Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Luận văn thạc sĩ thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội cố ý gây thương tích từ thực tiễn tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (815.24 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THẾ THÀNH

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội – 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THẾ THÀNH

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

Ngành:Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN ĐỨC HẠNH

Hà Nội - 2020




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG
TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH ........ 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thực hành quyền công tố đối với vụ
án hình sự ........................................................................................................... 8
1.2. Khái niệm, phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
tội Cố ý gây thương tích ................................................................................... 17
1.3. Nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội cố ý gây
thương tích ........................................................................................................ 29
Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH TẠI TỈNH
BẮC NINH .............................................................................................................. 43
2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra .............................................................................................. 43
2.2. Tình hình thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn điều tra tội cố ý gây
thương tích tại tỉnh Bắc Ninh ........................................................................... 46
2.3. Kết quả hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội Cố ý
gây thương tích trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh những năm qua ................................. 49
2.4. Một số tồn tại, hạn chế khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra tội Cố ý gây thương tích từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh ........................... 58
2.5. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế: ............................................................ 59
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỘI CỐ Ý
GÂY THƯƠNG TÍCH TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH ............................. 63
3.1. Giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật ........................................................ 63
3.2. Giải pháp tổ chức thực hiện nhằm nâng cao chất lượng công tác thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích........................... 65

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 83


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

:

Bộ luật hình sự

BLTTHS

:

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

:

Cơ quan điều tra

THQCT

:

Thực hành quyền cơng tố

TNHS


:

Trách nhiệm hình sự

KSV

:

Kiểm sát viên

VKS

:

Viện kiểm sát

VKSND

:

Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng 2.1. Số vụ án, bị can tội Cố ý gây thương tích khởi tố trong giai đoạn
2015-2019 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ............................................................. 50
Bảng 2.2. Kết quả THQCT trong khởi tố vụ án tội Cố ý gây thương tích của
VKSND hai cấp tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2015-2019 ...................................... 50
Bảng 2.3. Kết quả THQCT trong khởi tố bị can tội Cố ý gây thương tích của

VKSND hai cấp tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2015-2019 ...................................... 51
Bảng 2.4. Kết quả THQCT trong việc áp dụng, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn của
VKSND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đối với tội Cố ý gây thương tích .................... 53
Bảng 2.5. Kết quả THQCT trong đề ra yêu cầu xác minh, yêu cầu điều tra về tội
Cố ý gây thương tích của Viện KSND hai cấp tỉnh Bắc Ninh ......................... 54
Bảng 2.6. Kết quả THQCT trong việc tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra .................... 56
Bảng 2.7. Các vụ án Cố ý gây thương tích trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2015 -2019........ 57


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát các hoạt động tư pháp
là hai chức năng cơ bản của Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) các cấp được
quy định tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và được cụ thể hóa tại Điều 2
Luật Tổ chức VKSND năm 2014. Việc bảo đảm thực hiện chức năng này
cũng là nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược cải cách tư pháp của Đảng và
Nhà nước ta được thể hiện trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới"; Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị, ngày
24/5/2005 về "Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020"; Nghị quyết số 49-NQ/TW
Bộ Chính trị, ngày 02/6/2005 về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020". Theo đó, VKSND cần tiếp tục thực hiện tốt chức năng THQCT và
kiểm sát các hoạt động tư pháp, đặc biệt là tăng cường trách nhiệm công tố
và kiểm sát hoạt động điều tra tội phạm, gắn công tố với hoạt động điều tra
nhằm bảo đảm cho mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và
xử lý kịp thời, khách quan, không để lọt tội phạm và người phạm tội,
không làm oan người vô tội, những vi phạm pháp luật trong quá trình điều
tra phải được phát hiện kịp thời, khắc phục và xử lý nghiêm minh.

Tỉnh Bắc Ninh là tỉnh sát với Thủ đô Hà Nội, nằm trong vùng kinh
tế trọng điểm Bắc Bộ có hệ thống giao thơng thuận lợi kết nối với các tỉnh
trong vùng. Từ khi tái lập tỉnh đến nay, Bắc Ninh đã có những bước phát
triển khá nhanh, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đời sống vật chất và văn
hoá tinh thần của các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện Tuy
nhiên, sự phát triển với tốc độ cao của kinh tế - xã hội cũng kéo theo sự
gia tăng của các loại tội phạm trên địa bàn Tỉnh, trong đó nổi lên là các
tội phạm xâm phạm đến trật tự, an tồn cơng cộng nói chung và Cố ý gây

