Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

skkn môn đạo đức lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.58 KB, 13 trang )

PHẦN MỘT: LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
1. Cơ sở lý luận
Đạo đức là "cái gốc" của con người. Khi sinh thời Bác Hồ đã dạy: "Người
có tài mà khơng có đức là người vơ dụng, người có đức mà khơng có tài thì làm
việc gì cũng khó".
Cổ nhân xưa cũng có câu: "Nhân chi sơ, tính bản thiện" nghĩa là con người
sinh ra vốn rất lương thiện, con người chỉ không thiện (Đức) khi hấp thụ những
điều ác, điều không tốt và không được giáo dục, không được rèn luyện. Vì vậy
ngay từ xa xưa các cụ đồ (người dạy học) đã có quan điểm dạy học "Tiên học lễ,
hậu học văn".
Ngày nay Đảng và Nhà nước ta cũng rất coi trọng việc giáo dục đạo đức
trong trường học đối với học sinh mà định hướng cơ bản được thể hiện qua mục
tiêu của giáo dục là: "Giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người có tri
thức vững vàng, có cơ thể khoẻ mạnh và một tâm hồn trong sáng".
Để thực hiện mục tiêu giáo dục nói chung, giáo dục cấp Tiểu học cũng đã
đề ra mục tiêu cụ thể trong việc giáo dục đạo đức học sinh. Việc giáo dục đạo đức
cho học sinh Tiểu học được thực hiện thông qua các hoạt động ngoại khố, thơng
qua việc giảng dạy các mơn học và trọng tâm là thông qua việc giảng dạy môn
Đạo đức.
Mục tiêu của giáo dục đạo đức ở Tiểu học là:
1.1 Về kiến thức: Có hiểu biết ban đầu về một số chuẩn mực, hành vi đạo đức
và pháp luật phù hợp với lứa tuổi trong quan hệ của các em với bản thân, gia đình,
nhà trường , cộng đồng xã hội, môi trường tự nhiên và ý ngghĩa của việc thực hiện
các chuẩn mực đó (Thực hiện các chuẩn mực đó thì có lợi gì? khơng thực hiện các
chuẩn mực đó thì có hại gì?)
1.2. Về kỹ năng, hành vi: Biết nhận xét, đánh giá hành vi của bản thân và
những người xung quanh theo chuẩn mực đã học; có kỹ năng lựa chọn và thực
hiện các hành vi ứng xử phù hợp chuẩn mực trong các mối quan hệ và tình huống
đơn giản, cụ thể của cuộc sống, biết nhắc nhở bạn bè cùng thực hiện.
1.3. Về giáo dục thái độ: Từng bước hình thành thái độ tự trọng, tự tin vào
khả năng của bản thân, có trách nhiệm với hành động của mình, u thương, tơn


trọng mọi người, mong muốn đem lại niềm vui, hạnh phúc cho mọi người, đồng
tình và làm theo cái thiện, cai đúng, cái tốt, khơng đồng tình với cái ác, cái sai, cái
xấu.
Theo chương trình mới của mơn Đạo đức, ta thấy có sự thay đổi trong mục
tiêu chung bởi vì:
1


- Mục tiêu của dạy học môn Đạo đức ở Tiểu học là dạy hành vi đạo đức,
nên cần chú trọng kỹ năng hành vi.
- Thực hiện mục tiêu đào tạo con người cho hoạt động thực tiễn nên học
phải đi đôi với hành, dạy học môn Đạo đức cũng như giáo dục đạo đức phải gắn
với thực tiễn vì đào tạo con người để hoạt động thực tiễn.
- Đáp ứng yêu cầu thực tế đời sống đạo đức: Nền kinh tế thị trường có
nhiều mặt tích cực, đồng thời cũng có tác động tiêu cực làm xói mịn một số giá trị
đạo đức truyền thống. Do đó phải quan tâm giáo dục kỹ năng hành vi đúng chuẩn
mực đạo đức có thái độ, bản lĩnh kiên định trước các tiêu cực, tệ nạn xã hội.
Tóm lại: Việc giáo dục đạo đức nói chung và giảng dạy mơn Đạo đức nói
riêng ở Tiểu học là một nhiệm vụ vơ cùng quan trọng góp phần đào tạo nên những
cơng dân đủ trí tuệ và bản lĩnh xây dựng một nước Việt Nam ngày một giàu đẹp,
tiến bộ và văn minh.
2. Cơ sở thực tiễn.
Qua nghiên cứu nội chương trình tơi thấy trong cấu trúc của Vở bài tập
môn Đạo đức Tiểu học nói chung và Vở bài tập Đạo đức lớp 3 nói riêng có rất
nhiều dạng bài tập (kể cả tiết 1 và tiết 2). Ta có thể kể ra những dạng bài tập cơ
bản là:
- Dạng bài tập thông qua một câu chuyện.
- Dạng bài tập điền "đúng - sai"; "nên - không nên"; "tán thành - không tán
thành"….
- Dạng bài tập thơng qua tình huống để học sinh nhận xét, đánh giá, bày tỏ

