Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

SKKN ứng dụng công nghệ thông tin trong môn mỹ thuật bậc tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.27 KB, 29 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
“ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG MÔN MĨ
THUẬT BẬC TIỂU HỌC”


PHẦN I - ĐẶT VẤN ĐỀ
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Hoà chung trong xu thế đổi mới giáo dục phổ thông mà Đảng và Nhà nước ta đang nỗ lực
phấn đấu. Cho tới thời điểm này, giáo dục Việt Nam đang và đã thu hoạch được những
tiến bộ nhất định, đã có những bước bứt phá mà từ trước tới nay vẫn chưa tạo ra được.
Điều này khơng chỉ có sự cố gắng hết sức của những nhà khoa học, những nhà quản lý
giáo dục đầy tâm huyết mà còn phải kể đến một nền tảng khoa học công nghệ đã được
thế giới khẳng định. Như chúng ta được biết, xu hướng phát triển của xã hội luôn luôn
gắn liền với sự phát triển của khoa học công nghệ. Đặc biệt đối với ngành Giáo dục - Đào
tạo, công nghệ chắc chắn sẽ không thể thiếu trong thời kỳ hiện nay và trong tương lai.
Giờ đây, với những bài giảng điện tử, lớp học ảo, lớp học sử dụng trên nền cơng nghệ
thơng tin khơng cịn là điều xa lạ đối với giáo viên chúng ta nữa.
Có thể nói, cơng nghệ thơng tin đã thổi một luồng gió mới vào xu thế đổi mới quá trình
Dạy - Học. Từ bấy lâu nay, công nghệ thông tin đã giúp cho giáo viên vận dụng được
những phương pháp dạy học một cách linh hoạt và đơn giản, công nghệ thông tin đã giúp
giáo viên thực hiện được những bài giảng phức tạp mà giáo dục truyền thống khó có thể
làm được, nếu có được thì phải rất vất vả và tốn kém, và cịn nhiều điều mà cơng nghệ
thơng tin đã giúp cho giáo viên từ việc chuẩn bị đồ dùng dạy học, đồ dùng thí nghiệm,
minh hoạ trực quan đến việc truyền đạt kiến thức tới học sinh thực sự dễ dàng và hiệu
quả.
Xét trên một phương diện nào đó thì nhờ vào cơng nghệ thơng tin, đã góp phần vào việc
tạo hứng thú học tập cho học sinh, giúp học sinh hình thành khái niệm và kiến thức một
cách dễ dàng, nhanh chóng và hiệu quả. Đã có nhiều bài giảng điện tử được thực hiện và
học sinh tiếp thu nó một cách hồn tồn tự nhiên và hứng thú. Điều này đã được khẳng


định trong thời gian qua thông qua các đợt Hội giảng mà huyện và tỉnh đã tổ chức.
Theo quan niệm của cá nhân tôi, việc đổi mới phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện
nay và cả trong tương lai cần phải kết hợp rất nhiều yếu tố. Trong đó khơng thể khơng có
những yếu tố như: Thầy - Trị - Phương pháp - Cơng nghệ hỗ trợ…
Để đảm bảo được sự đổi mới theo xu hướng hiện đại, việc ứng dụng tốt được công nghệ
thông tin thì ngành giáo dục và đặc biệt là giáo viên cần phải có cái nhìn với sự nhận định
thật nghiêm túc và đúng mực với công nghệ tin học. Chúng ta cần phải làm sao không
quá lạm dụng, phô trương nhưng cũng đừng mắc phải sự tụt hậu một cách bảo thủ.


Trong thời gian gần đây, từ năm học 2005 - 2006 đến nay (2010), bản thân tôi đã sử dụng
nhiều ứng dụng của công nghệ thông tin để áp dụng trong việc đổi mới phương pháp dạy
học. Qua đó, cũng đã thu được những kết quả đáng ghi nhận (học sinh hứng thú hơn, giáo
viên chủ động trong hoạt động gợi mở hơn, bài giảng sinh động hơn, trực quan thì giảm
được chi phí rất nhiều).
Từ những thực tế trên và qua nhận định chủ quan của cá nhân, qua trải nghiệm trên thực
tế, tôi mạnh dạn viết một đề tài nhằm đổi mới phương pháp dạy học phân môn vẽ tranh
thông qua việc áp dụng công nghệ tin học, cụ thể là: “Ứng dụng Công nghệ thông tin
trong việc đổi mới phương pháp dạy học phần Quan sát nhận xét và thực hành của
phân môn vẽ tranh bậc Tiểu học”.
Đề tài này tuy mới được áp dụng thực nghiệm, khi viết thành sáng kiến kinh nghiệm tôi
rất hy vọng nếu thực sự giúp ích thì mong đồng nghiệp cùng tham khảo, nếu vẫn còn
những hạn chế nhất định nào đó thì tác giả cũng mong muốn được các cấp lãnh đạo, đồng
nghiệp bộ môn cùng tháo gỡ để đề tài kinh nghiệm này sẽ trở thành một cẩm nang cho
mỗi giáo viên dạy bộ môn Mỹ thuật ở bậc tiểu học.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Qua thời gian cơng tác và giảng dạy trực tiếp tại trưịng Tiểu học Hồn Long và kiêm
nhiệm công tác nghiệp vụ bộ môn của Phòng Giáo dục huyện Yên Mỹ, với nhiệt huyết
của một giáo viên trẻ, luôn mong muốn lên lớp, đứng trước các em học sinh, truyền đạt
tất cả những kiến thức mà mình có cho các em. Trước những ánh mắt thơ ngây, hồn

