Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

skkn BIỆN PHÁP rèn LUYỆN học SINH lớp 3 yếu môn TOÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.06 KB, 18 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
“BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN HỌC SINH LỚP 3 YẾU MƠN TỐN”


A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài:
Trong giai đoạn hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đất nước ta đang tiến hành
cuộc cách mạng toàn diện trên mọi lĩnh vực với mục tiêu cơng nghiệp hố, hiện đại hố
đất nước. Trong sự nghiệp đổi mới đó, đổi mới giáo dục là một trong những trọng tâm
của sự đổi mới.
Với quan niệm giáo dục là quốc sách hàng đầu, như báo cáo chính trị của đại hội
Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ X đã khẳng định:“Phát triển giáo và đào tạo là một
trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất
nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội,
tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện,
đổi mới nội dung, phương pháp dạy học…”
Sự đổi mới của giáo dục nhằm tạo ra những con người tồn diện có phẩm chất
đạo đức, có sức khoẻ, có tri thức và năng động sáng tạo.
Vậy để giáo dục học sinh phát triển tồn diện về mọi mặt đó là trách nhiệm của
những người làm cơng tác giáo dục nói chung, của giáo viên nói riêng.
Như chúng ta biết mơn tốn chiếm một vị trí vơ cùng quan trọng vì học tốt
mơn tốn giúp cho học sinh phát triển tồn diện về mọi mặt. Ngồi ra học tốt mơn tốn
học sinh mới có điều kiện để học tốt những mơn học khác.
Kiến thức của mơn tốn là có tính chất kế thừa và xâu chuỗi. Kế thừa từ bài
học này đến bài học khác, từ lớp học dưới đến lớp học trên. Nếu các em bị mất căn bản
về kiến thức môn tốn thì các em sẽ chán học, khơng thích học dẫn đến ngày càng học
yếu so với trình độ chung của cả lớp.
Một lớp học thì tất yếu phải có các đối tượng: giỏi, khá, trung bình, yếu. Điều
này mỗi giáo viên đều nhận thức được một cách rõ ràng hơn ai hết và đồng thời mỗi giáo


viên đều có phương pháp dạy, có những kinh nghiệm để áp dụng vào việc giảng dạy và
giáo dục học sinh để đạt kết quả. Ai trong mỗi giáo viên chúng ta đều hiểu rằng việc
giảng dạy và giáo dục luôn luôn đi đơi với nhau. Để giúp đỡ học sinh yếu nói chung và
học sinh yếu mơn tốn nói riêng là việc làm hết sức cần thiết đối với mỗi giáo viên chúng
ta.


Vậy làm thế nào để giáo dục học sinh yếu mơn tốn đạt hiệu quả ln là nổi
băn khoăn suy nghĩ của người giáo viên nói riêng và của những người làm cơng tác giáo
dục nói chung? Đó cũng chính là lý do để tôi nghiên cứu đề tài này.

1.Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài:
Nghề dạy học là một nghề thật đặc biệt đó là giáo dục con người .Sản phẩm của
giáo dục là đào tạo cho xã hội những con người có trình độ, có phẩm chất đạo đức. Bởi
thế đội ngũ thầy cô giáo chúng ta phải có lịng u nghề, mến trẻ, đặc biệt là một tấm
gương tự học và sáng tạo. Có trách nhiệm cao với sự nghiệp giáo dục. Không nên chạy
theo bệnh thành tích mà ln đặt chất lượng giáo dục học sinh lên hàng đầu. Khơng để
tình trạng HS ngồi nhầm lớp.Trong giảng dạy luôn chú trọng đến những đối tượng học
sinh học yếu trong học tập để từ đó giáo viên đưa ra những biện pháp kịp thời, linh hoạt,
phù hợp giúp cho các em tiến bộ theo kịp các bạn trong lớp.
Học sinh yếu mơn tốn là những học sinh bị hổng kiến thức. Chính vì thế mà
việc tiếp thu bài của các em thật là khó khăn. Lúc đó các em sẽ chán học, lơ là trong học
tập. Vì thế khi giáo viên giảng bài các em khơng hiểu, các em ngồi nói chuyện, làm việc
riêng trong lớp. Thậm chí cịn quậy phá trêu chọc các bạn xung quanh.
Để các em yếu tốn khơng có tư tưởng chán học, mà có ý thức hơn trong việc
học của mình ngày một tiến bộ trong học tập, đó là điều mà giáo viên đứng lớp chúng tơi
phải tìm ra những phương pháp mới, tối ưu nhất để giáo dục học sinh.
II. MỤC ĐÍCH VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CƢU
1. Mục đích nghiên cứu:
- Nhằm thực hiện thành cơng kế hoạch của nhà trường trong năm học