quan điểm.
- Dạng bài tập quan sát tranh để nhận xét, đánh giá, đặt tên……
- Dạng bài tập sưu tập và trình bày tư liệu.
- Một số dạng bài tập khác.
Mỗi dạng bài tập có những u cầu, mục đích khác nhau có quy trình và
phương pháp dạy học khác nhau. Ở từng dạng bài tập đều có những đặc điểm
riêng mang đặc trưng cho mỗi dạng bài. Ở mỗi dạng bài nếu ta có những quy
trình, phương pháp giảng dạy, hình thức tổ chức dạy học phù hợp thì chất lượng
giảng dạy mơn Đạo đức sẽ rất tốt và ngược lại.
Trên thực tế giảng dạy nhiều năm, qua sinh hoạt chuyên môn các cấp (tổ,
trường), qua dự giờ của đồng nghiệp, tôi nhận thấy khi giảng dạy môn Đạo đức.
Để giải quyết các dạng bài tập khác nhau giáo viên không nắm vững được những
quy trình và phương pháp giảng dạy đặc thù vì vậy chất lượng giờ lên lớp khơng
cao, qua đó chất lượng giáo dục cũng không được như mong muốn.
2


Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng giảng dạy mơn Đạo đức? Trước
những băn khoăn trăn trở đó, tôi đã quyết định chọn đề tài: "Những biện pháp để
nâng cao chất lượng giảng dạy các dạng bài tập đạo đức lớp 3". Sau một thời
gian nghiên cứu thực hiện tôi nhận thấy kinh nghiệm của tôi đã được vận dụng có
hiệu quả. Tơi xin trình bầy để các đồng chí đồng nghiệp cùng tham khảo.
PHẦN II: NỘI DUNG SÁNG KIẾN
I. Những biện pháp để nâng cao chất lượng giảng dạy các dạng bài tập.
1. Dạy dạng bài tập thông qua một câu chuyện.
Dạng bài tập được thiết kế thơng qua một câu chuyện nhằm mục đích
thơng qua câu chuyện để cung cấp cho học sinh những chuẩn mực đạo đức, từ đó
các em biết vận dụng thực hành hành vi đạo đức.
Quy trình dạy dạng bài tập thơng qua một câu chuyện như sau:
- Bước 1: Kể chuyện.

- Bước 2: Khai thác nội dung câu chuyện.
- Bước 3: Rút ra bài học đạo đức (ghi nhớ).
- Bước 4: Liên hệ thực tiễn.
Để thực hiện có chất lượng và hiệu quả các quy trình trên tơi đã thực hiện
các biện pháp:
* Bước 1: Kể chuyện.
Để kể câu chuyện hay, hấp dẫn gây ấn tượng mạnh mẽ với học sinh tôi
thường làm tốt:
- Nghiên cứu kỹ nội dung câu chuyện đặc biệt quan tâm đến tính cách của
các nhân vật trong câu chuyện, tập kể nhiều lần, luyện giọng kể chuyền cảm, hấp
dẫn, phù hợp với tính cách của nhân vật.
- Kết hợp với tranh ảnh, băng hình, giọng điệu, cử chỉ hài hoà, phù hợp với
nội dung của câu chuyện, phù hợp với tính cách của nhân vật trong câu chuyện.
Lưu ý: Khi kể, để làm tăng thêm tính hấp dẫn của câu chuyện, giáo viên có
thể thêm, bớt một số từ ngữ, lời dẫn nhưng tuyệt đối không được lạm dụng để làm
sai lệch đi nội dung câu chuyện. Nếu câu chuyện dài có thể kể 2 lần nhưng phải
thay đổi hình thức đi một chút cho đỡ nhàm chán như: Kể lần một khơng có tranh,
kể lần hai có tranh hoặc nếu trong lớp có học sinh đọc, kể tốt có thể cho học sinh
tham gia đọc, kể lại câu chuyện.
* Bước 2: Tìm hiểu chuyện.

