Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ KẾ TOÁN CHO VAY TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.73 KB, 22 trang )

Lý luận cơ bản về tín dụng ngân hàng và kế
toán cho vay trong hoạt động kinh doanh
ngân hàng
I/ Tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân
hàng trong nền kinh tế
1)Khái niệm tín dụng ngân hàng.
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, xuất phát từ nhu cầu cho
vay và đi vay của những ngời thiếu vốn và những ngời thừa vốn trong cùng một
thời điểm đã hình thành nên quan hệ vay mợn lẫn nhau trong xã hội và trên cơ sở
đó hoạt động tín dụng ra đời.
Thuật ngữ "Tín dụng" xuất phát từ gốc Latinh Creditium có nghĩa là một sự
tin tởng tín nhiệm lẫn nhau, hay nói cách khác đó là lòng tin. Theo ngôn ngữ dân
gian Việt Nam thì tín dụng là quan hệ vay mợn lẫn nhau trên cơ sở coa hoàn trả cả
gốc và lãi.
Theo Mác, tín dụng là sự chuyển nhợng tạm thời một lợng giá trị từ ngời sở
hữu sang ngời sử dụng, sau một thời gian nhất định lại quay về với một lợng giá
trị lớn hơn giá trị ban đầu. Theo quan điểm này, phạm trù tín dụng có ba nội dung
chủ yếu đó là: tính chuyển nhợng tạm thời một lợng giá trị, tính thời hạn và tính
hoàn trả.
Nh vậy, tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa ngời cho vay và ngời đi vay
thông qua sự vận động của giá trị, vốn tín dụng đựơc biểu hiện dới hình thức tiền
tệ hoặc hàng hoá. Quá trình đó thể hiện qua ba giai đoạn sau:
-Thứ nhất: Phân phối tín dụng dới hình thức cho vay, ở giai đoạn này giá trị
vốn tín dụng đợc chuyển sang ngời đi vay, ở đây chỉ có một bên nhận giá trị và
cũng chỉ có một bên nhợng đi giá trị.
-Thứ hai: sử dụng vốn tín dụng trong quá trình tái sản xuất. Ngời đi vay sau
khi nhận đợc vốn tín dụng, họ đợc chuyển sử dụng giá trị đó để thoã mãn nhu cầu
sản xuất hoặc tiêu dùng của mình. Tuy nhiên ngời đi vay chỉ đợc sử dụng trong
một thời gian nhất định mà không đợc quyền sở hữu giá trị đó.
-Thứ ba: đây là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng. Sau khi
vốn tín dụng đã hoàn thanh một chu kỳ sản xuất để trở về hình thái tiền tệ thì vốn


tín dụng đợc ngời đi vay hoàn trả lại cho ngời cho vay.
Những hành vi tín dụng có thể đợc diễn ra trực tiếp giữa ngời thừa vốn cần
đầu t với ngời cần vốn để sử dụng.Nhng thực tế hai ngời này khó có thể phù hợp
với nhau về quy mô, về thời gian nhàn rỗi và thời gian sử dụng vốn; hoặc cũng có
thể phù hợp đợc thì phải tốn kém chi phí tìm kiếm, nên để thoã đợc nhu cầu của
hai ngời thì cần thiết phải có một ngời thứ ba đứng ra tập trung đợc tất cả số vốn
của những ngời tạm thời thừa, cần đầu t kiếm lãi.Trên cơ sở số vốn tập trung đợc
phân phối cho những ngời cần vốn để sử dụng dới hình thức cho vay. Ngời đó
không ai khác chính là tổ chức tín dụng, trong đó chủ yếu là các Ngân hàng thơng
mại- ngời môi giới tài chính trên thị trờng tài chính. Việc các Ngân hàng thơng
mại tập trung vốn dới hình thức huy động và phân phối vốn dới hình thức cho vay gọi
là tín dụng ngân hàng. Thực hiện chức năng làm trung gian tín dụng trong nền kinh
tế, các Ngân hàng thơng mại đã góp phần không nhỏ để giải quyết thoả đáng những
băn khoăn của ngời có vốn và đáp ứng tốt mọi nhu cầu của ngời cần vốn.
2) Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế
Trong những năm vừa qua dới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nớc, nền kinh tế
nớc ta đang chuyển sang cơ chế thị trờng có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nớc nhằm
thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nớc. Vì vậy ngân hàng là
ngành kinh tế chủ chốt quan trọng, chi phối và có sự ảnh hởng lớn đến sự phát
triển của các ngành kinh tế khác. Nhận thức đợc vị trí và vai trò của mình, các
Ngân hàng thơng mại ở nớc ta đang từng bớc khẳng định sự lớn mạnh của mình
trong mọi phơng diện hoạt động, đặc biệt là hoạt động tín dụng nhằm phục vụ đắc
lực cho sự phát triển của các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân.
2.1) Tín dụng ngân hàng là cầu nối giữa cung và cầu về vốn trong nền kinh
tế.
Trong nền kinh tế thờng xuyên có một số các doanh nghiệp trong quá trình
sản xuất kinh doanh có một bộ phận vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi đợc tách ra khỏi
quá trình tái sản xuất của các doanh nghiệp nh: tiền khấu hao tài sản cố định để
tái tạo lại tài sản cố định nhng cha mua vì có sự chênh lệch về thời gian giữa việc
bán sản phẩm và việc mua nguyên vật liệu; tiền trả lơng cho ngời lao động nhng

