễn Du</i> 416 381 (91.6%) 35 (8.4%)


</div>
<span class='text_page_counter'>(133)</span><div class='page_container' data-page=133>

về con đường khổ hạnh mà chú đang độc bộ: “Phải nó những lúc tơi khơng kiềm chế
được để vi phạm điều giới, tôi vẫn sám hối. Tuy nhiên, buồn thay! Cuộc đời ln có
những cơn giơng tố và dù tôi ở chùa, tôi đi tu, tôi cũng không tránh được những cơn
giông, và cũng buồn thay, tôi là kẻ đức mỏng phúc bạc…” [tr.107].


</div>
<span class='text_page_counter'>(134)</span><div class='page_container' data-page=134>

hoài nghi, đố kỵ của chủ, tướng Lam Sơn: “Con người sẵn sàng kèn cựa so đo với nhau
từng tí một, tại sao phải vậy? Ta tự hỏi mình… Lịng ta trong trắng, thành thật và ngay
thẳng. Ta đem hết sức và trí của mình ra phục vụ cho Đại Vương và mọi người, chỉ có
một mong mỏi duy nhất là đánh đuổi quân Minh…” [tr.169]. Những khoảnh khắc tâm
trạng và dòng ý thức trên đã cho thấy một Nguyễn Trãi chính trực, trong sạch, thành thật,
ngay thẳng, nhạy cảm, hết lịng vì kháng chiến, vì mọi người, khơng màng danh lợi và lợi
ích cá nhân nhưng cuộc đời lại đầy bi thương.


Như vậy, độc thoại nội tâm đã làm cho diện mạo tinh thần của nhân vật trở nên nổi
bật, sắc nét, đồng thời diện mạo cảm quan của tác giả cũng được thể hiện sinh động, độc
đáo và sâu sắc. Cùng với hành động và lời đối thoại, độc thoại nội tâm và quá trình tự ý
thức của nhân vật cho phép chúng ta khám phá con người tâm lý, khám phá bản thể của
con người trong hành trình của cuộc sống.


<b>Tiểu kết</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(135)</span><div class='page_container' data-page=135></div>
<span class='text_page_counter'>(136)</span><div class='page_container' data-page=136>

<b>KẾT LUẬN</b>


<b>1. Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ sau đổi mới, đặc biệt giai đoạn đầu thế kỉ XXI thực</b>
sự có sự thay đổi một cách tồn diện trên bước đường tìm kiếm và thử nghiệm những


hình thức nghệ thuật mới lạ, tạo nên diện mạo mới cho thể loại. Do đó, nhận diện những
đặc trưng nghệ thuật của tiểu thuyết lịch sử giai đoạn mười năm đầu thế kỉ XXI, chúng tôi
đã chỉ ra sự vận động về quan niệm thể loại: từ truyền thống “trung thành với lịch sử” đến
hiện đại “đối thoại, luận giải, nhận thức lại lịch sử”. Có thể nói, mặc dù cịn có hạn chế,
song tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này thực sự đã tạo nên sự đa dạng trong phong cách cá
nhân, sự phong phú về đề tài sáng tác, đặc biệt, có sự phong phú trong phương thức thể
hiện và cách tân về bút pháp nghệ thuật. Những thành tựu này là kết quả của quá trình đổi
mới tư duy tiểu thuyết, những quan niệm mới về tư duy sáng tác thể loại: lịch sử được đặt
trong sự đối thoại với hiện tại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(137)</span><div class='page_container' data-page=137>

kết cấu “khung” truyện kể theo lối tuyến tính thì đến giai đoạn này, các tác gia tiểu thuyết
lịch sử đã có ý thức tìm tịi, sáng tạo nghệ thuật kết cấu trên cơ sở kết hợp giữa truyền
thống và hiện đại. Tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này, ghi nhận những thành công đáng kể
của kiểu kết cấu chương hồi truyền thống trên tinh thần đổi mới hình thức thể hiện. Đặc
biệt, kiểu kết cấu lắp ghép, đồng hiện, đa tầng bậc được sử dụng đã mang lại những hiệu
quả nhất định trong việc gia tăng tính đối thoại, luận giải lịch sử. Bên cạnh đó, tiểu thuyết
lịch sử giai đoạn này đã mở rộng biên độ sáng tạo. Lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử đương
đại không đơn thuần chỉ được chiêm bái, ngưỡng vọng, đề cao một chiều nữa mà lịch sử
được đưa raluận giải, đối thoại cùng hiện tại. Lịch sử được mở rộng trường độ tối đa sang
địa hạt của nhiều vấn đề nhân sinh thế sự như văn hóa, phong tục, tập qn, tơn giáo, tín
ngưỡng,… Sự xâm nhập của các thể loại như truyện ngắn, thơ, kịch,… vào trong tiểu
thuyết lịch sử thực sự làm mới thể loại. Đó là sự tương tác đồng đại diễn ra theo hình thức
tiếp sức thể loại khiến cho tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này trở nên sinh động, đa chiều,
tạo nên nhiều tín hiệu mới của thể loại. Sự mở rộng biên độ sáng tạo của thể loại là sự mở
rộng chiều kích trong việc phản ánh hiện thực lịch sử và con người quá khứ.


