Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Skkn chủ nhiệm dạy học sinh lớp 1 kĩ năng tự bảo vệ bản thân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.21 MB, 36 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm

Trường tiểu học Trưng Vương

MỤC LỤC

TÊN DANH MỤC

TRANG SỐ

Danh mục bảng chữ cái viết tắt

2

MỞ ĐẦU

3

1. Lý do chọn đề tài

3

2. Mục đích nghiên cứu

3

3. Đối tượng nghiên cứu

4

4. Đối tượng khảo sát - thực nghiệm



5

NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

6

1. Cơ sở lý luận của vấn đề

6

2. Thực trạng của học sinh lớp 1

6

3. Các biện pháp đã tiến hành để giúp học sinh kĩ năng tự bảo vệ

7

4. Hiệu quả của SKKN.

18

Những hình ảnh hoạt động của cơ và trị đã làm được trong thời

20

gian qua (minh chứng cho đề tài SKKN)
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ


33

1. KẾT LUẬN

33

2. KHUYẾN NGHỊ

34

Tài liệu tham khảo

35

Giáo viên: Bành Đức Hiền
1


Sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm

Trường tiểu học Trưng Vương

DANH MỤC NHỮNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

GV

Giáo viên


HS

Học sinh

TBV

Tự bảo vệ

GVCN

Giáo viên chủ nhiệm

SGK

Sách giáo khoa.

BGH

Ban Giám hiệu

SKKN

Sáng kiến kinh nghiệm

VD

Ví dụ

TLTK


Tài liệu tham khảo

Giáo viên: Bành Đức Hiền
2


Sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm

Trường tiểu học Trưng Vương

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho học sinh là một việc làm rất quan trọng và
cần thiết. Nhất là đối với HS lớp 1, các con còn rất bé, mọi kỹ năng tự bảo vệ
bản thân đều khơng có, thể lực cũng chưa đủ để chống lại những xâm hại cơ thể
về mọi mặt. Nhưng ở lứa tuổi này, nếu các con được rèn luyện thường xun để
tự đối phó với các tình huống có thể xảy ra thì các con hồn tồn có thể tiếp thu
được. Giáo dục kỹ năng TBV là cung cấp cho các con những kiến thức cơ bản
nhất với những hình thức phù hợp nhất cho các con, giúp các con dễ nhớ, ấn
tượng sâu sắc với các tình huống có thể xảy ra, vận dụng những kiến thức được
học để tự bảo vệ bản thân. Đây cũng là phương pháp mà người lớn có thể bảo vệ
cho trẻ một cách tốt nhất khi các con gặp phải nguy hiểm mà khơng có cha, mẹ,
anh, chị hoặc cơ giáo bên cạnh. Các con cần được dạy và rèn luyện kỹ năng
TBV trong nhiều tình huống khác nhau, trong nhiều hịan cảnh và khơng gian
khác nhau, đồng thời có kỹ năng so sánh, phân tích, tổng hợp…. Nâng hiểu biết
nhất định của các con về các sự việc, hiện tượng xung quanh…Đây cũng là một
nhiệm vụ quan trọng đối với giáo viên chủ nhiệm của học sinh lớp 1, là bước
đầu chuẩn bị cho các con hành trang bước vào đời, bảo vệ sự an tồn cho trẻ nhỏ
khơng chỉ là trách nhiệm của gia đinh, nhà trường mà là trách nhiệm của tồn xã

hội.

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Ở nước ta hiện nay, tình trạng gia đình và nhà trường không dạy cho trẻ kĩ
năng tự bảo vệ nên dẫn đến những câu chuyện buồn xảy ra. Từ trẻ sơ sinh vừa
lọt lòng mẹ, hay trẻ em lứa tuổi đi học... đã có tình trạng bị bắt cóc. Đặc biệt bậc
mầm non, tiểu học bị xâm hại thân thể đã được biết qua thông tin đại chúng: qua
kênh đài, báo giấy, báo mạng, ti vi....
Học sinh bị xâm hại tình dục, bị bắt cóc làm con tin để tống tiền bố mẹ
(với gia đình khá giả), bị làm gái trong các ổ mại dâm dẫn đến trẻ bị trầm cảm,
bị stress, sợ tiếp xúc với mọi người, sợ đám đơng thậm chí muốn chấm dứt cuộc
sống vì bị xâm hại tình dục. Hay chính những "phạm nhân tuổi teen" gây nên
khơng ít tột ác kinh hồng mà vì những nguyên nhân rất đỗi bình thường. Rõ
ràng dạy cho học sinh các kĩ năng tự bảo vệ trước những cám dỗ đang là một
yêu cầu rất cấp thiết trong giáo dục công dân của nước ta hiện nay.