cha đến hạn trả; khoản tiền tích luỹ để tái sản xuất mở rộng nhng cha đủ điều kiện
để đầu t.... Các khoản tiền tệ trên đây luôn đợc các doanh nghiệp tìm cách đầu t
kiếm lời. Ngoài ra còn có các khoản tiền để dành của dân c, khi cha có nhu cầu sử
dụng, họ cũng muốn đầu t để kiếm lời. Tất cả tạo thành nguồn vốn tiềm tàng trong
nền kinh tế. Trong khi đó có một số doanh nghiệp, cá nhân thiếu vốn để phục vụ
cho nhu cầu kinh doanh của mình; một số cá nhân trong xã hội cần vốn để cải
thiện sinh hoạt hoặc đối phó với những rủi ro trong cuộc sống; Ngân sách Nhà nớc
bị thâm hụt, Nhà nớc cần vốn để bù đắp sự thâm hụt đó đảm bảo cân đối thu chi cho
nền kinh tế.
Nh vậy, ta thẩy trong xã hội luôn có một số ngời thừa vốn cần đầu t và một
số ngời thiếu vốn muốn đi vay. Song những ngời này khó có thể trực tiếp gặp
nhau, hoặc có thể gặp nhau thì chi phí rất cao và không kịp thời. Hoạt động tín
dụng của các ngân hàng thơng mại đã thoả mãn những lo lắng của những ngời có
vốn và đáp ứng nhu cầu của ngời cần vốn, có nghĩa là các ngân hàng thơng mại
đứng ra làm trung gian nhận tiền gửi từ tất cả các thành phần kinh tế và cho vay
lại các đơn vị, cá nhân trong nền kinh tế. Hay nói cách khác: "tín dụng ngân hàng
là chiếc cầu nối để những ngời có vốn và những ngời cần vốn gặp nhau"
2.2)Tín dụng ngân hàng là công cụ mạnh mẽ để thúc đẩy quá trình tập trung
và điều hoà vốn trong nền kinh tế.
Nh trên đã trình bày, thông qua hoạt động "đi vay để cho vay" tín dụng ngân
hàng đã làm nhiệm vụ đa vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu. Điều này đợc thể hiện
ở việc tín dụng thu hút các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức, cá
nhân để cho vay đầu t phát triển kinh tế.
Bằng các hình thức huy động vốn ngày càng đa dạng và phong phú cúng với
việc thoả mãn thích đáng nhu cầu lợi ích, nhu cầu tiền đột xuất của ngời gửi tiên
fma các Ngân hàng thơng mại đã thu hút đợc hầu hết các nguồn tiền nhàn rỗi dù
là rất nhỏ từ trong dân chúng tập trung về tay mình và từ đó đáp ứng đợc nhu cầu
về vốn ngày càng tăng của nền kinh tế, hay nói cách khác hoạt động tín dụng đã
làm nhiệm vụ thông đòng để vốn chảy từ nơi thừa đến nơi thiếu thông qua việc
thực hiện hoạt động đi vay và cho vay. Nhờ đó đã góp phần cung ứng và điều hoà