2010 – 2011.
- Giúp học sinh yêu toán củng cố kiến thức cơ bản, bổ trợ những kiến thức bị
hổng từ các lớp dưới.
- Giúp học sinh có thói quen độc lập suy nghĩ, tự giác trong học tập, có tinh thần
trách nhiệm, có ý thức tổ chức kĩ luật.


- Việc thực hiện đề tài nhằm nghiên cứu một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu
kém để học sinh có kết quả học tập cao hơn, giảm tỷ lệ học sinh yếu kém trong học tập
mơn tốn .
- Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện và hạn chế học sinh lưu ban.
Thực hiện tốt “Nói khơng với HS ngồi nhầm lớp”
2. Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn.
- Phương pháp hội thảo chuyên đề, trao đổi kinh nghiệm.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
III. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI
1.

Đối tƣợng nghiên cứu:

Đề tài nghiên cứu biện pháp rèn luyện học sinh yếu mơn tốn lớp 3 trường tiểu
học Huỳnh Minh Thạnh.
2.

Phạm vi nghiên cứu:

Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các biện pháp rèn luyện đối với đối tượng học
sinh yếu mơn tốn ở lớp 3, những yếu tố ảnh hưởng tới đối tượng này.

B. PHẦN NỘI DUNG
I. Thực trạng:
1. Thuận lợi:
- Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của ban giám hiệu nhà trường.
- Cơ sở vật chất tương đối đầy đủ cho việc dạy và học.
- Sĩ số học sinh trong lớp lý tưởng (24 em).
- Trường học hai buổi nên cũng có điều kiện để rèn học sinh.


2. Khó khăn:
* Tình hình học sinh:
- Cịn một số em chưa tự giác trong học tập, ham chơi, không thích học.
- Chưa mạnh dạn trong học tập, thiếu tự tin.
- Học sinh lười suy nghĩ, cịn trơng chờ thầy cơ giải giúp, vốn kiến thức cơ bản
lớp dưới cịn hạn chế.
- Khả năng chú ý và tập trung vào bài giảng của giáo viên không bền.
- Học vẹt, không có khả năng vận dụng kiến thức.
- Yếu các kỹ năng tính tốn cơ bản, cần thiết ( cộng, trừ, nhân, chia).
* Phụ huynh học sinh:
- Phần lớn phụ huynh thuộc 3 thơn: Phước Tiến, Phước An, Xóm Rẫy. Đây là
những thôn chiếm nhiều hộ nghèo nhất của thị trấn Phước Bửu, do các hộ này khơng có
nghề nghiệp ổn định, chủ yếu là làm mướn, làm biển… Vì kinh tế rất khó khăn nên chưa
thật sự quan tâm, chăm lo và đơn đốc con em mình học tập, cịn phó thác cho nhà trường,
cho thầy cơ.
- Nhận thức và thái độ của một số phụ huynh trong việc hợp tác với giáo viên chủ
nhiệm chưa cao.
II. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Những biện pháp đã sử dụng rèn học sinh yếu mơn tốn lớp 3:
- Điều tra đối tượng học sinh yếu
- Phân loại học sinh ( giỏi, khá, trung bình, yếu - kém )

- Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến học sinh học yếu.
- Lập kế hoạch cụ thể, chi tiết phụ đạo cho từng học sinh yếu.
- Thực hiện tốt công tác giảng dạy đối với đối tượng học sinh yếu.
- Sử dụng các phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng HS yếu.