1


thương tích nói riêng. Trong những năm qua, cơng tác đấu tranh phịng,
chống tội Cố ý gây thương tích được xác định là nhiệm vụ hết sức quan
trọng của chính quyền trong tỉnh Bắc Ninh nói chung và các cơ quan tư
pháp trong tỉnh trong đó có VKSND nói riêng, là điều kiện tiên quyết cho
sự phát triển kinh tế xã hội, sự ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội của tỉnh Bắc Ninh.
Viện kiểm sát nhân dân hai cấp của tỉnh Bắc Ninh đã quán triệt tốt các
chủ trương về cải cách tư pháp trong việc tăng cường hoạt động công tố và
kiểm sát điều tra, đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tư pháp giải quyết các
vụ án hình sự về tội Cố ý gây thương tích và đã đạt được những kết quả đáng
ghi nhận. Các vụ án về tội Cố ý gây thương tích đã được CQĐT phát hiện,
khởi tố, điều tra và đề nghị truy tố, đình chỉ điều tra theo đúng quy định của
pháp luật, không để xảy ra tình trạng oan sai, bỏ lọt tội phạm. Tuy nhiên, bên
cạnh đó q trình điều tra tội Cố ý gây thương tích của CQĐT vẫn cịn có
những hạn chế, bất cập, vướng mắc nhất định xuất phát từ nhiều nguyên nhân,
trong đó có nguyên nhân từ việc VKSND chưa thực hiện tốt chức năng thực
hành quyền công tố. Đây là vấn đề đòi hỏi cần phải được nghiên cứu cả về
mặt lý luận và thực tiễn nhằm tìm ra những giải pháp nâng cao hơn nữa chất

lượng, hiệu quả công tác THQCT trong giai đoạn điều tra đối với tội Cố ý
gây thương tích trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, từ đó có những kiến giải nhằm
góp phần thực hiện tốt chức năng này đối với các Viện kiểm sát nhân dân trên
địa bàn cả nước trong thời gian tới.
Từ các lý do trên, học viên đã lựa chọn đề tài “Thực hành quyền công
tố trong giai đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích từ thực tiễn tỉnh Bắc
Ninh” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Cơng tác THQCT các vụ án hình sự nói chung và THQCT trong giai
đoạn điều tra đối với tội Cố ý gây thương tích nói riêng là cơng tác quan trọng

2


của ngành Kiểm sát nhằm bảo đảm quá trình điều tra làm rõ và xử lý tội phạm
được thực hiện đúng đắn, đầy đủ theo quy định của pháp luật. Vì vậy, đây là
vấn đề đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu và công bố trong các luận
án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ, giáo trình giảng dạy và các các bài viết trên tạp
chí... Q trình nghiên cứu luận văn, học viên đã tìm hiểu và tiếp cận nghiên
cứu được một số cơng trình khoa học có liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên
cứu của đề tài như:
- Các đề tài nghiên cứu cấp bộ nghiên cứu về lý luận, thực tiễn về công
tố, quyền thực hành công tố trong giai đoạn điều tra và chức năng buộc tội
trong tố tụng hình sự, gồm: “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ
chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam hiện nay” do VKSND tối cao ban
hành năm 1999; “Nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động tư pháp và thực
hành công tố về vấn đề thông khâu và chuyên khâu trong cơng tác kiểm sát
hình sự” do Trường cao đẳng Kiểm sát nghiên cứu năm 2001, “Những giải
pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp” do Viện khoa học Kiểm sát – VKSND tối cao chủ trì.

- Sách chuyên khảo “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp trong giai đoạn điều tra” ban hành năm 2005; “Quyền công tố và kiểm
các hoạt động tư pháp” ban hành năm 2008 do TS. Lê Hữu Thể chủ biên.
- Các Luận án tiến sĩ "Quyền công tố ở Việt Nam" của tác giả Lê Thị
Tuyết Hoa; “Hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu
cải cách tư pháp” năm 2015 của tác giả Đoàn Tạ Cửu Long.
- Các Luận văn thạc sĩ "Cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hành quyền
công tố, kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án xâm
hại tình dục trẻ em ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Ngô Thị Hảo; "Thực
hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các tội xâm phạm sức khỏe trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh - Thực trạng và một số kiến nghị" của tác giả Nguyễn Văn
Hùng; "Áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra đối với tội Cố ý gây thương

3


tích của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh" của tác giả Vũ Công Thập;
"Kiểm sát điều tra về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác từ thực tiễn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh" của tác giả Hoàng
Thị Kim Oanh; Luận văn thạc sĩ "Thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra các vụ án hình sự và thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh " của tác giả Vũ Thị
Thanh Hằng.
- Các bài viết được đăng trên các tạp chí chuyên ngành liên quan đến
vấn đề quyền công tố, thực hành quyền công tố và giải pháp nâng cao chất
lượng hoạt động này như: “Một số vấn đề về quyền công tố” của TS. Trần
Văn Độ trên Tạp chí Luật học số 3/2001; “Thực hiện quyền cơng tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự của VKS” của TS. Hồng
Thị Minh Sơn trên Tạp chí Luật học (số đặc san tố tụng hình sự) năm 2004;
“Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra các vụ án hình sự” của TS. Lê Hữu Thể trên Tạp chí Kiểm

sát số 4/2005, “Một số vấn đề về thực hành quyền công tố trong Tố tụng hình
sự Việt Nam” của Vũ Đức Hạnh trên Tạp chí Khoa học kiểm sát số 5/2018,
“Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn
công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu của cải cách tư pháp” Tạp chí Kiểm
sát số 08/2012 của TS. Nguyễn Hải Phong, “Những vấn đề cơ bản về thực hành
quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố” Tạp chí Kiểm sát số 10/2017 của TS Bùi Mạnh Cường.
Nhìn chung, có thể thấy các đề tài nghiên cứu trước đó đó đề cập các
góc độ khác nhau của công tác THQCT và kiểm sát điều tra tội phạm, tuy
nhiên, chưa có đề tài nào tập trung nghiên cứu vấn đề THQCT trong giai
đoạn điều tra đối với tội Cố ý gây thương tích từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.
Vì vậy, luận văn của học viên nghiên cứu về một vấn đề mới không trùng
lặp với các cơng trình khoa học đã được cơng bố. Học viên kế thừa dưới
góc độ lý luận và cách tiếp cận của những cơng trình nêu trên trong nghiên