vốn trong từng doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế, tạo cho quá trình sản xuất đ-
ợc tiến hành một cách trôi chảy đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cố định, vốn lu
động, bổ sung tăng cờng củng cố tài sản cố định làm cho quá trình sản xuất đợc
tuần hoàn, thúc đẩy sản xuất lu thông, tăng tốc độ chu chuyển vốn tiền tệ trong xã
hội, góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho
nền kinh tế phát triền bền vững.
Vì vậy có thể nói tín dụng ngân hàng là công cụ mạnh mẽ thúc đẩy quá trình
tập trung và điều hoà vốn trong nền kinh tế.
2.3) Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy, củng cố chế độ hạch toán kế
toán.
Đặc trng cơ bản của tín dụng là sự vận động trên cơ sở có hoàn trả và có lợi
tức (gốc+lãi). Ngân hàng huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của mọi
thành phần kinh tế và cho vay khi họ tạm thời thiếu vốn. Các doanh nghiệp vay
vốn ngân hàng ngoài việc đợc cung ứng vốn một cách kịp thời đầy đủ còn đợc
ngân hàng hỗ trợ trong quá trình sử dụng vốn thông qua những ý kiến t vấn khi
lập phơng án sản xuất kinh doanh hoặc chọn đối tác ký kết hợp đồng...Mặt khác,
trong khi sử dụng vốn vay, khách hàng có quan hệ ràng buộc với ngân hàng bởi
trách nhiệm hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi trong một thời gian nhất định. Vì vậy
đòi hỏi các doanh nghiệp phải cân nhắc làm thế nào để sử dụng vốn có hiệu quả
nhất, giảm thiểu chi phí, tăng vòng quay của vốn đảm bảo kinh doanh có hiệu quả
cho doanh nghiệp, đồng thời tăng hiệu quả của hoạt động tín dụng ngân
hàng.Muốn vậy các doanh nghiệp phải tự vơn lên thông qua các hoạt động của
mình mà một trong các hoạt động khá quan trọng là việc hạch toán kế toán nhằm
giám sát mọi hoạt động tài chính tiền tệ của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn. Nh vậy thông qua hoạt động tín dụng mà cụ thể là cho vay, ngân hàng
có thể kiểm soát hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp làm cho ngời vay
càng có ý thức hơn trong cơ chế quản lý tài chính, quản lý đồng vốn, qua đó tăng
cờng củng cố chế độ hạch toán kế toán thêm vững chắc.
2.4)Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá,
luân chuyển tiền tệ, điều tiết khối lợng tiền trong lu thông và kiểm soát lạm phát.

Thông qua hoạt động tín dụng, khối lợng tiền trong lu thông sẽ tăng lên khi
thực hiện hoạt động cho vay và ngợc lại sẽ giảm xuống khi thực hiện hoạt động
thu nợ, do đó sẽ góp phần điều tiết khối lợng tiền trong toàn bộ nền kinh tế. Ngân
hàng sử dụng công cụ lãi suất, hạn mức tín dụng để làm thay đổi khối lợng tiền
vay, từ đó điều tiết đợc khối lợng tiền trong nền kinh tế và kiểm soát đợc lạm phát,
bởi vì tín dụng ngân hàng khi điều tiết đợc khối lợng tiền tức là khống chế đợc
khối lợng tiền cần thiết cho nhu cầu trao đổi và lu thông hàng hoá, nhờ kiểm soát
đợc giá cả. Hay nói cách khác ,việc đa tiền vào lu thông qua tín dụng ngân hàng là
con đờng hữu hiệu nhất bởi vì khối lợng tiền này đã đợc đảm bảo bằng một lợng
giá trị vật t hàng hoá và tránh đợc lạm phát tiền tệ.
Mặt khác, chúng ta cũng biết rằng Ngân hàng trung ơng là cơ quan quản lý
vĩ mô đối với các Ngân hàng thơng mại và các tổ chức tín dụng khác, có nhiệm vụ
kiểm tra, khảo sát mọi hoạt động của các tổ chức này nhằm đảm bảo cho nền kinh
tế hoạt động an toàn và có hiệu quả. Thông qua hoạt động tín dụng các Ngân hàng
thơng mại, Ngân hàng trung ơng có thể biết đợc phạm vi, phơng hớng đầu t, hiệu
quả đầu t vào cá ngành kinh tế từ đó có chính sách tiền tệ thích hợp. Nếu nền kinh
tế có dấu hiệu tăng trởng, hiệu quả đầu t vào cá ngành trong nền kinh tế cao thì Ngân
hàng trung ơng sẽ thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng tức là bơm thêm tiền vào lu
thông. Ngợc lại, nếu nền kinh tế có dấu hiệu suy thoái thì Ngân hàng trung ơng sẽ
thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt tức là rút bớt tiền từ lu thông về. Nh vậy bằng
các công cụ nh hạn mức tín dụng, lãi suất tín dụng Ngân hàng trung ơng có thể kiểm
soát, điều tiết lu thông tiền tệ đảm bảo khối lợng tiền cần thiết cho lu thông nhằm ổn
định giá trị đồng tiền, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển.
2.5) Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện để phát triển kinh tế với các nớc.
Mỗi một quốc gia muốn phát triển nền kinh tế của mình thì không thể chỉ
dựa vào tiềm năng của đất nớc mà còn phải mở rộng quan hệ kinh tế ra bên ngoài,
tham gia vào nền kinh tế thế giới, bởi lẽ không có một nớc nào lại có thể hội tụ
đầy đủ các tiềm năng để phát triển kinh tế mọi mặt, mà các nớc đều chỉ có lợi thế
so sánh của mình, do đó nó thờng phát sinh quan hệ vay mợn lẫn nhau mà chủ
yếu là vốn đầu t. Vì vậy, tín dụng ngân hàng đã trở thành một trong những phơng