- Tổ chức tiết học có các trị chơi nhằm gây hứng thú cho các em học tập.
- Thường xuyên kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh, điều chỉnh biện
pháp rèn luyện phù hợp với sự tiến bộ của HS.
- Có các hình thức tun dương, khen thưởng kịp thời, phù hợp khi các HS yếu
tiến bộ.
- Phối hợp với phụ huynh học sinh có con học yếu để cùng nhau bàn biện pháp
rèn luyện ở lớp, ở nhà, nhắc nhở các em đi học chuyên cần.
2. Các biện pháp giải quyết vấn đề:
Để giáo dục học sinh yếu mơn tốn chúng ta khơng kể ngun nhân do đâu,
rèn luyện học sinh yếu mơn tốn là việc làm cần thiết, khơng nóng vội, có lộ trình hợp lý,
có kế hoạch riêng cho từng học sinh, có biện pháp hiệu quả và kịp thời. Người giáo viên
phải hiểu sâu sắc các em. Từ đó mới có thể đặt ra những tác động sư phạm thích hợp và
cụ thể với từng đối tượng học sinh.
Với kinh nghiệm giảng dạy 5 năm ở khối 3 tôi đã áp dụng nhiều biện pháp khác
nhau để rèn học sinh yếu môn toán và thu được nhiều kết quả tốt.
Việc đầu tiên:
2.1 Phân loại học sinh :
Để nắm được tình hình học sinh trong lớp của mình phụ trách:
+Thơng qua nghiên cứu lí lịch học sinh giáo viên sẽ nắm được hồn cảnh gia đình,
nghề nghiệp của phụ huynh, gia đình đơng con hay ít con, phụ huynh có quan tâm giáo
dục con cái hay không, địa bàn cư trú của các em,…
+Thông qua nghiên cứu hồ sơ của học sinh như: Học bạ, sổ liên lạc, khảo sát chất
lượng học sinh đầu năm, qua 1 tuần thực dạy tôi sẽ phân loại học sinh lớp mình ra các
đối tượng HS như sau :

1.Học sinh học toán giỏi .
2. Học sinh hoc tốn khá.
3.Học sinh học tốn trung bình .


4.Học sinh học toán yếu.
+ Sau khi phân loại được trình độ HS trong lớp và nắm bắt được các em học yếu
mơn tốn GV lại tìm hiểu xem HS yếu phần nào trong mơn tốn giáo viên lại tiếp tục
phân loại các em yếu toán thành những đối tượng sau :
-Yếu trong thực hiện tính nhân, chia, cộng ,trừ .
-Yếu về yếu tố hình học.
- Yếu về yếu tố thống kê.
- Yếu về đại lượng và đo đại lượng
- Yếu trong giải toán .
- Yếu tất cả các kiến thức nêu trên.

2.2 Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến học sinh yếu mơn tốn:
Có các ngun nhân sau:
- Do hồn cảnh gia đình khó khăn khơng ai quản lý, đơn đốc các em trong học
tập.
- Do các em chưa có ý thức học tập ham chơi, chưa nhận thức được vai trò
học tập.
- Các em mất căn bản ở lớp dưới.
- Học sinh tiếp thu bài kém .
- Do học sinh thụ động trong học tập .
- GV sử dụng các phương pháp giảng dạy chưa phù hợp với HS.
- Gia đình khơng quan tâm đến việc học tập của các em.
Từ những nguyên nhân trên tôi xác định đâu là ngun nhân chính đối với từng
học sinh yếu mơn tốn để có phương pháp và hình thức để rèn luyện phù hợp với từng
học sinh.



2.3 Tìm hiểu hồn cảnh gia đình của các em:
- Hoàn cảnh của mỗi em đều khác nhau. Phần lớn cha mẹ học sinh của lớp khơng
có nghề nghiệp ổn định, thu nhập thấp, nhiều phụ huynh phải đi làm xa nhà gởi con cái
cho người thân chăm sóc. Vì vậy cuộc sống gia đình gặp rất nhiều khó khăn, chưa tạo
được nhiều điều kiện thuận lợi cho con em họ khi đến trường. Có em học yếu mơn tốn
là do cha mẹ không quan tâm đến việc học của con em mình mà chỉ lo kiếm sống hằng
ngày. Có em vì gia đình bất hạnh hoặc gia đình quá đơng anh em.Có em yếu là do lười
học, cha mẹ khơng quan tâm đến các em. Vì vậy GV quan tâm nắm bắt hồn cảnh gia
đình của từng em để có những biện pháp áp dụng cho phù hợp .
2.4 Giáo viên lập kế hoạch cụ thể, chi tiết phụ đạo cho từng học sinh yếu mơn
tốn:
Lập kế hoạch cụ thể, chi tiết phụ đạo cho từng học sinh yếu mơn tốn là điều cần
thiết để theo dõi và rèn luyện các em. Qua đó giáo viên đánh giá được kết quả rèn luyện
của học sinh mình trong từng thời gian ngắn. Nếu học sinh chưa có sự tiến bộ chúng ta có
thể thay đổi biện pháp rèn luyện hoặc tăng cường thêm một số biện pháp khác. Ta không
nên nóng vội, rèn học sinh yếu khơng chỉ một ngày, hai ngày,…mà cả một thời gian dài.
Tùy theo đối tượng học sinh yếu của lớp mình phụ trách để chúng ta lập kế hoạch phụ
đạo học sinh yếu.