<b>3. Quan niệm về sáng tác thể loại thay đổi đã thúc đẩy các nhà văn thể hiện vấn đề</b>
nhân vật một cách toàn diện và sâu sắc hơn. Nhà văn đã có cái nhìn đa dạng hơn, đầy đủ
hơn về hiện thực cuộc sống. Từ sự thay đổi về tư duy nghệ thuật, các nhà văn đã tìm ra
cách thức mới trong việc khám phá đời sống và con người ở góc độ cá nhân trong tính


tồn vẹn và tổng thể của nó. Nhân vật thực sự được nhìn nhận đa chiều, phức hợp, xen lẫn
cao cả và thấp hèn, tốt đẹp lẫn xấu xa,… Nhân vật được đặt trong nhiều mối quan hệ với
đời thực, mang nhiều màu sắc, dáng vẻ khác nhau. Có thể thấy, sự dịch chuyển từ cái nhìn
con người lịch sử sang con người cá nhân đã giúp các nhà văn khám phá con người dưới
nhiều góc độ khác nhau, vượt thốt khỏi cách nhìn truyền thống về con người đơn tuyến.
Quan niệm nghệ thuật về con người thay đổi, cho phép nhà văn khám phá con người phức
hợp, đa bình diện với nhiều khn mặt khác nhau, đa dạng hơn, phong phú hơn: con
người sử thi hóa, con người huyền thoại hóa, con người thế tục hóa. Các kiểu nhân vật này
ln được đan cài và chuyển hóa lẫn nhau, tạo nên tính phức hợp của nhân vật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(138)</span><div class='page_container' data-page=138>

hình thức kể chuyện ngơi thứ nhất, thậm chí Bùi Anh Tấn cịn thử nghiệm sử dụng hình
<i>thức tự sự đa chủ thể trong Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng, tạo nên sự độc đáo, mới</i>
lạ và hấp dẫn người đọc đương đại. Bên cạnh đó, điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết
lịch sử giai đoạn này khơng thuần nhất mà đã có sự dịch chuyển linh hoạt tạo nên sự đa
dạng, phức hợp điểm nhìn. Trong đó, điểm nhìn được đặt vào nhân vật tạo nên điểm nhìn
bên trong, nhờ vậy, những vấn đề lịch sử và nhân vật lịch sử được soi chiếu dưới nhiều
góc độ khác nhau.


<b>5. Trong tiểu thuyết lịch sử mười năm đầu thế kỉ XXI, diễn ngôn trần thuật biến ảo</b>
linh hoạt, sự kết hợp hài hịa giữa diễn ngơn của người kể chuyện và diễn ngơn của nhân
vật tạo nên tính đa thanh trong phương thức tự sự của tác phẩm. Với lời tả, lời kể và lời
bình luận cùng sự hịa trộn giữa ba kiểu lời trong diễn ngôn của người kể chuyện, tiểu
thuyết lịch sử đã cung cấp cho người đọc toàn bộ bức tranh toàn cảnh về hiện thực đời
sống hết sức sinh động, về chân dung của những con người đã sống và đi vào sử sách. Sự
tương quan giữa diễn ngôn của người kể chuyện và diễn ngôn đối thoại của nhân vật đã
làm nên những nét độc đáo trong diễn ngôn của tác phẩm. Thông qua diễn ngôn độc thoại
và sự tự ý thức của nhân vật, các nhà văn đã giúp người đọc đi sâu khám phá con người
tâm lý, khám phá bản thể của nhân vật trong hành trình của cuộc sống.


</div>
<span class='text_page_counter'>(139)</span><div class='page_container' data-page=139>

đến nhiều vấn đề trong lịch sử, những trang phân tích, đối thoại thật sự chưa mang lại hiệu quả


thuyết phục cho người đọc.