Giáo viên: Bành Đức Hiền
3


Sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm

Trường tiểu học Trưng Vương

3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Là một giáo viên dạy tiểu học nhiều năm trong nghề, đặc biệt là lớp 1, tôi
không khỏi lo lắng khi những nguy hiểm đang ngày ngày rình rập các con. Báo
giấy, báo mạng tràn ngập những thông tin về các vụ tai nạn đáng tiếc cho con
trẻ, ngã, bỏng nước sôi, bỏng lửa, rơi từ tầng cao xuống đất, kẹt thang máy, bị
bắt cóc, bị lừa bán, bị xâm hại tình dục…đọc những tin tức ấy mà đau xót, phẫn

uất. Trong tình hình xã hội như hiện nay, cách tốt nhất là dạy các con cách tự
bảo vệ mình. Một số bậc phụ huynh cho rằng, không nên cho trẻ biết về những
tiêu cực của cuộc sống quá sớm khi họ muốn xây dựng cho con cái của mình
một mơi trường hồn tồn trong sạch. Song, thực tế các bậc phụ huynh không
phải lúc nào cũng có thể bảo đảm tuyệt đối sẽ ln ở bên con mỗi khi xảy ra tình
huống xấu. Do vậy, tập dần thói quen tự nhận biết và cách tránh xa nơi nguy
hiểm, tình huống nguy hiểm là cách tốt nhất để bảo vệ sự an toàn cho các con.
Trong suốt một thời gian dài những suy nghĩ làm thế nào để giúp các con tránh
được những tai nạn một cách tốt nhất luôn thường trực trong tôi, tôi hiểu tâm lí
và trình độ nhận thức của học sinh lớp 1, tơi đã vận dụng những hình thức rèn
luyện kỹ năng tự bảo vệ cho học sinh của mình liên tục trong 3 năm và đã thu
được những kết quả không nhỏ. Với mong muốn những kinh nghiệm bản thân
được phổ biến rộng rãi cho các giáo viên cấp tiểu học, đặc biệt là với giáo viên
lớp 1 để bảo vệ được các con an tồn nhất có thể, tơi đã viết sáng kiến kinh
nghiệm với đề tài “DẠY HỌC SINH LỚP 1 KĨ NĂNG TỰ BẢO VỆ BẢN THÂN”.
4. ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT THỰC NGHIỆM:
- SKKN được đúc kết và trải nghiệm qua quá trình dạy học sinh lớp 1.
- SKKN được áp dụng vào thực tế qua 3 năm học tại:
+ Lớp 1D (Năm học 2011 - 2012)
+ Lớp 1E (Năm học 2012 - 2013)
+ Lớp 1E (Năm học 2013 - 2014)

Giáo viên: Bành Đức Hiền
4


Sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm

Trường tiểu học Trưng Vương


NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận của vấn đề.
Kỹ năng TBV giúp các con nhận thức được những nguy hiểm ở xung
quanh mình, cách để phịng chống và thốt khỏi nguy hiểm đó như thế nào là
một việc vô cùng quan trọng đối với lứa tuổi các con. Khi trong tình huống nguy
hiểm xảy ra, nếu các con khơng có những kiến thức và kỹ năng này, thì sự an
tồn của các con sẽ bị xâm hại, các con cần tập thói quen ứng phó linh hoạt
trước những tình huống bất ngờ, bình tĩnh nhớ ra những kiến thức đã được học
để TBV mình một cách tốt nhất. Có nhiều bậc cha mẹ, hoặc vì bản thân thiếu
kiến thức, khơng có điều kiện cập nhật những thơng tin liên quan đến vấn đề của
con mình mà khơng có những phương pháp dạy con tránh những nguy hiểm,
hoặc có biết nhưng do chủ quan, nghĩ rằng những việc ấy xảy ra với người khác
chứ không thể xảy ra với con mình mà quên đi việc dạy con cách tự bảo vệ bản
thân…Chính vì vậy vai trị của giáo viên là ngoài việc cung cấp kiến thức trên
lớp cho các con, thì việc dạy các con những kỹ năng tự bảo vệ mình là một việc
khơng thể khơng làm, ngồi ra giáo viên phải ln kết hợp với cha mẹ học sinh
để bảo vệ sự an toàn tuyệt đối cho con trẻ. Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới
mọi hình thức.