3


Tìm hiểu chuyện là bước hết sức quan trọng. Qua khai thác câu chuyện
cùng với những kinh nghiệm trong cuộc sống của học sinh sẽ giúp các em rút ra
được những bài học đạo đức cần thiết.
Để thực hiện tốt bước tìm hiểu chuyện tơi thường làm tốt những việc sau:
- Xây dựng hệ thống câu hỏi: Các câu hỏi để tìm hiểu, khai thác nội dung
câu chuyện cần đi từ việc phân tích hành vi, việc làm cụ thể và trên cơ sở đó rút ra

kết luận chung cần thực hiện. Chúng cần được xây dựng thành một hệ thống, phù
hợp với khả năng của học sinh, hệ thống câu hỏi khơng nên q dài, q nhiều,
q khó hoặc quá rễ học sinh không cần suy nghĩ cũng trả lời đúng. Hệ thống câu
hỏi phải xốy vào việc tìm hiểu nội dung, ý nghĩa và cách thực hiện hành vi đạo
đức.
- Tổ chức cho học sinh nghiên cứu, tìm hiểu nội dung câu chuyện:
Để tổ chức cho học sinh nghiên cứu, tìm hiểu nội dung câu chuyện tơi
thường tổ chức giao nhiệm vụ cho các em với nhiều hình thức hoạt động như:
+ Hoạt động cá nhân.
+ Hoạt động nhóm.
+ Hoạt động tập thể.
Dù với hình thức nào thì giáo viên cũng cần giao nhiệm vụ cụ thể, mục
đích tìm hiểu, thảo luận, thời gian thực hiện. Đặc biệt lưu ý mọi hình thức tổ chức
hoạt động học tập cho học sinh đều phải dựa trên nguyên tắc mọi học sinh đều
được hoạt động, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và trình độ của học sinh.
- Tổ chức cho học sinh trình bầy kết quả:
Khi tổ chức cho học sinh trình bầy kết quả tơi thường cho nhiều học sinh,
nhiều nhóm học sinh được trình bầy, thậm chí cho các em, các nhóm giao lưu,
tranh luận để phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, giáo viên chỉ là người
kết luận vấn đề.
* Bước 3: Rút ra bài học đạo đức.
Để rút ra bài học đạo đức tôi thường dựa trên những kết quả của các nội
dung được đưa ra thảo luận trên cơ sở đó để đưa ra một số câu hỏi gợi mở để học
sinh tự tìm ra những nội dung cơ bản của bài học đạo đức. Theo tôi làm như vậy
bài học đạo đức mà các em cần ghi nhớ sẽ được các em hiểu sâu sắc, nhớ lâu và
vận dụng vào thực hành đạo đức được hiệu quả hơn.
* Bước 4: Liên hệ thực tiễn.
Liên hệ thực tiễn tức là làm cho học sinh biết vận dụng những kiến thức đã
học, những chuẩn mực đạo đức trong bài học để học sinh vận dụng vào thực tế.
4