<b>7. Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại vẫn đang tiếp diễn và đạt được nhiều</b>
thành tựu đáng kể hơn nữa. Trong giới hạn của đề tài, luận án đã chỉ ra một số đặc trưng
cơ bản của thể loại trong một giai đoạn tương đối ổn định. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều
phương diện quan trọng khác mà luận án chưa tiếp cận và lý giải như: phương thức tái tạo
lịch sử, thời gian trần thuật, không gian trần thuật, kết cấu và giọng điệu,… Đồng thời,
trong q trình nhận diện, phân tích, lý giải những đặc trưng nghệ thuật của thể loại trong
giai đoạn thập niên đầu thế kỉ XXI, luận án có so sánh với đặc trưng của tiểu thuyết lịch
sử giai đoạn trước đó nhưng vẫn chưa đặt chúng trong thế đối sánh cụ thể, sinh động bằng
các bảng số liệu, thống kê cụ thể. Thiết nghĩ, tất cả những vấn đề trên sẽ tạo điều kiện cho
chúng tôi trở lại nghiên cứu thể loại này trong những cơng trình tiếp theo.


<b>DANH MỤC CÁC BÀI BÁO KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ</b>


<i><b>I. Bài báo</b></i>


<i>1. Lê Thị Thu Trang (2011), “Hình tượng người kể chuyện trong Tám triều vua Lý của</i>
<i>Hồng Quốc Hải”, Thơng tin khoa học, Số 02 (12/2011), Trường Đại học Đồng Tháp.</i>


<i>2. Lê Thị Thu Trang (2011), “Chức năng của người kể chuyện trong Tám triều vua Lý</i>
<i>của Hoàng Quốc Hải”, Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Số 04 (20)/2011, Trường Đại học</i>
Sư phạm Huế.


<i>3. Lê Thị Thu Trang (2013), “Yếu tố huyền thoại trong tiểu thuyết lịch sử Giàn thiêu</i>
<i>của Võ Thị Hảo”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Yếu tố kỳ ảo và huyền thoại trong văn học,</i>
Trường Đại học Khoa học Huế.


<i>4. Lê Thị Thu Trang (2013), “Diễn ngơn lịch sử trong Tám triều vua Lý của Hồng</i>
<i>Quốc Hải”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Trẻ lần thứ VIII, Trường Đại học Khoa học Huế.</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(140)</span><div class='page_container' data-page=140>

6. Lê Thị Thu Trang (2016), “Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
<i>thập niên đầu thế kỉ XXI”, Tạp chí Đại học Sài Gịn, Số 17 (42), 6/2016, Trường Đại học</i>
Sài Gòn.


7. Lê Thị Thu Trang (2016), “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam hiện đại với một số thể tài
<i>gần gũi – từ cái nhìn so sánh”, Tạp chí Khoa học, tập 122, Số 08/2016, Đại học Huế.</i>


8. Lê Thị Thu Trang (2016), “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại – nhìn chung về
<i>thành tựu”, Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Số 21 (08/2016), Trường Đại học Đồng Tháp.</i>


9. Lê Thị Thu Trang (2016), “Đổi mới tư duy thể loại trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
<i>thập niên đầu thế kỉ XXI”, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia “Văn học Việt Nam trong xu hướng</i>
<i>toàn cầu hóa”, Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng.</i>


10. Lê Thị Thu Trang (2017), “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI –
<i>nhìn từ xu hướng tương tác thể loại”, Tạp chí Khoa học và Cơng nghệ, Số 03/2017, Trường</i>
Đại học Khoa học Huế.


<i><b>II. Đề tài nghiên cứu khoa học</b></i>


<i>1. Lê Thị Thu Trang (2011), Một số phương diện trần thuật trong Tám triều vua</i>
<i>Lý của Hoàng Quốc Hải, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Trường ĐH Đồng Tháp.</i>


<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>


1. Thu An (2012), “Tiểu thuyết lịch sử: thành tựu và triển vọng”,
<i></i>


2. <i>Hoài Anh (2007), Xác và hồn tiểu thuyết, Nxb Văn học, Hà Nội.</i>



3. Phan Tuấn Anh (2012), “Lịch sử như là hư cấu – quan điểm mới về đề tài lịch sử”,
<i>Tạp chí Hội Nhà văn, 18/12/2012.</i>


4. Thái Phan Vàng Anh (2010), “Ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương
<i>đại”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (2), tr.96–108.</i>


5. <i>Thái Phan Vàng Anh (2010), Người kể chuyện trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại,</i>
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa học Xã hội.


6. Thái Phan Vàng Anh (2013), “Các khuynh hướng tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ
XXI”, <i></i>, 15/05/2003.