2. Thực trạng của học sinh lớp 1
Trường tiểu học Trưng Vương có trên 1.600 HS, trong đó có 7 lớp 1, tổng
số HS lớp 1E năm học 2013 - 2014 là 50, 27 nam, 23 nữ. Là ngơi trường có bề
dày truyền thống lịch sử: Dạy tốt - Học tốt; Với đông đảo cha mẹ đều chung
lòng quan tâm đến con em học sinh; Tuy nhiên do điều kiện hồn cảnh phải bận
cơng tác, lo nhiều việc lớn cho các hội, đâu đó cịn vài PHHS cịn lo kiếm kế
sinh nhai nên ít có thời gian dành cho con em; Hơn nữa nhiệm vụ giáo dục kỹ
năng TBV cho các con là việc làm vô cùng quan trọng đối với các giáo viên chủ
nhiệm. Trước thực trạng bạo lực xã hội gia tăng, sự an toàn của các con phải
được đặt lên hàng đầu. HS lớp 1 hầu như khơng biết tự bảo vệ mình trước những
tình huống có thể khiến sự an tồn của các con bị đe dọa. Để có một thói quen

bình tĩnh khi xử lí những tình huống bất ngờ, trẻ cần được rèn khả năng quan
sát, biết xác định vấn đề, tìm ngun nhân và các phương án có thể giải quyết.
Cần giúp trẻ biết tiếp nhận thông tin, chọn lọc và xử lí thơng tin, tìm ra cách giải
quyết vấn đề phù hợp, nhanh và hiệu quả. Những phương pháp và hình thức
giáo dục kỹ năng TBV cho trẻ cần được đơn giản, dễ nhớ, lặp lại nhiều lần trong
nhiều tình huống và hồn cảnh, khơng gian khác nhau. Với học sinh trường tiểu
Giáo viên: Bành Đức Hiền
5


Sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm

Trường tiểu học Trưng Vương

học Trưng Vương, cha mẹ các con đều sống ở thành phố, điều kiện cập nhật
thông tin dễ dàng hơn vùng sâu, vùng xa hoặc ở nơng thơn, vì vậy điều kiện kết
hợp với cha mẹ HS nhằm mục đích bảo vệ an toàn cho các con tốt nhất cũng
thuận lợi hơn.

3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề.
Ở lứa tuổi lớp 1, các con còn rất bé và non nớt, vì vậy giáo dục kỹ năng
TBV cho các con cần vận dụng nhiều hình thức khác nhau, nhưng mục đích cuối
cùng là giúp các con vận dụng được kỹ năng đã được học vào những tình huống
cụ thể một cách tốt nhất, có hiệu quả nhất. Dưới đây là những điều tôi đã vận
dụng dạy các con kỹ năng TBV trong suốt thời gian vừa qua và đã thu được
những kết quả đáng mừng.
3.1. Giáo dục các con ý thức được các con có quyền được bảo vệ bản
thân.
- Các con nhận thức được rằng:
Không ai có quyền ngăn cản các con được đi học.

Khơng ai có quyền đánh đập, lăng mạ các con
Khơng ai có quyền bắt ép các con phải lao động nặng nhọc
Không ai có quyền lừa dối, dụ dỗ các con làm những việc nguy hiểm
đến tính mạng.
Khơng ai được phép để những thứ gây cháy, nổ, độc hại gần các con.
Những kiến thức trên đây để giúp các con nhớ được, hiểu được tơi phải
chia lớp ra thành những nhóm nhỏ, đóng kịch biểu diễn tình huống, sau đó đặt
câu hỏi cho các con trả lời trong từng trường hợp. Hình thức này được diễn ra
thường xuyên trong những buổi học ngoại khóa, bán trú…
Tình huống hiểm nguy từ thiên nhiên hay từ chính con người gây ra có thể
đến với bất cứ ai, cả người lớn và trẻ nhỏ. Đối mặt với tình huống hiểm nguy, trẻ
có thể mang tâm trạng lo âu, sự sợ hãi hoặc thậm chí lâm vào tình trạng stress,
đặc biệt là khi chúng thấy người lớn hoảng sợ hay bị q kích động. Bình tĩnh là
yếu tố hết sức quan trọng trong những tình huống bất ngờ. Mà để bình tĩnh được
thì đương nhiên phải có sự chuẩn bị trước về tâm lý cũng như được tập trước
những tình huống tương tự. Đó là những điều có thể chuẩn bị trước cho trẻ.