Ví dụ: Chúng ta có thể lập bảng theo mẫu sau:

TT

S
Họ và
Con
tên HS
ơng(bà), nơi ở


Kiến
toán yếu

thức

Mức độ
tiến bộ

1

Tháng
9…
Tháng
10…


2


3

4



2.5 Đối với học sinh yếu mơn tốn do mất căn bản:
Học sinh yếu mơn tốn do mất căn bản các em khó có thể tiếp thu những kiến
thức mới. Chính vì lẽ đó mà dẫn đến các em sẽ ngại học hay nói khác hơn là lười học,
yếu lại càng yếu hơn.

Đối với học sinh mất căn bản không nắm được kiến thức ở lớp dưới thì tơi ln
quan tâm đặc biệt hơn. Trong bài giảng tôi chú ý đến các em nhiều hơn vừa truyền thụ
kiến thức mới tôi vừa ôn kiến thức cũ cho học sinh.
Trong tiết dạy tránh tình trạng giáo viên để học sinh yếu mất căn bản ngồi lề
tiết học.
Ví dụ: Trong một tiết học phần bài tập giáo viên phân ra từng đối tượng học
sinh. Bài tập 1 cho nhóm yếu làm, bài 2 nhóm trung bình làm, bài 3 nhóm khá giỏi làm,
như vậy hy vọng mới khắc phục dần tình trạng học sinh học yếu. Nếu giáo viên cứ cho
học sinh hoạt động bình thường từ bài 1 đến bài 3 thì học sinh yếu khơng biết gì và thậm
chí bỏ học vì chán. Hoặc trong lớp học có học sinh yếu ( không nắm kiến thức lớp học
dưới ) với đối tượng này khi dạy giáo viên cần lưu ý: trong phần bài mới cho học sinh


theo dõi bình thường, đến phần bài tập hay là tiết luyện tập giáo viên cho những đối
tượng này làm các bài tập mà kiến thức có liên quan lớp dưới, hoặc cho học sinh nhắc lại
kiến thức cũ. Ví dụ khi học sinh làm bài tập 23 x 7 = ? với bài này học sinh làm khơng
được thì chứng tỏ học sinh không thuộc bảng nhân 7. Vậy giáo viên yêu cầu học sinh đọc
lại bảng nhân 7 cho thuộc. Nói chung học sinh hỏng kiến thức ở đâu thì giáo viên phải có
kế hoạch ơn tập, bổ sung ở đó.
Giáo viên phải hệ thống kiến thức theo chương trình. Đưa ra nội dung bài tập
phù hợp với kiến thức để học sinh có thể luyện tập kiến thức mới và ôn lại kiến thức đã
quên.
Giáo viên tranh thủ lên sớm, về muộn hơn để giúp đỡ những đối tượng này .
Ra thêm bài tập ở nhà cho các em làm ( có kiểm tra đánh giá của GV).
2.6 Đối với học sinh học yếu mơn tốn do do ham chơi, chưa nhận thức được
vai trò học tập.
Những học sinh rơi vào tình trạng trên thường các em không học bài, không làm
bài, thường xuyên để quen tập ở nhà, vừa học vừa chơi, không tập trung,…Để các em có
hứng thú học tập, giáo viên phải nắm vững và phối hợp nhịp nhàng các phương pháp dạy
học mới.