</div>
<span class='text_page_counter'>(141)</span><div class='page_container' data-page=141>

8. <i>Lại Nguyên Ân (2005), “Tiểu thuyết lịch sử (Nhân đọc Giàn thiêu của Võ Thị Hảo)”,</i>


<i></i>.


9. Lại Nguyên Ân (2010), “Mặt nạ tác giả” – một gợi ý cho việc tiếp cận một vài hiện
<i>tượng văn học sử Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (2), tr.68-80.</i>


10. <i>F.Badré (2006), Tương lai văn học, Đa Huyên – Nguyễn Thanh Xuân dịch, Nxb Đà</i>
Nẵng, Đà Nẵng.


11. <i>M.Bakhtin (2004), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư dịch, Nxb Hội Nhà</i>
văn.


12. <i>Diệp Quang Ban (2009), Giao tiếp, diễn ngôn và cấu tạo văn bản, Nxb Giáo dục, Hà</i>
Nội.


13. <i>Trần Lê Bảo (2011), Giải mã văn học từ mã văn hóa, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.</i>


14. <i>R.Barthes (1997), Độ không của lối viết, Nguyên Ngọc dịch, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.</i>
15. <i>R.Barthes (2008), Những huyền thoại, Phùng Văn Tửu dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội.</i>
16. Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Tuyết Minh (2011), “Cách tân nghệ thuật trong tổ chức lời


<i>văn của văn xi đương đại Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (8), tr.102-112.</i>
17. <i>Nguyễn Thị Bình (2012), Văn xuôi Việt Nam sau 1975, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.</i>
18. <i>Nguyễn Thị Bình (2008), Một số khuynh hướng tiểu thuyết ở nước ta từ thời điểm đổi</i>


<i>mới đến nay, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. </i>
19. <i>D.Brewster & J.Burrell (2003), Tiểu thuyết hiện đại, Dương Thanh Bình dịch, Nxb Lao</i>


động, Hà Nội.


20. <i>Hoàng Cát (2000), “Tiểu thuyết Hồ Quý Ly, thưởng thức và cảm nhận”, Tạp chí</i>
<i>Sách, (10).</i>


21. <i>Đỗ Hữu Châu (2007), Giáo trình Ngữ dụng học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.</i>
22. <i>Minh Châu và DSC (2010), Hồn sử Việt, các truyền thuyết, giai thoại nổi tiếng, Nxb</i>


Lao động, Hà Nội.


23. Nguyễn Duy Cường (2011), “Diễn ngôn trần thuật khơi mở lịch sử - lý giải số phận
con người”, <i></i>, 24/6/2011.


24. Nguyễn Việt Cường (2003), “Tiểu thuyết lịch sử – những quan niệm và sự thách thức
<i>với các nhà văn trẻ”, Văn hóa văn nghệ Công an TPHCM, (9), tr.83 – 85.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(142)</span><div class='page_container' data-page=142>

26. <i> Nam Dao và Nguyễn Mộng Giác, “Thảo luận về tiểu thuyết lịch sử”,</i>


<i>o</i>.



27. Nguyễn Văn Dân (2007), “Con đường phát triển của kĩ thuật tiểu thuyết hiện đại”,
<i>Tạp chí Sơng Hương, (220), tr. 70–74.</i>


28. <i>Nguyễn Văn Dân (2010), “Sức sống dai dẳng của kĩ thuật “dịng chảy ý thức”, Tạp</i>
<i>chí Nghiên cứu văn học, (8).</i>


29. Nguyễn Văn Dân (2012), “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - phác họa một số
<i>xu hướng chủ yếu”, Tạp chí Nhà văn, (1), tr.56-67.</i>


30. Nam Dao (2002), “Về tiểu thuyết lịch sử”, ,
31/3/2002.


31. Chu Xuân Diên (2006), “Nguyễn Xuân Khánh và cuộc giành lại bản sắc văn hóa dân
<i>tộc”, Báo Tuổi trẻ, 16/7/2006</i>


32. Chu Xuân Diên (2009), Để góp phần nghiên cứu huyền thoại và thi pháp huyền thoại
trong sáng tác văn học, <i></i>, 17/4/2009.