4


cứu hồn thiện luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Qua việc nghiên cứu làm rõ thực trạng THQCT trong giai đoạn điều tra
tội Cố ý gây thương tích tại tỉnh Bắc Ninh, những kết quả đã đạt được,
nguyên nhân và các tồn tại, hạn chế. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất các giải
pháp nâng cao chất lượng THQCT trong giai đoạn điều tra đối với tội Cố ý
gây thương tích trong thời gian tới trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng và cả
nước nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quyền công tố, THQCT, làm rõ khái
niệm, đặc điểm, nội dung, phạm vi và các điều kiện bảo đảm việc THQCT

trong giai đoạn điều tra đối với tội Cố ý gây thương tích.
- Phân tích, đánh giá quy định của BLTTHS năm 2015 về THQCT
trong giai đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích; nêu được một số điểm mới
so với BLTTHS năm 2003.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn THQCT trong giai đoạn điều tra tội Cố ý
gây thương tích ở Bắc Ninh trong 05 năm (từ năm 2015 đến năm 2019).
- Đề xuất quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng THQCT trong
giai đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh, đáp
ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn THQCT trong giai
đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích tại tỉnh Bắc Ninh trong 05 năm.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về chủ thể: VKSND hai cấp tỉnh Bắc Ninh;
Về không gian: Đề tài nghiên cứu trong phạm vi tỉnh Bắc Ninh;

5


Về thời gian: Đề tài nghiên cứu và lấy số liệu trong khoảng thời gian từ
năm 2015 đến năm 2019.
Về giai đoạn tố tụng: Từ khi CQĐT khởi tố vụ án cho đến khi CQĐT
kết thúc vụ án, đề nghị VKS truy tố (hoặc cho đến khi CQĐT đình chỉ vụ án);
từ khi VKS trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung đến khi VKS nhận lại hồ
sơ.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử của học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng Nhà nước, pháp luật và những chủ trương, đường lối của

Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm, cải cách tư pháp.
- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu đề tài, học viên
đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích
và tổng hợp; phương pháp thống kê, so sánh; phương pháp diễn dịch; phương
pháp quy nạp; phương pháp chuyên gia; phương pháp nghiên cứu tài liệu để
tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được
nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Luận văn đã làm sâu sắc hơn, sang rõ hơn một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra đối với tội Cố ý gây
thương tích. Đánh giá, phân tích hoạt động này từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
nhằm góp phần xây dựng, hoàn thiện, làm phong phú hơn các tri thức của
khoa học của vấn đề nghiên cứu.
Luận văn góp phần bổ sung nguồn tài liệu tham khảo cho các hoạt
động nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học
viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành tại các cơ sở đào tạo luật. Kết
quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại VKS hai cấp tỉnh Bắc

6


Ninh.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích.
Chương 2: Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.

Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thực hành quyền cơng tố đối
với vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố
* Quyền công tố:
Khái niệm quyền công tố từ lâu được các nhà khoa học pháp lý quan
tâm nghiên cứu, có nhiều quan điểm nhận thức khác nhau về quyền công tố.
Về thuật ngữ “công tố” là từ ghép Hán Việt, theo Đại từ điển tiếng
Việt, “cơng” có nghĩa là “thuộc về Nhà nước, tập thể; trái với “tư”; cịn “tố”
có nghĩa là “nói về những sai phạm, tội lỗi của người khác một cách cơng
khai trước người có thẩm quyền hoặc trước nhiều người”; “cơng tố” có nghĩa
là “điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Toà án”.
Qua nghiên cứu các tài liệu hiện hành có thể thấy các quan điểm về
quyền công tố như sau:
Quan điểm thứ nhất: Công tố không phải là chức năng độc lập của
VKS mà chỉ là hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong TTHS. Quan điểm này đó đánh đồng quyền cơng tố với chức năng
kiểm sát tuân theo pháp luật của VKS, coi việc thực hiện quyền công tố chỉ là
một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật. Quan điểm này xuất phát từ chức năng của Viện kiểm sát nhân dân
để xem xét quyền công tố. Theo đó, tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân

theo pháp luật đều là THQCT. Đây là quan điểm chịu ảnh hưởng mạnh mẽ
của các nhà tố tụng hình sự và quan điểm về TTHS của Liên Xơ trước đây.
Quan điểm thứ hai: quyền công tố là quyền duy nhất của VKS thay mặt
Nhà nước để bảo vệ lợi ích cơng khi có các vi phạm pháp luật. Quan điểm này cho