Qua liên hệ thực tế học sinh sẽ được củng cố và rèn luyện hành vi đạo đức, qua đó
sẽ dần hình thành được thói quen đạo đức.
Để phần liên hệ có tính hiệu quả cao, giáo viên cần hướng dẫn học sinh
liên hệ gần gũi với cuộc sống xung quanh của bản thân, của gia đình, của lớp, của
trường, của địa phương nơi các em đang sinh sống, tránh những liên hệ sáo rỗng
xa dời thực tế và không cần thiết.
2. Dạy dạng bài tập điền "đúng - sai"; "nên - không nên" hoặc "tán thành không tán thành"…..
Ở dạng bài tập này nhằm mục đích để học sinh biết vận dụng những kiến
thức đạo đức, những chuẩn mực đạo đức và những kinh nghiệm, vốn sống của học
sinh để đánh giá những hành động, việc làm của người khác đúng hay sai, tốt hay
xấu, nên hay không nên, từ đó tỏ thái độ đồng tình ủng hộ hay lên án phê bình
những hành động, những việc làm đó. Qua đó cũng hình thành cho học sinh ln
sống có trách nhiệm với bản thân, với mọi người và rộng hơn là với cuộc sống
xung quanh.
Quy trình dạy dạng bài này gồm:
- Bước 1: Đọc xác định yêu cầu của bài.
- Bước 2: Học sinh thực hiện bài tập.
- Bước 3: Học sinh trình bày kết quả.
- Bước 4: Liên hệ (nếu thấy cần thiết)
Để thực hiện tốt quy trình trên tơi đã có những biện pháp giảng dạy như
sau:
* Bước 1: Bước đọc và xác định yêu cầu của bài: Đây là một bước quan
trọng bởi nếu bước này làm không tốt các em sẽ không hiểu rõ, hiểu hết nhiệm vụ
của bài tập, từ đó dẫn tới hậu quả là các em làm sai yêu cầu của bài.
Ở bước 1 tôi thường thực hiện:
+ Cho học sinh đọc từ 2 đến 3 lần/ bài.
+ Gạch chân những từ, cụm từ quan trọng trong yêu cầu của bài.
+ Giải thích hoặc làm rõ nghĩa những từ, cụm từ khó hiểu trong bài (nếu

có)
Lưu ý: Khi đọc bài phải cho học sinh đọc đầy đủ cả yêu cầu của bài và nội
dung của bài (một số học sinh thường có thói quen chỉ đọc yêu cầu của bài)
* Bước 2: Học sinh thực hiện các yêu cầu của bài tập. Ở bước này tơi
thường có nhiều hình thức tổ chức cho học sinh thực hiện như: Hoạt động cá nhân,
hoạt động nhóm, hoạt động lớp. Tuỳ theo mức độ khó, dễ để tổ chức hình thức
5


hoạt động cho phù hợp, tránh hình thức vừa mất thời gian, vừa khơng có tính hiệu
quả. Bước này cần lưu ý:
+ Tổ chức để mọi học sinh đều được tham gia làm bài.
+ Có thể giao bài tập cho từng nhóm đối tượng cho phù hợp với trình độ
của từng học sinh, từng nhóm học sinh (dạy học theo yêu cầu cụ thể hoá đối
tượng)
+ Quan tâm giúp đỡ những học sinh yếu, những nhóm yếu thực hiện bài
tập.
+ Tổ chức nhiều hình thức học tập hấp dẫn như: Dưới các hình thức trị
chơi, thi đua…. để khơng khí học tập được nhẹ nhàng, thoải mái nhưng cũng rất
hiệu quả, luôn gây được hứng thú học tập cho học sinh.
* Bước 3: Học sinh trình bầy kết quả. Khi tổ chức cho học sinh trình bầy
kết quả tơi thường lưu ý:
- Tổ chức cho nhiều học sinh, nhiều nhóm học sinh trình bầy kết quả (như
các dạng bài tập khác)
- Tránh cho học sinh trả lời "mò" thiếu suy nghĩ mà có thể vẫn đúng. Để
khắc phục tình trạng trên tơi thường có những câu hỏi như: Tại sao em cho hành
vi, việc làm đó là đúng (sai); nên (không nên)?
Hoặc để gắn quyền lợi và nghĩa vụ của học sinh vào trong thực tế, giáo
viên cấn hỏi: Nếu là em, em sẽ làm gì? Làm như thế nào trong tình huống đó? Vì
sao?....