- GV nên tổ chức các giờ dạy gây hứng thú cho học sinh như tiết dạy sử dụng
công nghệ thông tin, tiết dạy có tổ chức các trị chơi cho HS.
Ví dụ: Dạy bài : Bảng chia 7 - Tốn lớp 3
Phần củng cố tổ chức trò chơi: Ong đi tìm nhụy
* Mục đích :
+ Rèn tính tập thể
+ Giúp cho học sinh thuộc các bảng nhân, chia
* Chuẩn bị : + 2 bông hoa 5 cánh, mỗi bông một màu, trên mỗi cánh hoa ghi các
số như sau, mặt sau gắn nam châm. 5
7
8
9
6


+ 10 chú Ong trên mình ghi các phép tính, mặt sau có gắn nam châm
42 : 7

49 : 7

35 : 7

63 : 7

56 : 7

+ Phấn màu
* Cách chơi :
+ Chọn 2 đội, mỗi đội 4 em ( có học sinh yếu).
+ Giáo viên chia bảng làm 2, gắn mỗi bên bảng một bông hoa và 5 chú Ong,

ở bên dưới không theo trật tự, đồng thời giới thiệu trị chơi.
Cơ có 2 bơng hoa trên những cánh hoa là các kết quả của phép tính, cịn
những chú Ong thì chở các phép tính đi tìm kết quả của mình. Nhưng các chú Ong khơng
biết phải tìm như thế nào, các chú muốn nhờ các em giúp, các em có giúp được khơng ?
- 2 đội xếp thành hàng. Khi nghe hiệu lệnh "bắt đầu" thì lần lượt từng bạn lên
nối các phép tính với các số thích hợp. Bạn thứ nhất nối xong phép tính đầu tiên, trao
phấn cho bạn thứ 2 lên nối, cứ như vậy cho đến khi nối hết các phép tính. Trong vịng 1
phút, đội nào nối đúng và nhanh hơn là đội chiến thắng.
* Lưu ý : Sau khi học sinh chơi xong, giáo viên cùng học sinh nhận xét,
tuyên dương và hỏi thêm một số câu hỏi sau để khắc sâu bài học:
+ Tại sao chú Ong

42 : 7

khơng tìm được đường về nhà ?

+ Phép tính "42 : 7" có kết quả bằng bao nhiêu ?
+ Muốn chú Ong này tìm được đường về thì phải thay đổi số trên cánh hoa
như thế nào ?
Qua tổ chức trị chơi tơi nhận thấy các em rất thích học.


- Ngoài ra giáo viên cần phối hợp thật tốt với các tổ chức trong trường như:
Chuyên môn của trường, tổ khối, thầy TPTĐ, sao đỏ, cán bộ lớp để thường xuyên kiểm
tra nhắc nhở .
- Cho những bạn ngoan thường xuyên chơi với những đối tượng học sinh này
nhằm giảm thiểu tối đa việc ham chơi của HS .
- Giáo viên cần phải trao đổi trực tiếp đến từng đối tượng học sinh bằng lời nói
,cử chỉ , mệnh lệnh thật thuyết phục đến các em .
Ví dụ: Giáo viên dùng lời nói nhỏ nhẹ, giải thích cho các em nắm được tầm quan

trong của việc học.Cho các em hiểu được: “ Học phải đi đơi với hành.” Có như vậy các
em mới nắm được kiến thức lâu và tiếp thu các kiến thức mới tốt được.
- Giáo viên cần phải tạo cho các em một niềm tin : “Mỗi ngày đến trường là một
niềm vui” bằng cách giáo viên cho những đối tượng này tham gia các hoạt động phong
trào có ích như : văn nghệ, TDTT, các trò chơi dân gian, các hoạt động khác do nhà
trường, Đội, lớp tổ chức.
- Bên cạnh phương pháp giáo dục trực tiếp đến từng đối tượng học sinh. Giáo
viên cần phải phối hợp phương pháp giáo dục tập thể. Dùng dư luận của tập thể tác động
đến ñối tượng này, xây dựng dư luận tập thể lành mạnh thành khối địan kết, với phương
châm : “Sống có trách nhiệm”, thiết lập mối quan hệ tốt giữa các thành viên, khêu gợi
động lực học tập của học sinh vì danh dự tập thể mỗi thành viên tự giác điều khiển hành
vi của bản thân.
Ví dụ :Giáo viên động viên học sinh bằng hoa điểm mười cho các nhóm, tổ vào
mỗi ngày và tổng kết tuyên dương sau mỗi tuần.Có như vậy các thành viên trong tổ mới
động viên, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ để giữ gìn truyền thống. Cịn các thành viên ở tổ
khác sẽ cố gắng học tập để đạt kết quả tốt như tổ bạn…Chính dư luận là dấu hiệu quan
trọng nhất đánh dấu sự trưởng thành và phát triển của tập thể trong đó có sự tiến bộ của
các đối tượng học sinh yếu mơn tốn.
2.7 Đối với học sinh tiếp thu bài kém:
- Với những HS tiếp thu bài kém khi giảng bài GV nên giảng chậm và kĩ hơn để
cho HS tiếp thu. Khi làm bài tập GV nên đến tận nơi để giúp đỡ các em, những em yếu
chưa tiếp thu kịp bài giảng GV phải giảng lại cho các em nắm . Khi làm bài tập GV cho
những em này làm ít bài hơn những HS khác trong lớp. Có thể cho các em thảo luận
nhóm tìm cách giải.