tiện nối liền kinh tế các nớc với nhau.
Thông qua các hình thức nh nhận uỷ thác đầu t, mở và thanh toán th tín
dụng, bảo lãnh hàng hoá xuất nhập khẩu, chuyển tiền nhanh đi các nơi...tín dụng
ngân hàng đã trực tiếp tham gia trong quan hệ thanh toán quốc tế, các hoạt động
xuất nhập khẩu hàng hoá, tài trợ cho các hoạt động sản xuất, xuất nhập khẩu, đầu
t chiều sâu, đôi rmới công nghệ và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất trong
nớc thúc đẩy sản xuất trong nớc phát triển nhằm phục vụ tốt cho hoạt động xuất
nhập khẩu góp phần tăng trởng kinh tế và mở ra sự giao lu giữa nớc ta với các nớc
khác trên thế giới. Ngoài ra với việc tín dụng ngân hàng nhận các nguồn tài trợ
nh ODA, ESAF...từ các nớc cấp tín dụng cũng nh các tổ chức tín dụng quốc tế với
mục đích tài trợ cho nền kinh tế đã mang lại những kết quả to lớn về kinh tế xã
hội đồng thời tăng cờng mối quan hệ tốt đẹp giữa nớc ta với các nớc trên thế giới.
Tóm lại, tín dụng ngân hàng có vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh
tế đất nớc.Tín dụng ngân hàng là cầu nối giữa ngời có vốn và ngời cần vốn để giải
quyết nhu cầu này thoả đáng trong mối quan hệ này, từ đó thúc đẩy tái sản xuất
mở rộng tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển bền vững, thông qua tín
dụng ngân hàng có thể kiểm soát đợc khối lợng tiền cung ứng trong lu thông, thực
hiện yêu cầu của quy luật lu thông tiền tệ. Mặt khác, tín dụng ngân hàng còn thúc
đẩy các doanh nghiệp tăng cờng chế độ hạch toán kinh doanh, giúp các doanh
nghiệp khai thác có hiệu quả tiềm năng kinh tế trong hoạt động kinh doanh.
II/ Vai trò và nhiệm vụ của kế toán trong việc cấp
tín dụng cho nền kinh tế.
1) Khái niệm, vai trò và nhiệm vụ của kế toán ngân hàng.
1.1)Khái niệm.
Kế toán ngân hàng là khoa học và cũng là nghệ thuật ghi chép, phân loại,
tổng hợp và giải thích các nghiệp vụ tác động đến tình hình tài chính của các ngân
hàng bằng thớc đo tiền tệ nhằm cung cấp thông tin về tình hình và kết quả hoạt
động của ngân hàng, làm cơ sở cho việc ra quyết định kinh tế liên quan đến mục
tiêu quản lý kinh doanh và đánh giá hoạt động của ngân hàng.
1.2)Vai trò.