Làm như vậy tơi thấy học sinh sẽ hiểu sâu, nhớ lâu bài học, biết "học và
hành", biết gắn "quyền lợi và ghĩa vụ" trong thực tế cuộc sống.
* Bước 4: Liên hệ.
Khi cho học sinh liên hệ, tôi thường tổ chức hết sức linh hoạt, cũng có thể
cho học sinh liên hệ sau khi khai thác nội dung của cả bài nhưng cũng có thể liên
hệ ngay sau từng phần của bài; từng hoạt động, việc làm cụ thể. Làm như vậy học
sinh sẽ được liên hệ sát với thực tế hơn, tránh được sự nhàm chán sáo rỗng (phần
liên hệ tơi đã trình bầy kỹ ở phần trên). Bước liên hệ có thể thực hiện, có thể
khơng vì khơng nhất thiết sau mỗi bài tập lại cho học sinh liên hệ.
3. Dạy dạng bài xử lý tình huống:
Mục đích của dạng bài này là thơng qua một hay một vài tình huống cụ
thể, u cầu các em dựa trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức đã học, những kinh
nghiệm, vốn sống của các em đã có để xử lý các tình huống mà các em sẽ gặp phải
trong cuộc sống hàng ngày.
Để dạy tốt dạng bài tập sử dụng tình huống cần lưu ý:
6


* Khâu chuẩn bị:
+ Chuẩn bị các tình huống gần sát với thực tế của nhà trường, địa phương,
nếu những tình huống trong sách bài tập Đạo đức khơng phù hợp với thực tế hoặc
q đơn giản, q khó….. thì giáo viên cần thay đổi cho phù hợp, tránh câu nệ,
phụ thuộc vào sách giáo khoa, sách bài tập….
+ Chuẩn bị một số dụng cụ, trang phục đơn giản phù hợp, nếu các tình
huống đó cần phải thể hiện bằng cách sắm vai nhân vật.
* Tổ chức cho học sinh nghiên cứu để xử lý tình huống:
Trước khi cho học sinh nghiên cứu để xử lý tình huống tơi thường có
những gợi ý cho các em:
- Khi trình bầy xử lý tình huống các em có thể trả lời "miệng", có thể trình
bầy thơng qua hình thức sắm vai (để phát huy tính sáng tạo, tích cực, chủ động

của học sinh và để khơng khí lớp học nhẹ nhàng, sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn học
sinh vào bài học).
- Nếu trả lời bằng cách sắm vai thì trong nhóm các em phải phân vai, luyện
để nhập vai và chuẩn bị trang phục cho phù hợp nếu điều kiện có thể và thấy cần
thiết cho việc thể hiện nhân vật.
Lưu ý: Cần phân bố quỹ thời gian cho hợp lý để học sinh (hoặc các nhóm)
có đủ thời gian nghiên cứu, bàn bạc, xử lý tình huống đặc biệt là những tình huống
cần phải sắm vai, nếu khơng chú ý tới điều đó khi xử lý tình huống các em sẽ phải
vội vàng, xử lý không chặt chẽ, không hợp lý.
* Tổ chức cho học sinh trình bầy kết quả:
Ở dạng bài xử lý tình huống khi cho học sinh trình bầy kết quả nghiên cứu,
thảo luận ngồi những hình thức tổ chức như một số dạng bài tập khác tôi cịn vận
dụng một số phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động dạy học phù hợp như:
- Sau khi các cá nhân (hoặc nhóm) trả lời cách xử lý tình huống tôi thường
cho học sinh giao lưu để làm rõ các vấn đề:
+ Tại sao bạn (các bạn) lại có những việc làm, hành động trên?
+ Khi thực hiện những hành động, việc làm đó thì bạn (các bạn hoặc nhân
vật) cảm thấy như thế nào?
+ Khi thực hiện những hành động, hành vi, việc làm đó sẽ mang lại cho
chúng ta điều gì?
- Khi hướng dẫn cho học sinh nhận xét cách xử lý của bạn (nhóm các bạn)
tơi thường định hướng để học sinh nhận xét cách xử lý trên là đúng hay sai, ngồi
ra tơi cịn cho các em nhận xét cả cách thể hiện của vai có phù hợp với tính cách
của nhân vật trong tình huống khơng? Có đạt được chuẩn mực đạo đức khơng?
7