2.8 Đối với những em yếu về các phép tính nhân, chia, cộng, trừ:
-Khi soạn giáo án GV phải nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy phù hợp với đối
tượng học sinh .
-Trong quá trình dạy bài mới GV nên sử dụng các phương pháp phù hợp với đối

tượng HS trong lớp.
Ví dụ : Dạy bài : Nhân số có 3 chữ số với số có một chữ số - Tốn 3
+ Hướng dẫn học sinh cách đặt tính và tính kết quả của phép nhân qua ví dụ
thứ nhất: 123 x 4 = ? Giáo viên thực hiện trên bảng lớp, gọi học sinh xung phong nêu
cách thực hiện, sau đó gọi học sinh yếu nhắc lại.
+ Sang ví dụ thứ 2 tôi cho cả lớp làm bảng con phép tính: 326 x 3 = ?
Đối với các em học yếu tôi xuống lớp hướng dẫn các em cách thực hiên phép
nhân này. Có thể tơi u cầu em đọc lại bảng nhân 3 nếu em chưa thuộc…
Thực hành :
+ Với bài tập 1 : GV cho HS làm phiếu học tập cá nhân, riêng những học
sinh học yếu làm 2 phép tình đầu theo nhóm 2.
+ Bài tập 2 : Cho HS cả lớp làm bảng con phần a, b để kiểm tra cách đặt tính
rồi tính ( GV giúp đỡ HS yếu).
Còn phần c yêu cầu học sinh làm vào vở, riêng các em học yếu hoàn thành
lại bài a, b vào vở không làm phần c.
+ Bài 3 : GV hướng dẫn HS tìm hiểu đề bài ,GV tóm tắt và cho các em làm
bài vào vở . Riêng học sinh yếu GV cho các em thảo luận nhóm 3 tìm cách giải bài tập 3.
+ Bài 4: Cho HS làm nối tiếp theo dãy ( GV giúp đỡ HS yếu).
Phần củng cố bài học:
Tổ chức trị chơi cho HS: Có thể tổ chức thi đọc các bảng nhân, chia theo
hình thức di chuyền giữa các nhóm( các nhóm đều có đối tượng HS yếu).
- Khi chúng ta thay đổi nhiều hình thức và phương pháp như thế thì các em sẽ
hứng thú trong học tập .


- Ở lớp 3 giáo viên nên cung cấp cấp kĩ các bảng nhân, chia cho các em và cho
các học thuộc các bảng nhân, chia và thường xuyên ôn tập các bảng cộng, trừ ở lớp 2 để
các em áp dụng vào làm bài tập. Với những em yếu thì khơng thể bắt buộc các em học
thuộc một cách nhanh chóng được mà giáo viên nên yêu cầu các em học thường xuyên ở
nhà, ở lớp( 15 phút đầu giờ, giờ ra chơi, tiết tốn ơn, sinh hoạt ngồi giờ,…).