33. Đinh Trí Dũng và Hồng Vĩnh Thắng (2011), “Truyện ngắn về đề tài lịch sử trong
văn học Việt Nam từ 1986 đến nay”, <i>.</i>


34. <i>Đoàn Ánh Dương (2010), “Tự sự hậu thực dân: lịch sử và huyền thoại trong Mẫu Thượng</i>
<i>Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (9), tr.107–121.</i>


35. Lê Văn Dương (2011), “Vấn đề thể loại và nghệ thuật xây dựng nhân vật qua một số tiểu
thuyết lịch sử sau 1985 về phong trào Tây Sơn”, <i>.</i>


36. Đặng Anh Đào (2006), “Vai trị của cái kì ảo trong truyện và tiểu thuyết Việt Nam”,
<i>Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (8), tr.18 – 23.</i>



37. <i>Khai Đăng (2009), Tản mạn về tín ngưỡng và phong tục tập quán của người Việt,</i>
Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.


38. <i>Phan Cự Đệ (2003), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.</i>
39. <i>Phan Cự Đệ (2006), Tuyển tập Phan Cự Đệ, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.</i>


40. <i> Nguyễn Đăng Điệp (chủ biên) (2012), Lịch sử và văn hóa, cái nhìn nghệ thuật Nguyễn</i>
<i>Xuân Khánh, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.</i>


41. <i>Trung Trung Đỉnh (2001), “Về nghệ thuật viết tiểu thuyết”, Báo Văn nghệ, (38).</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(143)</span><div class='page_container' data-page=143>

43. <i>Hà Minh Đức (chủ biên) (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.</i>


44. <i>S.Freud (2004), Nhập môn phân tâm học, Nguyễn Xuân Hiến dịch, Nxb Đại học</i>
Quốc gia, Hà Nội.


45. Hoàng Cẩm Giang (2010), “Vấn đề nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ
<i>XXI”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (4), tr.90 - 104.</i>


46. Vũ Thanh Hà (2012), “Từ điểm nhìn sử gia đến điểm nhìn tác giả tiểu thuyết chương
<i>hồi chữ Hán Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (8), tr. 88 - 96.</i>


47. Lê Thị Diệu Hà (2012), “Phân biệt truyền thuyết lịch sử và giai thoại lịch sử – Một
<i>góc nhìn”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (7), tr.94-102.</i>


48. <i>Đinh Hồng Hải (2012), Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa truyền thống Việt</i>
<i>Nam, Nxb Tri thức, Hà Nội.</i>


49. Hoàng Quốc Hải (2004), “Lịch sử phải là những bài học soi sáng cho đương đại”,


<i>Báo Sài Gịn giải phóng, 2/10/2004.</i>


50. <i>Dương Quảng Hàm (2005), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Trẻ, Hà Nội.</i>


51. <i> Lê Bá Hán (chủ biên) (2001), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà</i>
Nội.


52. <i>Uyên Hạnh (2011), “Đọc tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Thị Lộ của Hà Văn Thùy”,</i>
, 27/8/2011.


53. <i>Phạm Ngọc Hiền (2012), Tiểu thuyết Việt Nam 1945 – 1975, Nxb Văn học, Hà Nội.</i>
54. <i>Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (2004), Từ điển văn</i>


<i>học (bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội.</i>


55. Đỗ Văn Hiểu (2012), “Ba góc độ mới của phân tích diễn ngơn”,


<i>, 15/7/2012.</i>


56. <i>Nguyễn Hịa (2003), Phân tích diễn ngơn, một số vấn đề lý luận và phương pháp,</i>
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.


57. <i>Cao Hồng (2011), Một chặng đường đổi mới Lý luận văn học Việt Nam (1986 –</i>
<i>2011), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.</i>


58. <i>Hoàng Thị Huế (2012), “Một số biểu tượng mang tâm thức Mẫu trong Đội gạo lên</i>
<i>chùa của Nguyễn Xuân Khánh”, </i>, 10/2012.


</div>
<span class='text_page_counter'>(144)</span><div class='page_container' data-page=144>

60. <i>Nguyễn Văn Hùng (2011), “Hình tượng nhân vật Lê Lợi trong tiểu thuyết lịch sử Hội</i>
<i>thề của Nguyễn Quang Thân”, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, Số (1) (84).</i>



61. Nguyễn Văn Hùng (2012), “Khuynh hướng “ngoại biên hóa” trong tiểu thuyết lịch sử
Việt Nam sau 1986 (Trường hợp Bùi Anh Tấn)”, <i></i>,
11/12/2012.


62. Nguyễn Văn Hùng (2013), “Mã lịch sử và mã văn hóa trong tiểu thuyết lịch sử Việt
Nam sau 1986”, <i></i>, 23/11/2013.


63. Nguyễn Văn Hùng (2013), “Phương thức lựa chọn và thể hiện hiện thực lịch sử trong
<i>tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh”, Tạp chí Khoa học, Đại học Sư phạm Thành phố</i>
Hồ Chí Minh, (44), tr.158 – 168.