8


rằng quyền cơng tố xuất hiện từ khi có Nhà nước và pháp luật, được thể hiện đầu
tiên trong tố tụng hình sự; cùng với sự phát triển của xã hội và các ngành luật thì
quyền cơng tố được mở rộng sang các lĩnh vực kinh tế, dân sự, lao động.
Quan điểm thứ ba: quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho
VKS truy tố người phạm tội ra trước Tồ án và thực hiện việc buộc tội đó tại
phiên toà sơ thẩm. Quan điểm này lại thu hẹp khái niệm, nội dung, phạm vi
của quyền công tố và chỉ nhấn mạnh vai trò của VKS trong việc THQCT và
được thực hiện trong tố tụng hình sự ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự.
Quan điểm thứ tư: quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho các
cơ quan tiến hành tố tụng trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án hỡnh sự hoặc đó là hoạt động tố tụng của cơ quan điều tra, VKS, Tòa
án trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi phạm tội.
Theo quan điểm này thì các cơ quan tiến hành tố tụng đều là chủ thể của
quyền công tố, không có ranh giới rạch rịi giữa các chức năng cơ bản như
điều tra, truy tố, xét xử trong tố tụng hình sự; xóa nhịa ranh giới giữa các
chức năng buộc tội và chức năng xét xử trong tố tụng hình sự.
Quan điểm thứ năm: quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực
hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này
thuộc về Nhà nước, chỉ có trong tố tụng hình sự, được Nhà nước giao cho một
cơ quan thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người phạm tội. Đề làm được điều này, cơ quan THQCT (ở Việt Nam là
VKSND) phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ

để xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó truy tố bị can ra trước Tồ
án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tồ. Theo quan điểm này thì quyền cơng
tố là quyền nhân danh Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có
hành vi vi phạm pháp luật mà luật hình sự coi là tội phạm. Như vậy, quyền công
tố chỉ có trong lĩnh vực TTHS. Ở nước ta, quyền này Nhà nước giao cho VKSND
thực hiện. Quan điểm này phù hợp với pháp luật Việt Nam hiện hành.

9


Từ các quan điểm trên, có thể hiểu:
Quyền cơng tố là một dạng quyền năng pháp lý trong tố tụng hình sự,
đó là quyền buộc tội mang tính Nhà nước được trao cho Viện kiểm sát thực
hiện, nhằm buộc tội đối với cá nhân hoặc pháp nhân khi có căn cứ cho rằng
các chủ thể này đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm,
quyền buộc tội này hướng tới việc truy tố ra trước Tịa án để xét xử và buộc
tội cơng khai trước phiên tịa
- Đặc điểm quyền cơng tố
Thứ nhất, quyền công tố là quyền của Nhà nước mang bản chất chính
trị của Nhà nước, nhân danh Nhà nước để buộc tội đối với người (theo nghĩa
rộng, bao gồm người có năng lực trách nhiệm hình sự và pháp nhân thương
mại) thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự. THQCT có mục đích rõ
ràng là bảo vệ lợi ích của Nhà nước, môi trường tồn tại của Nhà nước.
Thứ hai, quyền công tố không thể tách rời mà luôn gắn liền với quyền
tài phán của Tồ án, đó chính là quyền cáo buộc hành vi vi phạm pháp luật
hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội và đưa người phạm tội ra
Tồ án theo đó là bảo vệ sự buộc tội trước phiên tồ. Quyền cơng tố không
đồng nhất với việc cứ nhất thiết mọi trường hợp phải đưa người phạm tội ra
Toà an, mà trên thực tế có trường hợp quyền cơng tố có thể được chấm dứt
khi đối tượng tác động của nó đã đủ căn cứ để chấm dứt như ở các trường

hợp người phạm tội được đình chỉ điều tra theo quy định tại Điều 248
BLTTHS; Điều 29 của BLHS.
Thứ ba, quyền cơng tố chỉ có thể do một cơ quan Nhà nước thực hiện
và độc lập với quyền tài phán của Toà án và ở nước ta cơ quan thực hiện
quyền này là hệ thống VKS nhân dân (bao gồm cả Viện kiểm sát qn sự
trong đó). Quyền cơng tố được hệ thống VKS nhân dân thực hiện trong tất cả
các giai đoạn tố tụng hình sự từ khi tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội
phạm, khởi tố vụ án, điều tra, truy tố, xét xử.