Giáo viên: Bành Đức Hiền
6


Sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm

Trường tiểu học Trưng Vương

Tôi nhận thấy còn nhiều trẻ thiếu kỹ năng nhận biết và tránh xa những
nguy cơ rủi ro, chết người như lửa, nước sôi, điện... Nguyên nhân lại hết sức đơn
giản là do các bậc cha mẹ thường lo lắng và cấm đoán con trước những nguy
hiểm tiềm ẩn, nhưng lại khơng giải thích một cách rõ ràng. Trong khi đó, trẻ vốn
hiếu kỳ, tị mị tự khám phá. Vì thế trẻ khơng thể tự mình tránh khỏi rủi ro.

3.2. Giáo dục trẻ xác định được những tình huống nguy hiểm để TBV
bản thân.
Để trẻ bình tĩnh, trước hết trẻ phải xác định rằng, nguy hiểm có thể xảy ra
mọi lúc mọi nơi, có thể đã được báo trước và đơi khi không được báo trước.
Không thể loại bỏ được nguy hiểm, mà phải tìm cách ứng phó với nó. Nhưng
đương đầu với lí trí sáng suốt, bằng khả năng dự đốn nhạy cảm và bằng mẹo
chứ khơng phải lúc nào cũng hoàn toàn bằng sức lực.
Trẻ cần nhận biết được dấu hiệu của sự nguy hiểm. Mỗi hiện tượng khi
xảy ra đều có ngun nhân. Vì thế, suy luận hợp lí sẽ giúp trẻ lường trước và tìm
cách để giảm bớt hậu quả nghiêm trọng.
Có rất nhiều tình huống xảy ra có thể de dọa đến sự an tồn của các con,
vì thế các con cần hiểu được trong tình huống nào thì phải làm gì để tránh sự
nguy hiểm. Tơi đã đưa ra các tình huống cụ thể, chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ,
khi đặt huống tơi u cầu các nhóm thảo luận câu trả lời phải giải quyết tình
huống đó thế nào, sau đó các nhóm nghe và nhận xét cách giải quyết, cuối cùng
thì phân vai đóng để các con nhớ được nhanh và lâu hơn.
 Tình huống thứ nhất.
Khi ở gần chỗ các con chơi có một đám cháy, các con thấy đám cháy có
nguy hiểm khơng? Vì sao?
Hầu hết các con đều cho rằng mình sẽ tránh xa nơi có đám cháy đó, cũng
có trẻ khơng trả lời được phải làm gì, khi cố giáo gặng hỏi thì lại khóc, đấy cũng
là một khó khăn không nhỏ cho giáo viên lớp 1, bởi muốn các con hiều được
vấn đề cần kiên nhẫn và mất nhiều thời gian.
Trước tiên tơi giải thích cho các con vì sao đám cháy lại nguy hiểm, lửa rất
nóng, nó có thể làm các con bị bỏng, khi bị bỏng thì da rất rát, rất đau đớn, và
sau đó có thể bị nhiễm trùng, lửa có thể khiến các con bị thương, thậm chí có thể
lấy đi sinh mạng của các con nữa. Khi các con hiểu được sự nguy hiểm của lửa,
thì các con ý thức được rằng nên tránh xa những đám cháy, báo cho người lớn
biết để xử lí. Nếu khơng may mắn bị bỏng thì phải ngâm ngay chỗ bị bỏng vào
nước mát…

Hướng dẫn các con số điện thoại gọi cứu hỏa 114.
Giáo viên: Bành Đức Hiền
7


Sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm

Trường tiểu học Trưng Vương

(Hình ảnh mang tính chất minh họa)

Giáo viên: Bành Đức Hiền
8


Sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm

Trường tiểu học Trưng Vương

Tình huống thứ hai.
Nước sơi: Nếu các con nhìn thấy một nồi nước đang sôi các con phải nghĩ
ngay đến nguy hiểm có thể đến với mình như: Bị bỏng, bị ngã vào nồi nước…
Trong trường hợp đó các con phải nhanh chóng tránh xa nơi có nồi nước sơi và
hết sức cẩn thận không chơi đùa ở khu vực gần đó bởi vì:
Nước sơi nhiệt độ rất cao, nếu khơng may bị ngã hoặc bị nước sôi đổ vào
cơ thể thì cơ thể sẽ bị bỏng cũng gây ra đau đớn giống như lửa. Dẫn đến thân thể
bị thương tổn, bị tàn phế hoặc có thể bị chết. Với HS lớp 1 những điều này đều
phải giải thích rất cặn kẽ để các con hiểu được và ý thức được sự nguy hiểm do
nước sôi gây ra, khi nhận thức được vấn đề các con sẽ có ý thức tránh xa khỏi
nơi có thể gây tai nạn cho bản thân. Với tình huống này tơi cũng phải cho các

con diễn tập nhiều lần để các con tạo thành thói quen tự bảo vệ mình khi có
nguy hiểm.