64. Nguyễn Văn Hùng (2013), “Truyện ngắn về đề tài lịch sử từ đầu thế kỉ XX đến nay –
đôi nét phác thảo”, <i></i>, 18/4/2013.


65. <i>Nguyễn Văn Hùng (2014), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1986 từ góc nhìn tự sự</i>
<i>học, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa học xã hội.</i>


66. Nguyễn Văn Hùng (2016), “Nhân vật lịch sử và những biên độ sáng tạo sau đổi mới”,
<i>Tạp chí Văn nghệ quân đội, 19/8/2016.</i>


67. Nguyễn Thị Thu Hương (2010), “Vấn đề xây dựng nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết
<i>Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh”, </i>, 02/2010.


68. <i>M.Jahn (2005), Trần thuật học, Nhập môn lý thuyết trần thuật, Nguyễn Thị Như</i>
Trang dịch, Tài liệu lưu hành nội bộ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.


69. <i>Phùng Văn Khai (2010), “Tám triều vua Lý – Bão táp triều Trần hai Bộ tiểu thuyết lịch</i>
sử đầy giá trị của nhà văn Hoàng Quốc Hải”, <i></i>, 17/9/2010.
70. <i>Nguyễn Xuân Khánh (2012), “Vài suy nghĩ về tiểu thuyết lịch sử”, htpp://vanvn.net,</i>



23/09/2012.


71. <i>Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo (2004), Việt Nam kho tàng dã sử, Nxb Văn hóa</i>
Thơng tin, Hà Nội.


72. <i>Phùng Ngọc Kiếm (2000), Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975, Nxb</i>
Đại học quốc gia Hà Nội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(145)</span><div class='page_container' data-page=145>

74. <i>M.Kundera (2001), Nghệ thuật tiểu thuyết, Nguyên Ngọc dịch, Nxb Văn hóa Thơng</i>
tin, Trung tâm ngơn ngữ Đơng Tây.


75. <i>Cao Kim Lan (2009), “Mối quan hệ giữa người kể chuyện và tác giả”, Tạp chí</i>
<i>Nghiên cứu Văn học, (8), tr.65 – 77.</i>


76. <i>Trịnh Thị Lan (2011), “Ngôn ngữ thân thể trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của</i>
Nguyễn Xuân Khánh”, <i></i>, 18/5/2012.


77. Huy Liên (2005), “Từ đối thoại tiểu thuyết của Bakhtin đến phê bình đối thoại của
<i>Todorov”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, Số (1).</i>


78. <i>Ngơ Sĩ Liên (2009), Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Văn hóa – Thơng tin, Hà Nội.</i>
79. Nguyễn Trường Lịch (1996), “Thi pháp tự sự và mối quan hệ giữa lịch sử với hư cấu


<i>trong tiểu thuyết L.Tonxtoi”, Tạp chí Văn học, (10).</i>


80. <i>Phan Trọng Hồng Linh (2012), “Ngơn ngữ và giọng điệu trong tiểu thuyết Hội thề</i>
<i>của Nguyễn Quang Thân”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (4), tr. 141 – 150.</i>


81. <i>Nguyễn Văn Long (2009), Văn học Việt Nam sau 1975 và việc giảng dạy trong nhà</i>


<i>trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội.</i>


82. Nguyễn Văn Long – Lê Thị Thu Hằng (2012), “Những cách tân nghệ thuật của tiểu
thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI”, <i></i>, 23/10/2012.


83. <i>Bùi Văn Lợi (1998), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến 1945 (Diện</i>
<i>mạo và đặc điểm), Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.</i>


84. <i>Iu.M.Lotman (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật, </i>Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá
Đỉnh, Nguyễn Thu Thủy dịch, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.


85. <i>Phương Lựu (2006), Lý luận Văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.</i>


86. <i>Hoàng Tố Mai (2008), “Người kể chuyện và giọng điệu kể chuyện trong loạt truyện Rối</i>
<i>loạn tâm thần của Edgar Allen Poe”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (12), tr. 75 - 85.</i>


87. <i>Meletinsky (2004), Thi pháp của huyền thoại, Trần Nho Thìn - Song Mộc dịch, Nxb</i>
Đại học Quốc gia, Hà Nội.


88. <i>Nguyễn Thị Tuyết Minh (2008), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ 1945 đến nay, Luận</i>
án tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học.


</div>
<span class='text_page_counter'>(146)</span><div class='page_container' data-page=146>

90. Hoài Nam (2008), “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam: truyện kể hay tiểu thuyết?”,
<i></i>, 17/10/2008.