10


Thứ tư, Quá trình nghiên cứu lịch sử nhà nước pháp luật nói chung, lịch
sử nhà nước pháp luật Việt Nam nói riêng chúng ta thấy rằng quyền cơng tố
ln gắn liền với bản chất của Nhà nước, gắn với cách thức tổ chức quyền lực
nhà nước ở mỗi quốc gia và mơ hình tố tụng.
Quan điểm của Nhà nước ta về thực hiện chiến lược cải cách tư pháp,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã xác định: VKSND có hai
chức năng cơ bản là thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp
(Điều 107 Hiến pháp năm 2013, Điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014);
Về quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Đại hội lần
thức IX của Đảng đã chỉ rõ “VKS tập trung làm tốt chức năng công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp; Nghị quyết số 49 NQ/TW của Bộ chính trị
khóa IX về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nhấn mạnh: “Trước
mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp”.
- Đối tượng của quyền công tố:
Đối tượng của quyền công tố là cái mà quyền công tố tác động vào, cụ
thể là xác định được hành vi phạm tội và người thực hiện hành vi phạm tội để
trừng phạt, nhằm bảo đảm trật tự xã hội và trật tự pháp luật, bảo đảm lợi ích

chung cho xã hội. Như vậy, đối tượng của quyền công tố là tội phạm và người
phạm tội.
- Nội dung của quyền công tố: Nội dung của quyền công tố là sự buộc
tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội; còn việc sử dụng tổng hợp các
quyền năng pháp lý do pháp luật định nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều
phải được phát hiện và xử lý theo pháp luật, không để lọt tội phạm và người
phạm tội không làm oan người vô tội là nội dung của hoạt động THQCT.
- Phạm vi của quyền công tố:
Quyền công tố là quyền của Nhà nước truy cứu TNHS đối với người
phạm tội. Việc truy cứu TNHS diễn ra cả quá trình từ khi phát hiện tội phạm,

11


khởi tố, điều tra, truy tố, và buộc tội tại phiên tịa. Vì vậy, quyền cơng tố
khơng thể tồn tại ở lĩnh vực nào khác ngoài lĩnh vực tố tụng hình sự; phạm vi
quyền cơng tố bắt đầu từ khi phát hiện dấu hiệu của tội phạm và kết thúc khi
bản án có hiệu lực pháp luật, khơng bị kháng nghị, tức là quyền công tố kết
thúc khi việc buộc tội khơng cịn nữa.
* Thực hành quyền cơng tố:
Xuất phát từ nhận thức quyền công tố là quyền của nhà nước thực hiện
việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội và chỉ có trong lĩnh
vực tố tụng hình sự. Phạm vi của quyền cơng tố bắt đầu từ khi có tội phạm
xảy ra và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, khơng bị kháng nghị. Đối
tượng tác động của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội. Để đảm bảo
cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quyền công tố, Nhà nước ban hành các văn
bản pháp luật quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố.
Các quyền năng này được giao cho cơ quan Nhà nước nào thì cơ quan đó là
cơ quan có trách nhiệm THQCT. Ở nước ta theo quy định của Hiến pháp,
Luật Tổ chức VKSND, Luật TTHS thì cơ quan được Nhà nước giao THQCT

là VKSND. Pháp luật cũng quy định quyền năng pháp lý cần thiết để VKS
thực hiện quyền năng của mình trong các giai đoạn tố tụng hình sự, như khởi
tố vụ án, khởi tố bị can, yêu cầu điều tra, trực tiếp điều tra, áp dụng, thay đổi
biện pháp ngăn chặn, quyết định truy tố, đọc cáo trạng, tranh tụng tại phiên
tòa…Việc sử dụng quyền năng pháp lý của VKS như nêu trên để truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội gọi là THQCT.
Vì vậy, THQCT là việc Viện kiểm sát nhân dân sử dụng tổng hợp các
quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố do Nhà nước quy định để
thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự, buộc tội đối với người phạm tội
trong các giai đoạn tố tụng hình sự.
- Nội dung thực hành quyền công tố:

12


Từ nhận thức ở trên, THQCT là việc VKSND sử dụng tất cả những
quyền năng tố tụng hình sự mà pháp luật quy định để bảo đảm phát hiện kịp
thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và
người phạm tội, không làm oan người vô tội. Vậy, nội dung THQCT là những
quyền năng pháp lý của VKSND trực tiếp quyết định hoặc liên quan đến việc
cáo buộc bị can, bị cáo.
- Phạm vi thực hành quyền công tố:
Về nguyên tắc quyền công tố là nền tảng, là cơ sở để THQCT vì vậy,
phạm vi THQCT đồng nhất với phạm vi của quyền công tố. Tức là THQCT
bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án của Tòa án có hiệu lực
pháp luật khơng bị kháng nghị hoặc vụ án được đình chỉ theo quy định của
pháp luật TTHS.
Tuy nhiên, trên thực tế có hành vi phạm tội xảy ra nhưng chưa được
phát hiện và có trường hợp phát hiện hành vi phạm tội nhưng chưa xác định
được người thực hiện hành vi phạm tội. Về nguyên tắc thì Nhà nước có trách

nhiệm nhân danh quyền lực cơng để truy cứu TNHS đối với người đủ năng
lực trách nhiệm hình sự đã thực hiện hành vi phạm tội ngay cả đối với những
người đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng chưa bị phát hiện khi đang còn
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Như vậy, phạm vi quyền công tố luôn
rộng hơn phạm vi THQCT.
* Về mối quan hệ giữa quyền công tố và thực hành quyền cơng tố.
Như đã phân tích ở trên, quyền cơng tố là quyền của Nhà nước thực
hiện việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Đối tượng của quyền công
tố là tội phạm và người phạm tội. THQCT là việc Nhà nước giao cho một cơ
quan của mình những quyền năng pháp lý để thực hiện việc truy cứu TNHS
đối với người phạm tội. Theo pháp luật Việt Nam thì cơ quan Nhà nước được
được giao những quyền năng pháp lý này là VKSND.