Cơ trị diễn tập tình huống "Phịng tránh nước sơi"

Giáo viên: Bành Đức Hiền
9


Sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm

Trường tiểu học Trưng Vương

h
m quan Trang trại - Tập làm nông dân
GVCN hướng dẫn tận tình cho HS các kĩ năng tự bảo vệ bản thân
trong các trị chơi ngồi trời.

Giáo viên: Bành Đức Hiền
10

a


Sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm

Trường tiểu học Trưng Vương

Hình ảnh HS tự tin đi chơi cùng bạn và GVCN


Giáo viên: Bành Đức Hiền
11


Sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm

Trường tiểu học Trưng Vương

Hình ảnh HS tự tin chơi các trò chơi khi đi thăm quan

Giáo viên: Bành Đức Hiền
12


Sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm

Trường tiểu học Trưng Vương

Hình ảnh các cô trang bị cho HS kĩ năng sống.
(Minh chứng cho tình huống 1, 2)

Giáo viên: Bành Đức Hiền
13


Sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm

Trường tiểu học Trưng Vương

 Tình huống thứ ba.

Bị lạc: VD xem bắn pháo hoa, lễ hội, tắc đường, đi vào các trung tâm vui
chơi, mua sắm…Trong tình huống này tơi phải giúp các con nhận thức ra những
nguy hiểm có thể xảy đến với mình như: bị chèn, bị lạc bố mẹ, bị bắt cóc…
Những từ ngữ này cũng phải giải thích cặn kẽ, rõ ràng cho các con. Đặc biệt là
bị lạc bố mẹ sẽ có thể xảy ra, trong tình huống này các con sẽ phải làm gì?
- Tơi dạy các con khơng nói chuyện với người lạ, nhưng trong trường hợp
này các con cần tìm đến những người mặc đồng phục, đeo bảng tên, các con
cũng có thể tìm cơng an, bảo vệ của trung tâm hay bà mẹ có con nhỏ để nhờ
giúp.
- Chia lớp thành các nhóm đóng vai lần lượt; Vai trẻ bị lạc, vai nhân viên
siêu thị, cơng an, bà mẹ có con nhỏ…để các con thực hành tốt vai trị của mình.
Đặc biệt tơi ln xác định rằng các con phải biết những gì trong các tình
huống có thể gặp phải ở trên, lúc nào cần làm gì, như thế nào, các con phải được
diễn tập liên tục.

Giáo viên: Bành Đức Hiền
14


Sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm

Trường tiểu học Trưng Vương

MỘT SỐ TRANG PHỤC CẢNH SÁT, BẢO VỆ HS CẦN NHẬN BIẾT.

Giáo viên: Bành Đức Hiền
15


Sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm


Trường tiểu học Trưng Vương

- Các con phải nắm được những thơng tin chính về gia đình: tên họ
của mình, của những người trong gia đình; địa chỉ nhà, số điện thoại của cha mẹ,
của gia đình; nơi mà những người trong gia đình có thể gặp nhau. Tơi thường
khuyến khích các con nhớ những thông tin này bằng cách thưởng cho trẻ nếu
chúng nhắc lại được một cách chính xác.
- Hướng dẫn các con cách gọi đến tất cả các loại điện thoại (di động,
cố định, các số khẩn cấp như 113, 114, 115…). Càng tốt hơn nữa nếu cho các
con “diễn” thử, đặt các con vào tình huống bị cách ly khỏi gia đìnhquan sát xem
các con sẽ liên lạc với người thân như thế nào.
- Cho các con biết về vai trò của những người xung quanh: trong
những tình huống nguy hiểm, rất nhiều người – kể cả những người không quen
biết đều có thể giúp đỡ. Cần giải thích với trẻ rằng bình thường các con có thể
khơng trị chuyện với những người xung quanh ở nơi công cộng, nhưng khi có
tai họa xảy ra các con vẫn có thể yêu cầu sự giúp đỡ từ những người khơng quen
biết đó và đa số họ sẽ sẵn sàng giúp đỡ .
- Hướng dẫn các con cách thốt ra khỏi vùng có nguy hiểm và biện
pháp đề phịng nguy hiểm ngay chính trong nhà hoặc trong trường học. Chẳng
hạn khi có động đất các con phải chạy ngay ra khỏi tòa nhà cáo tầng nếu khơng
chạy được thì nên chui vào gầm giường (nếu ở nhà), gầm bàn, gầm ghế (nếu ở
trường); Hay không được tự ý sử dụng những đồ dùng của người lớn. Ví dụ:
dùng bật lửa để chơi; dùng dao, kéo đùa nghịch, cho tay vào các ổ điện.....Tất cả
những thứ đó để cho người lớn sử dụng chứ khơng phải là đồ chơi của trẻ con vì
tất cả những vật dụng đó nếu khơng biết sử dụng đều sẽ ảnh hưởng đến tính
mạng chính bản thân mình.
 Tình huống thứ tư.
Khi có người lạ cho con quà hay rồi nhờ vả chuyện gì đó:
(GV cần lấy những ví dụ cụ thể cho trường hợp này để trẻ nhận thức rõ