Kế toán là công cụ quan trọng để quản lý nền kinh tế vì nó có tác dụng to lớn
trong việc kiểm tra thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch, việc sử dụng vốn tiền tệ, bảo
vệ an toàn tài sản, củng cố và tăng cờng chế độ hạch toán kinh tế.
Kế toán ngân hàng là một bộ phận trong hệ thống kế toán của nền kinh tế
nên nó cũng phát huy vai trò của kế toán nói chung. Tuy nhiên, xuất phát từ những
đặc điểm của hoạt động ngân hàng nên vai trò của kế toán ngân hàng có khác với
vai trò của các ngành khác.
+ Cung cấp thông tin tổng hợp để phục vụ quản lý nền kinh tế: kế toán ngân
hàng có quan hệ mật thiết với hoạt động của nền kinh tế. Mọi hoạt động về kinh
tế, tài chính của doanh nghiệp đều đợc phản ánh thông qua các tài khoản mở tại
ngân hàng. Vì vậy số liệu ghi chép của kế toán vừa phản ánh đợc hoạt động
nghiệp vụ của ngành, vừa phản ánh đợc hoạt động của các ngành khác về tình
hình kinh tế, tài chính, sự biến động của vật t, lao động, tiền vốn,thu nhập, chi phí,
lợi nhuận...từ đó các đơn vị có đầy đủ thông tin để ra quyết định điều hành kịp
thời, góp phần nâng cao chất lợng hiệu quẩn xuất kinh doanh. Mặt khác, các cơ
quan quản lý Nhà nớc trong lĩnh vực tài chính, kế toán, thống kê cũng cần đợc
cung cấp thông tin kế toán ngân hàng để xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch, xây
dựng chế độ quản lý tài chính. Do khái niệm phản ánh một cách tổng hợp nên kế
toán ngân hàng đã giúp Đảng và Nhà nớc nắm đợc tình hình hoạt động của nền
kinh tế, từ đó đề ra đợc phơng hớng phát triển nền kinh tế một cách sát thực và
đúng đắn.
+ Bảo vệ an toàn tài sản: bảo vệ tài sản là trách nhiệm chung của kế toán bất
kỳ ngành nào, song kế toán ngân hàng có vai trò quan trọng hơn vì ngoại việc bảo
vệ an toàn tài sản của bản thân ngân hàng còn phải bảo vệ tài sản của Nhà nớc,
của khách hàng gửi tại ngân hàng. Do đó, kế toán ngân hàng phải ghi chép, kiểm
soát một cách chặt chẽ mọi loại tài sản để tránh mất mát, thiếu hụt về mặt số lợng
và nâng cao hiệu quả mọi tài sản trong quá trình sử dụng.
+ Đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo, quản trị ngân hàng: kế toán đợc tiến
hành trên cơ sở hoạt động của các mặt nghiệp vụ nh: nghiệp vụ tiền tệ, tín dụng,
thanh toán...do vậy số liệu của kế toán đã phản ánh đợc kết quả các mặt hoạt động

nghiệp vụ của từng đơn vị cũng nh của toàn ngành ngân hàng. Qua hệ thống số
liệu này có thể chỉ ra những kết quả đạt đợc cũng nh những tồn tại trong quá trình
hoạt động, từ đó các nhà lãnh đạo sử dụng nó nh là một công cụ hữu hiệu để chỉ
đạo, điều hành, quản trị ngân hàng có hiệu quả.
Nh vậy, vai trò to lớn của kế toán ngân hàng là không thể phủ nhận đợc.
Thông qua các hoạt động của mình, kế toán ngân hàng giúp cho các giao dịch
trong nền kinh tế đợc tiến hành một cách nhanh chóng, chính xác, kịp thời hơn.
Những số liệu so kế toán ngân hàng cung cấp là những chỉ tiêu thông tin kinh tế
quan trọng giúp cho việc chỉ đạo điều hành hoạt động kinh doanh của ngân hàng
cũng nh làm căn cứ cho việc hoạch định, thực thi chính sách tiền tệ quốc gia và
chỉ đạo toàn bộ hạot đọng của nền kinh tế, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động kinh doanh của ngân hàng nói riêng và của nền kinh tế nói chung.
1.3)Nhiệm vụ của kế toán ngân hàng.
Để phát huy đầy đủ vai trò của mình, kế toán ngân hàng phải thực hiện đợc
các nhiệm vụ chính sau đây:
+Kế toán ngân hàng phải ghi nhận, phản ánh chính xác, đầy đủ, kịp thời mọi
nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong ngân hàng về các hoạt động : hoạt động nguồn
vốn, sử dụng vốn và các dịch vụ ngân hàng khác theo đúng pháp lệnh kế toán

×