13


Như vậy, mối quan hệ giữa quyền công tố và THQCT là mối quan hệ
giữa quyền lực nhà nước và cách thức tổ chức thực hiện quyền lực đó. Quyền
cơng tố là quyền của Nhà nước có nội dung là sự buộc tội đối với người đã thực
hiện hành vi tội phạm, còn THQCT là tổng hợp các quyền năng pháp lý để thực
hiện sự buộc tội ấy. Do vậy, những căn cứ làm phát sinh quyền cơng tố thì cũng
làm phát sinh THQCT và những căn cứ làm chấm dứt quyền cơng tố thì cũng
làm chấm dứt việc THQCT.
1.1.2. Đặc điểm của thực hành quyền công tố đối với vụ án hình sự
Thực hành quyền cơng tố đối với vụ án hình sự có những đặc điểm cơ
bản sau:
Thứ nhất, THQCT bao gồm các hành vi và quyết định của người có
thẩm quyền. Chủ thể THQCT đối với vụ án hình sự là VKS. Hiến pháp và
pháp luật của Nhà nước ta qua các thời kỳ đều khẳng định trong bộ máy các
cơ quan nhà nước Việt Nam, VKS là cơ quan duy nhất THQCT.

Thứ hai, các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có nhiệm vụ chứng
minh toàn bộ sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện, bao gồm cả các
chứng cứ buộc tội và gỡ tội; quyết định hạn chế các quyền của công dân như
bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác Do đó THQCT cũng
phải ln gắn liền với nhiệm vụ trên. Mục đích của THQCT là nhằm xem xét
có quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội hay
không, đảm bảo không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Thứ ba, THQCT trong vụ án hình sự được tiến hành theo các trình tự,
thủ tục tố tụng chặt chẽ mà pháp luật tố tụng hình sự quy định. VKS phải
tuyệt đối tuân thủ, thi hành, sử dụng và áp dụng các quy định của pháp luật về
chức năng, nhiệm vụ của mình (Luật tổ chức VKSND, BLTTHS…) để giải
quyết đúng đắn vụ án.
Thứ tư, hoạt động THQCT có mối quan hệ chặt chẽ với hoạt động kiểm
sát điều tra, kiểm sát xét xử (kiểm sát việc tuân theo pháp luật). Tuy nhiên,

14


mặc dù đều là chức năng của VKS trong tố tụng hình sự nhưng chúng có đối
tượng, phạm vi và nội dung hoạt động khác nhau. Đối tượng của THQCT là
tội phạm và người phạm tội còn đối tượng của kiểm sát việc tuân theo pháp
luật là hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng, người tham gia tố tụng. Mục đích và nhiệm vụ của THQCT là làm
sáng tỏ tội phạm đã xảy ra để truy cứu trách nhiệm hình sự cịn mục đích,
nhiệm vụ của kiểm sát việc tn theo pháp luật là phát hiện kịp thời các hành
vi vi phạm pháp luật của các chủ thể trong tố tụng hình sự, chủ thể có liên
quan để kịp thời u cầu khắc phục vi phạm hoặc yêu cầu phòng ngừa các
nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tội phạm. Nội dung hoạt động của THQCT
thơng qua các hình thức cơ bản như VKS ra các lệnh, quyết định, cáo trạng,
luận tội cịn kiểm sát việc tn theo pháp luật thơng qua các kiến nghị, yêu

cầu. Hậu quả pháp lý của THQCT sẽ dẫn đến vệc truy cứu trách nhiệm hình
sự hay không, áp dụng biện pháp ngăn chặn như thế nào còn hậu quả pháp lý
của kiểm sát việc tuân theo pháp luật dẫn đến việc xử lý các vi phạm, thiếu
sót trong việc giải quyết vụ án hình sự.
Thứ năm, THQCT trong vụ án hình sự thể hiện mối quan hệ chặt chẽ
vừa phối hợp vừa chế ước giữa VKS với CQĐT. Mối quan hệ phối hợp kéo
dài xuyên suốt tồn bộ q trình tố tụng từ khi phát hiện tội phạm đến khi kết
thúc vụ án hình sự và được thực hiện theo các quy định của pháp luật và theo
các quy chế phối hợp liên ngành. VKS có quyền chế ước đối với CQĐT thể
hiện qua việc VKS có quyền giám sát các hoạt động điều tra của CQĐT một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua việc nghiên cứu hồ sơ, từ đó yêu cầu
CQĐT thực hiện các hoạt động điều tra hoặc hủy bỏ các quyết định trái pháp
luật của CQĐT nhằm bảo đảm hoạt động của CQĐT trong điều tra vụ án hình
sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
1.1.3. Ý nghĩa của thực hành quyền cơng tố đối với vụ án hình sự
Thực hành quyền cơng tố đối với vụ án hình sự nhằm bảo đảm:

15


Thứ nhất, mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý
kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vơ
tội. Phịng, chống oan sai là một chủ trương quan trọng, nhất quán của Đảng
ta đặt ra cho công tác tư pháp. Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 08/11/1993 của
Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp
luật đã nêu rõ: “Đối với người phạm tội phải xử lý chính xác, nghiêm minh,
kịp thời… bắt, giam giữ đúng pháp luật và xét xử đúng người, đúng tội; chấm
dứt tình trạng bắt oan người vô tội; không trấn áp tràn lan, đồng thời không
để lọt tội phạm”. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị
về một số nhiệm vụ trọng tâm cơng tác tư pháp trong thời gian tới; trong đó

nêu rõ những tồn tại của công tác tư pháp trong thời gian qua là: “Chất lượng
cơng tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân
dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các
quyền tự do dân chủ của cơng dân, làm giảm sút lịng tin của nhân dân đối
với Đảng, Nhà nước và các cơ quan Tư pháp”. Chỉ thị số 48-CT/TW ngày
22/10/2010 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
cơng tác phịng, chống tội phạm trong tình hình mới nêu rõ “Tiếp tục đẩy
mạnh cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác điều tra, truy
tố, xét xử… nhằm phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm
tội, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội” là một trong những
nhiệm vụ chủ yếu trong công tác đấu tranh phịng, chống tội phạm.
Thứ hai, khơng để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị
hạn chế các quyền cơng dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do,
danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật. Áp dụng biện pháp ngăn chặn
là biện pháp thể hiện sự cưỡng chế quyết liệt, mạnh mẽ của Nhà nước đối với
người phạm tội, đảm bảo cho việc đấu tranh phòng, chống tội phạm đạt hiệu
quả cao nhưng nó cũng trực tiếp xâm hại đến quyền cơ bản của công dân
được quy định trong Hiến pháp, đó là quyền bất khả xâm phạm về thân thể.

16


BLTTHS coi đây là một trong những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố
tụng hình sự: "Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Không ai
bị bắt nếu khơng có quyết định của Tịa án, quyết định hoặc phê chuẩn của
Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang”. Chỉ thị số 53/CT-TW ngày
21/3/2000 của Bộ Chính trị xác định: "Tăng cường trách nhiệm pháp lý của
Vỉện kiểm sát nhân dân đối với công tác bắt, giam, giữ. Việc bắt, giam phải
được xem xét, phê chuẩn đối với từng trường hợp, từng đối tượng cụ thể đối
với trường hợp bắt, giam cũng được hoặc không bắt, giam cũng đuợc thì

khơng bắt giam”. Điều đó địi hỏi các biện pháp ngăn chặn phải được quy
định đầy đủ, chặt chẽ trong BLTTHS và phải đựợc thực hiện một cách
nghiêm chỉnh, triệt để, nhằm tránh tình trạng bắt, tạm giữ, tạm giam oan
người vô tội, để lọt kẻ phạm tội. VKS phải có trách nhiệm chủ động, kịp thời
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định của mình nhằm bảo
đảm việc bắt, tạm giữ, khởi tố đủ căn cứ và hợp pháp. Làm tốt công tác
THQCT trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác
có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động phòng, chống tội phạm, bảo vệ quyền
tự do, dân chù của công dân.
Thứ ba, Thực hành quyền công tố đối với vụ án hình sự nhằm đảm bảo
việc giải quyết vụ án hình sự được khách quan, tồn diện, đầy đủ, chính xác,
đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật phải được phát hiện kịp thời, khắc
phục và xử lý nghiêm minh.
1.2. Khái niệm, phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra tội Cố ý gây thương tích
1.2.1. Khái niệm thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn điều tra tội
Cố ý gây thương tích
Để làm rõ khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
tội Cố ý gây thương tích, chúng ta cần làm rõ các khái niệm giai đoạn tố tụng,
giai đoạn điều tra, vụ án hình sự và vụ án hình sự Cố ý gây thương tích

17


- Giai đoạn tố tụng hình sự: Trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
chưa ghi nhận định nghĩa pháp lý thế nào là giai đoạn tố tụng hình sự. Tuy
nhiên, dưới góc độ khoa học khái niệm giai đoạn tố tụng hình sự có thể được
định nghĩa là: bước của quá trình tố tụng hình sự tương ứng với chức năng
nhất định trong hoạt động tư pháp hình sự của từng loại chủ thể tiến hành tố
tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định, có thời

điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc để giải quyết vụ án hình sự một cách cơng
minh và khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần củng cố pháp chế
và trật tự pháp luật, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ Tổ quốc, quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân
và tổ chức. Theo GS.TSKH Lê Cảm thì tố tụng hình sự bao gồm bốn giai
đoạn, bao gồm giai đoạn khởi tố, giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố và giai
đoạn xét xử.
Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên mà
trong đó cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự tiến hành việc xác định có hay khơng các dấu hiệu
của tội phạm trong hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện, đồng
thời ban hành quyết định về việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự
liên quan đến hành vi đó. GS.TS Võ Khánh Vinh có đưa ra khái niệm quyết
định khởi tố vụ án hình sự, trong đó có nội dung về khởi tố vụ án hình sự:
“Quyết định khởi tố vụ án hình sự là hành vi tố tụng hình sự của một pháp
nhân (chủ thể tiến hành tố tụng) có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự biểu
hiện bằng một văn bản tố tụng hình sự xác định một sự kiện pháp lý xảy ra
trong thực tế có dấu hiệu của tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS
nhằm khởi phát những quan hệ tố tụng, mở đầu cho việc thực hiện những
hành vi tố tụng cần thiết để làm rõ sự thật khách quan về sự kiện đó. Giai
đoan khởi tố vụ án hình sự được bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền nhận
được tin báo về tội phạm, kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền ra được một

18


trong hai quyết định là quyết định khởi tố vụ án hình sự và quyết định khơng
khởi tố vụ án hình sự”. Theo quan điểm của GS.TS Võ Khánh Vinh thì giai
đoạn khởi tố vụ án hình sự được bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền nhận
được tin báo (nguồn tin về tội phạm) và kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền ra

quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự.
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự tra là một giai đoạn của tố tụng hình
sự, kế tiếp của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự và là giai đoạn thứ hai của tố
tụng hình sự, bắt đầu từ khi đã có quyết định khởi tố vụ án hình sự của Cơ
quan có thẩm quyền điều tra. Cơ quan có thẩm quyền điều tra căn cứ vào các
quy định của pháp luật tố tụng hình sự và dưới sự kiểm sát của VKS tiến hành
các biện pháp cần thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu
các tình tiết của vụ án hình sự, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm,
cũng như người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm tội để truy cứu trách
nhiệm hình sự, đồng thời bảo đảm cho việc bồi thường thiệt hại về vật chất do
tội phạm gây nên. Giai đoạn này kết thúc khi CQĐT kết thúc điều tra chuyển
hồ sơ đến VKS để đề nghị truy tố và được VKS thụ lý hoặc kết thúc khi có
quyết định đình chỉ vụ án của cơ quan có thẩm quyền.
Giai đoạn truy tố vụ án hình sự là giai đoạn trong tố tụng hình sự, mà
trong đó Viện kiểm sát căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm đánh giá một cách toàn diện, khách
qua các tài liệu của vụ án hình sự do CQĐT chuyển đến và trên cơ sở đó VKS
ra quyết định truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng, trả lại hồ sơ để
CQĐT điều tra bổ sung hoặc là đình chỉ vụ án hình sự.
Giai đoạn xét xử vụ án hình sự là giai đoạn cuối cùng mà trong đó Tịa
án có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến
hành xét xử theo thủ tục chung trên cơ sở kết quả tranh tụng cơng khai tại
phiên tịa để phán xét về vấn đề tính chất tội phạm của hành vi, có tội hay
khơng của bị cáo; tun bản án, quyết định của Tịa án có hiệu lực pháp luật

19


nhằm giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự một cách cơng minh và đúng
pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục. Thời điểm của giai đoạn này

được bắt đầu từ khi Tòa án nhận được hồ sơ vụ án (quyết định truy tố theo thủ
tục rút gọn hoặc bản cáo trạng) do Viện kiểm sát chuyển sang và kết thúc
bằng một bản án (quyết định) có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là nhằm xác định tội phạm và người
thực hiện hành vi phạm tội; xác định thiệt hại do tội phạm gây ra, tạo điều
kiện cần thiết cho việc giải quyết vụ án; lập hồ sơ, đề nghị truy tố bị can; xác
định nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan tổ chức hữu
quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn chặn. Tuy nhiên, qua thực tiễn
hoạt động điều tra, có thể khái quát nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là xác
định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội; thu thập đầy đủ chứng cứ
để chứng minh làm rõ toàn bộ vụ án; tiến hành các biện pháp cần thiết để
phục vụ cho việc điều tra, xử lý người phạm tội; xây dựng kết luận điều tra,
hoàn thiện hồ sơ vụ án và đề nghị VKS truy tố. Nhiệm vụ của giai đoạn điều
tra có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án. Hầu hết việc giải
quyết vụ án hình sự tại các giai đoạn sau đều phải dựa trên cơ sở các chứng cứ
đã thu thập được ở giai đoạn điều tra.
Chủ thể tiến hành hoạt động điều tra là CQĐT có thẩm quyền theo quy
định tại điều 163 BLTTHS, bao gồm: CQĐT của Công an nhân dân, CQĐT
của Quân đội nhân dân và CQĐT của VKSND tối cao, VKS Quân sự trung
ương. Ngoài ra cịn có các Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra như: các cơ quan của Bộ đội Biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm,
lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư và một số cơ quan khác của Công an nhân
dân, Quân đội nhân dân. Theo quy định pháp luật thì VKS cũng có thẩm
quyền trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong giai đoạn điều tra
nhưng chỉ trong một số trường hợp. Do vậy, chủ thể chính tiến hành một số
hoạt động điều tra vụ án hình sự là các CQĐT có thẩm quyền.

20



×