Ví dụ: Khi rót nước mời một người lớn tuổi phải đưa bằng hai tay, khi nói
với người lớn tuổi phải lễ phép….. Làm như vậy các chuẩn mực đạo đức sẽ được
làm sáng tỏ thêm, các em sẽ có kỹ năng thực hiện những hành vi đạo đức và thói

quen hành động đạo đức.
GoocKy là một nhà giáo dục thiên tài người Nga đã nói: "Nếu dạy những
chuẩn mực đạo đức mà chúng ta khơng rèn thói quen đạo đức cho học sinh thì
việc dạy những chuẩn mực đạo đức đó khơng có ý nghĩa gì cả".
Sau tất cả những hoạt động trên giáo viên chốt lại như tất cả các dạng bài
tập khác.
4. Dạy dạng bài tập nhật xét, đánh giá việc làm… qua các bức tranh hoặc đặt
tên cho các bức tranh.
Để thực hiện dạng bài tập này tơi thường vận dụng theo quy trình sau:
* Bước 1: Cho học sinh đọc kỹ yêu cầu của bài tập (như khi thực hiện ở
các dạng bài tập khác)
* Bước 2: Cho học sinh quan sát các bức tranh (có thể quan sát trực tiếp
các tranh trong sách giáo khoa hoặc phơ tơ phóng to để học sinh cả lớp cùng quan
sát). Cho học sinh nêu nội dung của các bức tranh với những câu hỏi gợi mở như:
bức tranh vẽ gì? có những nhân vật nào, có những lời thoại gì trong các nhân vật
của bức tranh
* Bước 3: Tổ chức cho học sinh thực hiện bài tập và trả lời kết quả (tương
tự như ở các dạng bài tập khác). Khi thực hiện dạng bài tập này cần lưu ý những
vấn đề sau:
- Giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh nhận xét và chốt lại những việc
làm nào của các nhân vật trong tranh là đúng, nên…. chúng ta cần học tập điều gì
của các việc làm đó hoặc chúng ta nên phê phán, góp ý, nhắc nhở… những việc
làm nào là chưa đúng, chưa tốt?
- Hướng dẫn cho học sinh nhận xét, phân biệt rõ những việc làm đúng, sai
trong một bức tranh, tránh lẫn lộn tốt - xấu, đánh giá quy nạp chung chung.
Ví dụ: Trong một bức tranh vẽ cảnh học sinh đang tích cực dọn vệ sinh
trường lớp (Bài 6: Tích cực tham gia việc lớp, việc trường - Sách Bài tập Đạo đức
lớp 3 trang 21)
Yêu cầu của bài tập là: Em có nhận xét gì về việc làm của các bạn nhỏ
trong bức tranh?


8


(Bức tranh vẽ cảnh cả lớp đang tích cực dọn vệ sinh, chỉ có một em đang
chơi đá cầu một mình)
Với học sinh lớp 3 nếu giáo viên khơng lưu ý định hướng cho học sinh,
các em sẽ chỉ nhận xét việc làm của các bạn trong tranh là đúng, là tốt, nên học
tập…. mà các em "quên" nhận xét đánh giá một nhân vật phản diện có việc làm
chưa đúng, khơng nên học tập, đó là bạn đang đá cầu một mình.
- Giáo viên khơng nên phụ thuộc q vào vở bài tập Đạo đức mà cần dựa
vào mục tiêu của bài, có thể thốt ly các bức tranh ảnh trong sách bài tập, sưu tập
những bức tranh có nội dung gần gũi với đời sống xung quanh, có hình thức đẹp,
hấp dẫn, dễ quan sát (một số bức tranh trong sách bài tập Đạo đức rất xấu, khó
quan sát, khó nhận xét đánh giá)
- Nếu một bài tập có nhiều bức tranh giáo viên phải chốt lại việc làm nào
của từng bức tranh là đúng, là sai…. Sau đó cho học sinh (từ 2 đến 3 em) nhắc lại
để củng cố và khắc sâu kiến thức.
- Nếu yêu cầu của bài là đặt tên cho các bức tranh, giáo viên cần khuyến
khích các em học sinh có nhiều cách đặt tên khác nhau, tránh gị bó làm giảm khả
năng tư duy sáng tạo của học sinh.
- Khi học sinh nhận xét, đánh giá hay đặt tên cho các bức tranh, giáo viên
hỏi học sinh lý do để đánh giá, nhận xét những vấn đề đó. Làm như vậy học sinh
sẽ phải có suy nghĩ rất ký trước khi trả lời và các chuẩn mực đạo đức cũng được
nhắc lại, khắc sâu hơn.
5. Dạy dạng bài sưu tập và trình bầy các tư liệu (tranh, ảnh, những bài thơ, ca
dao về chủ đề mà các em được học).
Quy trình của dạng bài tập này như sau:
- Bước 1: Chuẩn bị tư liệu.
- Bước 2: Trình bầy tư liệu.