91. <i>Hoài Nam (2005), “Giàn thiêu – một nghệ thuật làm tan khối băng lịch sử”, Báo</i>
<i>Người Đại biểu Nhân dân, 2005.</i>


92. <i>Hoài Nam (2008), “Bàn về tiểu thuyết lịch sử”, Văn nghệ, (45), tr.12. </i>



93. Lê Thành Nghị (2012), “Tinh thần của lịch sử trong văn học nghệ thuật”,


<i></i>, 27/12/2012.


94. <i>Hồ Ngọc (1977), Xây dựng cốt truyện kịch, Nxb Văn hóa, Hà Nội. </i>


95. <i>Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa thơng tin, Hà Nội.</i>
96. <i>Bình Ngun (2015), “Vấn đề hư cấu và giải thiêng trong tiểu thuyết lịch sử”, Tạp</i>


<i>chí Văn nghệ Quân đội, 13/10/2015.</i>


97. Lã Nguyên (2012), “Văn học Việt Nam trong bước ngoặt chuyển mình”,
<i>htpp://vienvanhoc.wass.gov.vn.</i>


98. <i>Phạm Xn Ngun (1991), “Phân tích tâm lý trong tiểu thuyết”, Tạp chí Văn học,</i>
(2), tr.69 – 73.


99. Trương Thị Nhàn (2012), “Một số vấn đề ngôn ngữ văn chương từ góc nhìn tín hiệu
<i>thẩm mĩ”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (4), tr. 17 – 33.</i>


100. Trần Thị Mai Nhân (2007), “Nhân vật đa diện trong tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn
<i>1986 – 2000”, Tạp chí Nhà văn, (2), tr.63 – 70.</i>


101. Trần Thị Mai Nhân (2009), “Tìm hiểu phương thức “huyền thoại hóa” trong một số
tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới”, <i></i>,
27/2/2009.


102. Đỗ Hải Ninh (2012), “Ngôn ngữ trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại”,


<i></i>, 28/3/2012.



103. Đỗ Hải Ninh (2012), “Những tranh luận về văn xuôi hư cấu lịch sử và sự chuyển
biến của tư duy”, <i></i>, 28/03/2012.


104. Mai Hải Oanh (2007), “Nghệ thuật tổ chức điểm nhìn trong tiểu thuyết Việt Nam
<i>thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (10), tr.112 – 124. </i>


105. <i>A.Poxxe (2003), “Văn học là những mối quan hệ bí mật”, Báo văn nghệ, (44), tr.14.</i>
106. <i>Nguyễn Thị Hải Phương (2012), Tiểu thuyết Việt Nam đương đại – Nhìn từ góc độ</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(147)</span><div class='page_container' data-page=147>

107. <i>Trần Huyền Sâm (2010), Những vấn đề lý luận văn học Phương Tây hiện đại (Tự sự</i>
<i>học kinh điển), Nxb Văn học, Hà Nội.</i>


108. Trần Huyền Sâm (2010), “Hình tượng người mẹ - Một biểu tượng của văn hóa dân
tộc Việt Nam”, <i></i>, 08/03/2010.


109. Đặng Văn Sinh (2011), “Vương triều Lí dưới góc nhìn của tiểu thuyết gia Hồng
<i>Quốc Hải”, Tạp chí Nhà văn, (8), tr.76-85.</i>


110. <i>Trần Đình Sử (2004), Tự sự học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.</i>


111. <i>Trần Đình Sử (2005), Tuyển tập Trần Đình Sử, tập 1,2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.</i>
112. <i>Trần Đình Sử (2014), Trên đường biên của lý luận văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.</i>
113. Trần Đình Sử (2016), “Về tiểu thuyết lịch sử”, ,


28/8/2016.


114. Phạm Xuân Thạch (2004), “Q trình cá nhân hóa hư cấu (Tự sự đương đại Việt
<i>nam về đề tài lịch sử giữa truyền thống và hiện đại)”, Hội thảo quốc tế về Việt Nam</i>
<i>học lần thứ II, Thành phố Hồ Chí Minh.</i>



115. Phạm Xuân Thạch (2012), “Nguyễn Xuân Khánh - Từ cấu trúc nghệ thuật đến cấu
trúc tư tưởng”, <i></i>, 17/12/2012


116. <i>Hải Thanh (2012), “Bàn về tiểu thuyết lịch sử”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội,</i>
02/10/2012.