ràng khi gặp tình huống tương tự)
Dạy các con kỹ năng này đòi hỏi thời gian và sự khéo léo của GV, bởi trẻ
dễ bị nhầm lẫn trước việc người cho mình quà là người tốt và người lạ cho quà.
Tuy vậy, không phải các con đều không nhận thức được, các con có thể cảm
nhận được nguy hiểm từ người lạ.
- Các con cần từ chối nhận quà, kẹo bánh của người lạ
-

Các con cần giữ khoảng cách với người lạ.

- Tuyệt đối không ăn, uống những thứ của người lạ nào đưa cho mình.
Giáo viên: Bành Đức Hiền
16


Sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm

Trường tiểu học Trưng Vương

Hình ảnh minh chứng cho các tình huống 4, 5.
(Tuyệt đối không nhận quà của người lạ mặt cho).
(Khi cần gọi điện thoại cho người thân)
Giáo viên: Bành Đức Hiền
17


Sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm

Trường tiểu học Trưng Vương


 Tình huống thứ năm.
Cảnh báo nạn bắt cóc trẻ em lứa tuổi tiểu học.
Người lạ vào tận trường, thậm chí vào cả nhà vệ sinh của trường tiểu học
Kì Đồng (Quận 3 TP.Hồ Chí Minh) ngay trong ngày 5/3/2014 vào lúc 16h15
(giờ tan học) đã cho anh học sinh Nguyễn Huỳnh Anh T một chiếc kẹo cao su,
Anh học sinh lớp 5 ăn rồi cứ đi theo người thanh niên đó. Đến ngã tư, anh học
sinh đó chợt tỉnh và bỏ xuống xe tự chạy bộ đến cổng khách sạn Rạng Đơng (Q3
- TP HCM) kêu khóc và địi về bố mẹ. Được các chú bảo vệ giúp đỡ nên anh
học sinh đó khơng bị bắt cóc.

Trường tiểu học Kỳ Đồng, nơi xảy ra nghi án bắt cóc mà em T
Hay ngày hôm 2/4/2014 tại Hà Nội: 2 thanh niên đóng giả phụ huynh để
bắt cóc học sinh ở tại trường tiểu học Dịch Vọng B (Cầu Giấy - Hà Nội). Có 2
đối tượng trên giả làm PHHS vào đón con nhằm rủ rê học sinh đi theo để thực
hiện các hành vi phạm tội. Tuy nhiên đã bị BGH ngăn chặn kịp thời và điều
đáng tiếc xảy ra.

Giáo viên: Bành Đức Hiền
18


Sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm

Trường tiểu học Trưng Vương

Nhà trường khuyến cáo, phụ huynh và học sinh cần đề cao cảnh giác hơn nữa
Cũng ngay ngày 6/4/2014: Nạn bắt cóc trẻ cướp vàng "Mẹ mìn" sa lưới vì
q tự tin. Sự việc nha sau: Chiều ngày 6/4/2014 mẹ mìn "Nguyễn Thu Tân" là
kẻ đã dụ bé gái Lý Thị Thanh Thanh 6 tuổi (lứa tuổi tiểu học) ra khỏi bệnh viện
Nhi Đồng 1 để trấn lột 2 đôi bông tai vàng (do mẹ của cháu Lý Thị Thanh Thanh

đang bận với việc làm thủ tục khám cho cháu đang bị ốm, cháu quanh quẩn bên
mẹ, song đã bị mẹ mìn dụ ra chỗ khác). Song sự việc đã bị phát hiện nhờ có
camera => Cháu bé đã tìm lại được người thân trong niềm vui của các chú công
an và chính mẹ mình.