Ví dụ: Khi truy bài đầu giờ tơi thường hay gọi HS yếu lên bảng đọc thuộc các
bảng nhân, chia, cộng, trừ, hỏi lại các em các kiến thức cần ghi nhớ, hay giải các bài tập
mà GV giao về nhà cho các em,… để kiểm tra được việc làm bài và ôn bài ở nhà của
các em .
Giáo viên nên hướng dẫn cho học sinh cách học không nên để các em yếu học
thuộc lòng từ đầu đến cuối các bảng nhân, chia, cộng, trừ. Như thế các em dễ thuộc vẹt
mà không nắm được kiến thức lâu . GV nên cho các em cùng học thuộc với nhau theo
nhóm 2, nhóm 3 , … Có thể học với hình thức đố nhau, em khá giỏi sẽ hỏi những em yếu
bất kì các phép tính nào trong bảng mà các em được học . Như thế các em sẽ nhớ và
khắc sâu được kiến thức hơn.
- Giáo viên thường xuyên kiểm tra bài và sách vở của các em vì các em học
yếu thường hay bỏ bài, khơng chịu làm bài, không nộp bài cho GV chấm .
- Giáo viên lập tổ nhóm học học tập, phân cơng đơi bạn cùng tiến để các em
giúp đỡ nhau trong học tập . Khi thành lập được đôi bạn cùng tiến thì GV có kiểm tra
đánh giá kết quả tiến bộ của các em .
Ví dụ: Chỉ phân 2 em một đơi bạn giúp nhau, trong đó 1 em học giỏi, 1 em học
yếu . Giáo viên giao nhiệm vụ em học giỏi hướng dẫn bạn học thuộc các bảng nhân đã
học và thực hiện phép nhân, chia số có 3 chữ số cho số có một chữ số. Vào các giờ truy
bài tôi yêu cầu học sinh giỏi báo cáo. Khi nghe em học sinh giỏi báo cáo bạn đã thuộc các
bảng nhân và bạn đã đặt tính và tính đúng kết quả phép nhân 234 x 6 và 366 : 6 , tơi
tun dương ngay và dặn dị em phải ôn luyện các bảng nhân, chia mỗi ngày. Cứ thế tôi
giao nhiệm vụ cho học sinh giỏi giúp bạn…
- Giáo viên nên xây dựng quỹ lớp để mua đồ dung học tập để thưởng cho các
em học yếu tiến bộ và những em có tinh thần giúp bạn tiến bộ trong học tập .
2.9 Đối với những em yếu về giải tốn :
Tốn giải lớp 3 có các dạng toán như sau: Gấp 1 số lên nhiều lần, giảm 1 số đi
nhiều lần, tìm 1 phần mấy của một số, giải toán tổng hợp bằng 2 phép nhân chia có liên


quan rút về đơn vị, giải bài toán tổng hợp bằng 2 phép chia có liên quan đến rút về đơn vị

...
- Khi hướng dẫn HS giải toán GV nên quan tâm đến những em yếu . Hướng dẫn
HS xác định kĩ đề bài .Nắm được bài toán thuộc dạng tốn gì? Khi hướng dẫn giải, học
sinh khá giỏi tự suy nghĩ cách giải, học sinh yếu giáo viên có thể cho thảo luận nhóm để
tìm cách giải (GV có thể gợi mở cho HS những câu hỏi để các em tìm được cách giải).
2.10 Kết hợp với gia đình để rèn ruyện học sinh:
Gia đình là mơi trường giáo dục có ảnh hưởng trực tiếp đến trẻ.Trước tiên là ảnh
hưởng của cha mẹ rất sâu sắc.Vì vậy, giáo dục gia đình là một “điểm mạnh”, là một bộ
phận quan trọng trong sự nghiệp giáo dục trẻ.Song mỗi gia đình có những điểm riêng của
nó nên giáo viên phải biết phối hợp như thế nào để đảm bảo được tính thống nhất, tồn
vẹn trong q trình giáo dục.
Trước những ngun nhân xuất phát từ gia đình giáo viên cần phải thường xuyên
liên lạc với phụ huynh nhằm thông báo kết quả, sự phấn đấu của con em họ. Hàng tháng
báo cáo kết quả học tập của các em về gia đình qua sổ tay, làm cho phụ huynh thấy rõ vai
trị của gia đình trong việc phối hợp nâng cao chất lượng giáo dục học sinh yếu.
III. Kết quả đạt đƣợc :
Sau khi đã áp dụng những biện pháp giảng dạy và giáo dục học sinh yếu mơn
tốn ở lớp tôi. Tôi nhận thấy rằng việc rèn luyện học sinh yếu toán với những phương
pháp ấy đạt kết quả khả quan, số học sinh đầu năm học kém, chưa ngoan, kết quả cịn
thấp, nay thấy các em đã có ý thức được việc học tập của mình, số học sinh yếu từ chỗ
cộng, trừ, nhân, chia chưa thành thạo, chưa thuộc bảng cửu chương, giải toán yếu đến nay
đã tiến bộ rất nhiều. Các em có tinh thần đồn kết giúp đỡ nhau trong học tập, học sinh
yếu mơn tốn ở lớp tôi giảm đi.
Bảng thống kê học sinh yếu mơn tốn học kì I của học sinh lớp 3 mà tôi giảng
dạy năm học 2010 – 2011 :
Sĩ số
24 HS