117. <i>Nguyễn Thành (2012), “Khuynh hướng lạ hóa trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại</i>
<i>– Một số bình diện tiêu biểu”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (4), tr. 5 – 15.</i>


118. <i>Nguyễn Thành, Hồ Thế Hà, Nguyễn Hồng Dũng (chủ biên) (2013), Văn học hậu</i>
<i>hiện đại – Diễn giải và tiếp nhận, Nxb Văn học, Hà Nội.</i>


119. <i> Nguyễn Thành Thi (2005), Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam, Nxb khoa</i>
học xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh.


120. Nguyễn Thành Thi (2013), ““Lược đồ” văn học quốc ngữ Việt Nam nhìn từ quá
<i>trình hình thành và tương tác thể loại”, Báo cáo tham luận tại Hội thảo EuroViet,</i>
<i>Hamburg, tháng 6/2007, </i>, 16/4/2013.


121. <i>Trần Viết Thiện (2012), Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ năm 1986</i>
<i>đến nay, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh.</i>


122. <i>Ngơ Đức Thịnh (2012), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb Trẻ,</i>
Thành phố Hồ Chí Minh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(148)</span><div class='page_container' data-page=148>

124. Lý Hồi Thu (2006), “Lưu Quang Vũ và chặng đường kịch Việt Nam cuối thế kỉ XX”,
<i>Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (8), tr.87 – 97.</i>


125. <i>Nguyễn Khắc Thuần (2008), Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam (5 tập), Nxb Giáo</i>


dục, Hà Nội.


126. <i>Đỗ Lai Thúy (2001), Nghệ thuật như là thủ pháp, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.</i>


127. <i>Hoàng Tiến (1999), “Đọc tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quốc Hải”, Văn nghệ, (2), tr.4.</i>
128. <i>Nguyễn Thị Kim Tiến (2012), “Bi kịch của người nghệ sĩ trong tiểu thuyết Đàn đáy của</i>


<i>Trần Thu Hằng”, Tạp chí Khoa học, Đại học Đồng Tháp, Số 01, tr.40 - 47.</i>


129. <i>Nguyễn Thị Kim Tiến (2012), Con người trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới,</i>
Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.


130. Trần Mạnh Tiến (2011), “Tiểu thuyết lịch sử và người đầu tiên mở hướng cách tân”,


<i></i>, 24/02/2011.


131. <i>Tz.Todorov (2008), Nguyên lí đối thoại, Đào Ngọc Chương dịch, Nxb Đại học Quốc</i>
gia, Thành phố Hồ Chí Minh.


132. <i>Lê Phong Tuyết (2005), “Tiếp cận Genette qua một vài khái niệm trần thuật”, Tạp</i>
<i>chí Nghiên cứu Văn học, (8), 75 – 89.</i>


133. Lý Hoàn Thục Trâm (2009), “Văn học kịch Việt Nam với đề tài lịch sử”,


<i></i>, 27/2/2009.


134. Kim Trần (2012), “Thể loại diễn ca lịch sử và sự giao lưu hai dòng văn học ở tác
<i>phẩm Thiên nam ngữ lục”, o</i>, 01/01/2012.


135. Võ Gia Trị (2008), “Tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quốc Hải và thủ đơ sắp nghìn


<i>năm tuổi”, Tạp chí Nhà văn, (10), tr.51–57.</i>


136. <i>Bùi Thanh Truyền (2006), Yếu tố kì ảo trong văn xuôi đương đại Việt Nam, Luận án</i>
tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học.


137. <i>Mai Anh Tuấn (2011), “Tiểu thuyết như một tham khảo Phật giáo”, Tạp chí Nhà</i>
<i>văn, (8), tr.94 - 97.</i>


138. <i>Nguyễn Văn Tùng (2009), Lý luận tiểu thuyết ở Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục</i>
Việt Nam, Hà Nội.


139. <i> Nguyễn Văn Tùng (Tuyển chọn và biên soạn) (2008), Tuyển tập các bài viết về tiểu</i>
<i>thuyết ở Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục Việt Nam.</i>


140. Tiền Trung Văn (2006), “Những vấn đề lý thuyết của M.Bakhtin về tính phức điệu”,
<i>Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (6), tr. 35 – 48.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(149)</span><div class='page_container' data-page=149>

142. Trần Vũ (2003), “Lịch sử trong tiểu thuyết, một tùy tiện ý thức”, <i></i>
143. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2009), “Đi tìm cổ mẫu trong văn học Việt Nam”,


<i></i>, 22/01/2009.


</div>

<!--links-->
Đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết côi cút giữa cảnh đời của ma văn kháng luận văn tốt nghiệp đại học
  • 70
  • 1
  • 6
  • ×