Mẹ mìn Nguyễn Thu Tâm
Giáo viên: Bành Đức Hiền
19


Sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm

Trường tiểu học Trưng Vương

Cháu Thanh trở về trong niềm hạnh phúc gia đình.

Cháu bé 6 tuổi bị bắt có tại bệnh viện Nhi Đồng 1 được công an
P.10, Q.10 bàn giao lại cho mẹ của cháu bé.

Giáo viên: Bành Đức Hiền
20


Sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm

Trường tiểu học Trưng Vương

GVCN dặn dị học sinh trước ra về bố mẹ đón

Cơ, trò lớp 1E lắng nghe những lời căn dặn của BGH trước khi đi thăm quan


Giáo viên: Bành Đức Hiền
21


Sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm

Trường tiểu học Trưng Vương

Vậy giáo viên khuyên học sinh lớp 1 (sau khi nghe cô kể lại sự việc)
- Các con cần từ chối không nhận quà, bánh kẹo của người lạ.
- Khi đã biết mắc nạn phải nhanh chóng khéo léo tìm ra người giúp đỡ
gần chỗ nào an toàn nhất phải kêu cứu và nánh nạn ngay.
- Tuyệt đối không ăn bất cứ thứ gì từ người lạ cho mình.
- Khơng được đi theo bất kì người lạ nào (khi đang đứng đợi cha mẹ)

3.3. Giáo dục trẻ TBV mình tránh khỏi nguy cơ bị xâm hại tình dục.
Có thể hiểu trẻ em bị xâm hại tình dục là khi người lớn tuổi hơn sử dụng
quyền lực và sức mạnh có thể là tiền bạc, vật chất, lợi dụng sự ngây thơ, lịng tin
và sự tơn trọng của trẻ để ép buộc các em tham gia vào hành vi tình dục. Xâm
hại tình dục có liên quan đến sự đụng chạm gây bối rối, tức giận. Đó là sự đụng
chạm khơng an tồn, khiến trẻ em phải bối rối, khó chịu, sợ hãi (cũng có thể là
lời nói, cử chỉ, cách nhìn)
Xâm hại tình dục có thể xảy ra với bất cứ trẻ em nào, các em trai, em gái
ở bất kỳ độ tuổi nào, cả con nhà giàu cũng như con nhà nghèo, vào bất cứ lúc
nào và ở bất cứ đâu cũng đều có thể bị xâm hại. Nhất là những trẻ em có hồn
cảnh gia đình đặc biệt, thiếu sự chăm sóc chu đáo của bố mẹ và người thân trong
gia đình lại càng có nguy cơ cao hơn.
Kẻ xâm hại tình dục trẻ em có thể là bất cứ ai, có kẻ mới 14-15 tuổi
nhưng cũng có kẻ đã 68 - 70 tuổi. Nguy hiểm hơn, phần lớn bọn chúng là có

quan hệ quen biết với nạn nhân và gia đình các em : hàng xóm, người làng. Thủ
đoạn của kẻ xâm hại tình dục thường là: lợi dụng sự quen biết và tình cảm thân
mật, cho tiền, cho quà, cho đi nhờ xe, giúp đỡ làm việc gì đó hoặc đe dọa, khống
chế … Thủ phạm xâm hại tình dục thường chọn những em dễ bị tổn thương, yếu
thế. Kẻ phạm tội thường xây dựng mối quan hệ với nạn nhân bằng việc lấy lòng
tin và sự quan tâm tử tế đối với trẻ, mà trước đó trẻ thường bị bỏ rơi hoặc không
được quan tâm. Thủ phạm thường làm cho trẻ cảm thấy được đặc biệt quan tâm.
Trẻ em khơng cảm nhận sự lạm dụng tình dục của kẻ phạm tội một cách dễ
dàng. Hành vi lạm dụng tình dục thường tiến hành từng bước một. Nó có thể bắt
đầu bằng những tiếp xúc âu yếm thông thường hoặc chỉ là những hoạt động về
thể chất bình thường. Trẻ em rất khó thuật lại rằng mình bị lạm dụng tình dục, vì
ngay từ buổi ban đầu, trẻ khơng hề biết mình bị lạm dụng tình dục.
Càng ngày càng có nhiều trẻ em bị xâm hại tình dục dưới nhiều hình
thức, từ nhẹ đến nặng, từ lời nói đến những hành động thơ bạo và độc ác, điều
Giáo viên: Bành Đức Hiền
22


Sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm

Trường tiểu học Trưng Vương

này là một nỗi lo lắng vô cùng của các bậc cha mẹ và giáo viên cho các trẻ nhỏ.
Đối với HS lớp 1, các con chưa có đủ kiến thức xã hội và sức khỏe để chống lại
tội ác này khi gặp nguy hiểm, bởi vậy giáo dục các con TBV trứớc nỗi nguy
hiểm này là vô cùng quan trọng. Tôi đã trăn trở rất nhiều, lo lắng cho các con rất
nhiều, kỹ năng TBV trước nguy cơ bị xâm hại tình dục được nhắc đi nhắc lại
nhiều lần trong những lần diễn tập, cố gắng giúp các con có thể tránh được sự
nguy hiểm. Đối với nguy cơ này, tơi phải chia lớp thành 2 nhóm chính và sắp
xếp thời gian hướng dẫn kỹ năng riêng biệt, Nhóm nam và nhóm nữ. Bởi xâm

hại tình dục khơng chỉ là nguy cơ đối với HS nữ, mà ngay cả HS nam cũng có
nguy cơ này. Dưới đây là những kỹ năng tôi đã dạy cho các con:
- Các con tuyệt đối không để cho người khác, bất kể quen hay không quen
đụng chạm đến các bộ phận nhạy cảm như ngực, vùng dưới bụng, bộ phận sinh
dục (Tôi chỉ cho các con nhận thức được các bộ phận trên cơ thể) nói chung là
các đụng chạm khơng cần thiết trên da thịt
- Khi tắm rửa, thay quần áo phải có chỗ kín đáo để tránh người khác nhìn
thấy cơ thể mình, ngăn chặn nguy cơ cái ác có thể xảy đến.
- Khi đang ở chỗ vắng nếu thấy bất cứ ai đến gần đều phải kêu lên và nếu
cần nên rời ngay khu vực đó, hoặc lên tiếng kêu những người thân khác đến với
mình. (chính việc kêu lên có thể làm cho những kẻ đang bị ám ảnh chợt tỉnh để
không tiếp tục các hành vi tệ hại...). Lúc đó, phải kiên quyết phản đối, thậm chí
có thể la hét, kêu khóc, cắn và kêu cứu hoặc tìm cách để chạy trốn tới nơi đông
người. Các con cần hiểu rằng mọi người luôn sẵn sàng bảo vệ khi các con bị đe
dọa. Các con phải nhớ số điện thoại của bố, mẹ và những người thân khác trong
gia đình cùng các số điện thoại khẩn cấp như 115, 113…
- Khi các con cảm thấy sợ hãi do có người muốn đụng chạm, hay xâm hại
tình dục (dù là người lạ, người quen, hay người thân), các con cần: Đứng ngay
dậy



Lùi ra xa đủ để kẻ đó khơng với tay được đến người mình
- Nếu bị đe dọa, các con phải kêu thật to và phản đối kịch liệt. Nếu thấy
có người lạ đi theo, các con hãy vào cửa hàng, cơ quan hoặc nhà gần đó để nhờ
giúp đỡ
- Các con khơng nên giữ bí mật về những gì làm các con sợ hãi hay đau
đớn. Các con phải kể cho những người mà mình tin tưởng nghe những gì mà kẻ
xấu dụ dỗ, đe dọa, ép buộc mình. Các con thường cho rằng mình có lỗi khi
những chuyện đau lịng xảy ra bởi vậy thường hay dấu, khơng dám kể cho bố

mẹ hoặc người lớn, bởi vậy các con phải nhớ rằng các con không bao giờ là
người có lỗi khi bị xâm hại tình dục.

Giáo viên: Bành Đức Hiền
23


Sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm

Trường tiểu học Trưng Vương

- Các con cần nhớ là khơng có gì phải ngại ngùng, xấu hổ. Việc tìm kiếm
sự giúp đỡ là một việc rất quan trọng để giúp các con được an tồn. Nếu im lặng,
khơng tìm kiếm sự giúp đỡ, vấn đề có thể nghiêm trọng và nguy hiểm hơn mà
khơng ai biết để có thể giúp đỡ các con.
- Các bạn nam tuyệt đối không được xâm phạm các bạn nữ.
- Đóng kịch những tình huống có thể xảy ra để giúp các con thực hành
việc TBV bản thân.

Giáo viên: Bành Đức Hiền
24


Sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm

Trường tiểu học Trưng Vương

GVCN dạy riêng cho HS nam những lúc khơng có người thân bên cạnh (Minh
chứng cho tình huống thứ năm)


Giáo viên: Bành Đức Hiền
25


×