KSCL
Đầu năm

5 HS yếu

Giữa học
kì I

Cuối học
kì I

0 HS yếu

0 HS yếu


Từ những kết quả trên tôi nhận thấy tỉ lệ học sinh yếu mơn tốn của lớp đã giảm
đi rõ rệt. Đó là điều phấn khởi mà tơi đã vận dụng các biện pháp trên.
C.KẾT LUẬN
I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác:
Nâng cao chất lượng học sinh yếu nói chung, học sinh yếu mơn tốn lớp 3 nói
riêng đây là một việc làm có ý nghĩa hết sức quan trọng, lớn lao nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện và thực hiện các mục tiêu đổi mới của ngành.
II.Bài học kinh nghiệm:
Qua quá trình rèn học sinh yếu mơn tốn bản thân tơi rút ra được một số kinh
nghiệm sau :
- Để giảng dạy và giáo dục học sinh yếu giáo viên phải thực sự yêu nghề khơng
ngại khó khăn vất vả, phải kiên trì, sự nhiệt tâm. Đây chính là một trong những điều quan
trọng để vực dậy những học sinh yếu.
- Trước khi lên lớp nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy lựa chọn phương pháp tối ưu,
phù hợp với đối tượng học sinh của lớp. Trong quá trình giảng dạy giáo viên nên kết hợp
nhiều phương pháp , nhiều hình thức để khơi gợi sự hứng thú học tập của các em. Bên
cạnh đó giáo viên phải gần gũi, thương yêu, giúp đỡ học sinh, khơng nóng nảy khi học

sinh chưa tiến bộ .
- Giáo viên làm tốt công tác điều tra nắm rõ đối tượng học sinh yếu của lớp mình
phụ trách. Tìm hiểu các nguyên nhân dẫn đến học sinh học yếu mơn tốn. Lập kế hoạch
phụ đạo cho từng học sinh yếu mơn tốn.
- Giáo viên theo dõi kiểm tra đôn đốc kịp thời các yếu điểm của học sinh yếu
mơn tốn. Cần chú ý về vấn đề tâm lý của những học sinh yếu. Khi các em có tiến bộ dù
chỉ là nhỏ cũng nên động viên các em. Nên động viên các em hơn là trách phạt. Khi các
em có phát biểu sai chúng ta khơng nên qt mắng, dùng lời lẽ nhẹ nhàng có thể gợi ý
hoặc gọi em khác trả lời, yêu cầu em yếu đó nhắc lại câu trả lời của bạn.
- Đối với đối tượng học sinh yếu mơn tốn chúng ta cần quan tâm nhiều hơn, chỉ
bảo thật cặn kẽ dù chỉ những kiến thức từ lớp 1, lớp 2. Nói chung các em hổng kiến thức
ở đâu thì giáo viên rèn ở đó.


- Giáo viên hướng dẫn các em học tập có phương pháp và thói quen tự học bài, tự
làm bài, có thái độ học tập nghiêm túc, kiên trì khơng nản chí, tự tin trong học tập. Có kế
hoạch xây dựng những đôi bạn cùng tiến ngay từ đầu năm học để tạo điều kiện cho các
em giúp đỡ nhau .
III. Kiến nghị :
* Đối với BCH hội phụ huynh học sinh:
- BCH hội mời phụ huynh có con em học yếu mơn tốn họp bàn về cách
khăcphục.
.
- BCH hội thường xuyên trao đổi với phụ huynh có con em học yếu, với giáo viên, với
nhà trường
- Đặt biệt thường xuyên động viên, đôn đốc phụ huynh đưa con đi học chuyên
cần.
* Đối với nhà trường:
- Lập danh sách báo cáo cho thôn về những phụ huynh không quan tâm hoặc để
con em ở nhà đi học không chuyên cần. Từ đó thơn có biện pháp nhắc nhở, động viên

những phụ huynh này.
- Nhà trường mời phụ huynh có học sinh yếu mơn tốn, BCH hội, các thơn
trưởng, giáo viên có học sinh yếu, tổ khối trưởng để chỉ đạo những biện pháp giáo dục
học sinh yếu.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi mạnh dạn đưa ra mong có sự bổ sung và
góp ý của q thầy cơ giáo.
Tôi xin chân thành cảm ơn .

Người viết
Xác nhận của hội đồng khoa học trường
………………………………………
……………………………………….


………………………………………..
………………………………………..



×