- Bước 3: Đánh giá kết quả tư liệu.
Để thực hiện tốt các bước tôi thường thực hiện:
* Bước 1: Chuẩn bị tư liệu.
Để học sinh chuẩn bị các tư liệu được tốt, đúng yêu cầu của bài giáo viên
cần phải hướng dẫn cho học sinh chuẩn bị những loại tư liệu gì, những tư liệu đó
phải có tác dụng thực hiện bài tập và hướng vào chủ đề của bài học.

9


Lưu ý: Cần phải có một thời gian thích hợp để học sinh sưu tập đủ tư liệu
và có chất lượng theo yêu cầu (thường là nhắc học sinh chuẩn bị từ cuối giờ của
tiết 1).
* Bước 2: Trình bầy tư liệu.
Khi tổ chức cho học sinh trình bầy các tư liệu đã được sưu tập, giáo viên
cần:
- Tổ chức với nhiều hình thức sinh động, hấp dẫn như: đọc thơ, ca dao, hát,
trình bầy tranh ảnh…. với hình thức thi đua, các trò chơi sinh động và hấp dẫn.
- Tổ chức cho nhiều học sinh được trình bầy kết quả sưu tập của mình (nếu
tất cả các em đều được trình bầy càng tốt)
- Yêu cầu học sinh giải thích nội dung, ý nghĩa sản phẩm sưu tập của mình
gắn với chủ đề đang học.
Ví dụ: Khi dạy bài "Biết ơn các liệt sỹ" (tiết 2) có học sinh sưu tập được
câu tục ngữ:
- Uống nước nhớ nguồn.
- Ăn quả nhớ kẻ trồng cây.
Sau khi học sinh đọc xong 2 câu tục ngữ trên, giáo viên hỏi:
Em hiểu hai câu tục ngữ trên nói lên điều gì?
(Phải biết ơn những người đã hi sinh để cho cuộc sống của chúng ta ngày
hơm nay được bình n, hạnh phúc….)

III. Kết quả việc thực hiện các biện pháp.
* Năm học 2009-2010 khi chưa áp dụng các biện pháp trên. Sau khi thực
hiện giảng dạy các dạng bài (như phần trên) của môn Đạo đức cuối năm học kết
quả môn Đạo đức của lớp tôi được đánh giá như sau:
St
t
1
2
3
4

Nhận xét
Nhận xét 1: Biết giữ lời hứa với bạn
bè, mọi người.
Nhận xét 2: Biết làm việc phù hợp với
khả năng
Nhận xét 3: Biết quan tâm, chăm sóc
ơng bà, cha mẹ.
Nhận xét 4: Tích cực tham gia việc
trường, việc lớp.
10

Sĩ số
lớp

Số HS đạt
tích V

30


19

30

18

30

18

30

18

Ghi chú


Nhận xét 5: Biết quan tâm tới hàng
xóm, láng giềng.
Nhận xét 6: Biết ơn các thương binh,
6
liệt sĩ.
Nhận xét 7: Biết đoàn kết với thiếu
7
nhi quốc tế.
Nhận xét 8: Biết tôn trọng tài sản, thư
8
từ của người khác.
9 Nhận xét 9: Biết tiết kiệm nước.
Nhận xét 10: Biết bảo vệ, chăm sóc

10
cây trồng, vật ni.
5

30

19

30

19

30

16

30

24

30

26

30

19

- Số học sinh hồn thành: 30. Trong đó: A+ có 5 em; A có 25 em.
Kết quả và qua thực tế của học sinh tôi nhận thấy:

- Học sinh chưa nắm vững các chuẩn mực đạo đức đã học.
- Chưa có kỹ năng đánh giá, nhận xét những việc làm, hành động của
người khác, từ đó chưa tỏ được thái độ đồng tình, ủng hộ hay phê phán, giúp đỡ
bạn bè - người khác cùng thực hiện theo chuẩn mực đạo đức.
- Chưa có nhiều thói quen trong hành động đạo đức, chưa thường xuyên
rèn luyện và thực hành các chuẩn mực đạo đức.
* Năm học 2008 - 2009, để khắc phục những tồn tại trên của học sinh, tôi
đã áp dụng các biện pháp (đã nêu ở phần trên) để giảng dạy các dạng bài tập của
môn Đạo đức. Kết quả quả giảng dạy rất phấn khởi:
- Học sinh nắm vững các chuẩn mực đạo đức đã học.
- Có kỹ năng đánh giá, nhận xét những việc làm, hành động của người
khác, biết tỏ thái độ đồng tình ủng hộ hoặc phê phán giúp đỡ bạn bè, người khác
cùng thực hiện theo các chuẩn mực đạo đức.
- Có thói quen rèn luyện, thực hành theo các chuẩn mực đạo đức.
Kết quả môn Đạo đức cuối năm học 2010-2011 như sau:
St
t
1
2
3

Nhận xét
Nhận xét 1: Biết giữ lời hứa với bạn
bè, mọi người.
Nhận xét 2: Biết làm việc phù hợp với
khả năng
Nhận xét 3: Biết quan tâm, chăm sóc
11

Sĩ số

lớp

Số HS đạt
tích V

30

30

30

30

30

26

Ghi chú


ông bà, cha mẹ.
Nhận xét 4: Tích cực tham gia việc
4
trường, việc lớp.
Nhận xét 5: Biết quan tâm tới hàng
5
xóm, láng giềng.
Nhận xét 6: Biết ơn các thương binh,
6
liệt sĩ.

Nhận xét 7: Biết đoàn kết với thiếu
7
nhi quốc tế.
Nhận xét 8: Biết tôn trọng tài sản, thư
8
từ của người khác.
9 Nhận xét 9: Biết tiết kiệm nước.
Nhận xét 10: Biết bảo vệ, chăm sóc
10
cây trồng, vật ni.

30

27

30

23

30

30

30

25

30

30


30

28

30

28

- Số học sinh hồn thành: 30. Trong đó: A+ có 17 em; A có 13 em.

12


PHẦN 3: KẾT LUẬN, BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ NHỮNG ĐỀ XUẤT
1. Kết luận và bài học kinh nghiệm:
Từ những khó khăn, vướng mắc trong q trình dạy học về các dạng bài
tập của môn Đạo đức. Qua một quá trình tìm tịi, nghiên cứu tơi đã tìm ra các biện
pháp giảng dạy phù hợp, hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy mơn Đạo
đức góp phần vào việc thực hiện mục tiêu dạy học môn Đạo đức ở Tiểu học. Để
việc áp dụng sáng kiến vào thực tế giảng dạy đạt kết quả cao, tơi xin trình bày một
số bài học kinh nghịêm như sau:
1.1. Giáo viên cần nắm vững nội dung chương trình của mơn Đạo đức ở
lớp 3. Đặc biệt là cấu trúc sách Bài tập Đạo đức lớp 3 để phân chia nội dung,
chương trình thành các dạng bài tập cơ bản, từ đó có các biện pháp dạy học phù
hợp với từng dạng bài tập đó.
1.2. Ở các dạng bài tập khác nhau cần có những phương pháp giảng dạy
khác nhau nhưng cũng phải hết sức linh hoạt khi vận dụng, tránh sự lặp lại khn
mẫu hình thức gây nhàm chán cho học sinh
1.3. Với học sinh lớp 3, ngoài việc cung cấp các chuẩn mực đạo đức cho

học sinh cần đặc biệt quan tâm rèn luyện kỹ năng hành động, thực hành các hành
vi đạo đức cho học sinh để việc "học" thực sự đi đôi với "hành", "lý thuyết" gắn
liền với "thực tế".
1.4. Chỉ coi mơn Đạo đức là mơn học "ít giờ", khơng được coi mơn này là
mơn "phụ". Có như vậy ta mới ln tìm tịi các biện pháp để nâng cao chất lượng,
đáp ứng yêu cầu thực hiện mục tiêu môn Đạo đức đã đề ra.
2. Kiến nghị:
Mỗi năm học, phòng Giáo dục và Đào tạo nên chọn các sáng kiến tốt in
thành các tập san theo môn học để cung vấp cho các trường làm tài liệu sinh hoạt
chuyên môn.

13



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×