nhiên, chăm chú nhìn tơi, tơi tự thấy được vai trị của mình, vai trị của một người thầy
đứng trên bục giảng. Trong mỗi tiết dạy, tôi 1uôn cố gắng làm sao có thể truyền đạt kiến
thức của mình tới các em một cách nhanh nhất, đầy đủ nhất và dễ hiểu nhất.
Vì là một giáo viên trẻ, tơi có nhiều điều kiện để tiếp xúc, nắm bắt, tiếp thu các phương
tiện hiện đại. Với những hiểu biết của mình về máy vi tính, các phần mềm tin học và các
loại máy chiếu hiện đại, tôi thiết nghĩ nếu có thể sử dụng những phương tiện này vào bài
giảng thì sẽ có thể đạt nhiều kết quả tốt. Bởi vì hiện nay trên thị trường, trên mạng
Intemet, trên tivi...có rất nhiểu các loại băng hình, tranh ảnh rất phong phú, nhiều thể loại,
hình thức thể hiện khác nhau, những trào lưu nghệ thuật mới... Nếu như các em học Sinh
được xem, được biết đến thì các em sẽ mở rộng được hiểu biết của mình về nghệ thuật
hội hoạ và làm phong phú thêm trí tưởng tượng, phát huy trí sáng tạo của mình trong suy
nghĩ và vẽ tranh.
Với mục tiêu làm thế nào để đổi mới thực sự về phương pháp dạy học Mỹ thuật trong
trường phổ thơng nói chung và trong trường tiểu học nói riêng. Đặc biệt là làm thế nào để


giáo viên Mỹ thuật không phải quá vất vả trong việc chuẩn bị đồ dùng dạy học, phương
tiện dạy học.
Với mục đích giúp học sinh hình thành khái niệm mỹ thuật, khái niệm về bố cục, mầu
sắc, hình mảng, tình cảm thẩm mỹ cho học sinh, đặc biệt giúp học sinh hình thành kiến
thức về ngơn ngữ tạo hình, cụ thể là ngôn ngữ hội hoạ một cách đơn giản và hiệu quả.
Tạo nên một quan niệm Dạy - Học mới dựa trên mơ hình cơng nghệ thơng tin hố, hiện
đại hoá bài giảng. Tạo ra bước đột phá về áp dụng kỹ thuật hiện đại trong dạy học.
Tạo một thói quen tự tìm tịi sáng tạo và tự học tập, tự nghiên cứu về công nghệ thông tin
để phục vụ cho việc Dạy - Học theo phương pháp mới.
Giáo viên biết tận dụng nền kỹ thuật tiên tiến và phương tiện hiện đại để đổi mới cách
dạy của mình và của ngành.
3. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU:
Trong đề tài này tôi xác định một số đối tượng cụ thể để nghiên cứu và thực hiện sáng
kiến này. Cụ thể là các đối tượng chính sau:

- Đối tượng học: tồn bộ học sinh các khối lớp từ khối 1 đến khối 5.
- Phân môn để nghiên cứu cụ thể là Vẽ tranh theo đề tài.
- Nội dung cần áp dụng: gồm hai phần chính trong hoạt động dạy của giáo viên đó là
phần Quan sát nhận xét và phần Hướng dẫn thực hành.
- Thực trạng học sinh trong quá trình tiếp nhận kiến thức thông qua vận dụng công nghệ
hiện đại trong học tập.
- Các phần mềm tin học ứng dụng trong soạn, giảng đối với phân môn và bộ môn.
- Phương tiện, thiết bị hiện đại tham gia vào quá trình Dạy - Học phần quan sát và thực
hành của phân mơn Vẽ tranh.
* Trong q trình nghiên cứu sáng kiến này tôi tập trung vào những đối tượng tiên quyết
của đề tài đó là: Học sinh tiểu học; Thiết bị công nghệ thông tin như: máy chiếu đa năng
Projecter, đầu đĩa VCD, tivi màn ảnh lớn, máy chiếu vật thể…; Phần mềm tin học hỗ trợ
như: phần mềm PowerPoint, phần mềm ProShowGold, Ulead VideoStudio 10
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
Để nghiên cứu và thực hiện thành công đề tài này chúng ta cần nghiên cứu một số nhiệm
vụ cụ thể dưới đây trong khi vận dụng công nghệ thông tin vào bài giảng:
+ Phương pháp chuẩn bị cần thiết cho mỗi bài giảng.


+ Phương pháp hướng dẫn học sinh quan sát và nhận xét tranh.
+ Phương pháp hướng dẫn học sinh thực hành.
Với 3 vụ này, chúng ta đã tiến hành những phần quan trọng nhất trong bài dạy vẽ tranh
đối với bậc tiểu học. Ở đây tôi chỉ tập trung vào việc áp dụng công nghệ thông tin trong
khi thực hiện các nhiệm vụ trên.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Nghiên cứu các ứng dụng phần mềm tin học hiện có trên thị trường để có thể sử dụng
tốt trong q trình thiết kế bài giảng, thiết kế trực quan quan sát và thiết kế hiệu ứng
Video.
- Khảo sát đối tượng học sinh trong bậc Tiểu học khi đón nhận bài giảng có sử dụng một
số phương tiện, kỹ thuật trong bài giảng để từ đó có thể có những chuẩn bị phù hợp khi

xử lý tình huống sư phạm.
- Xây dựng hai nội dung chính (Quan sát nhận xét và Thực hành) của phần giảng lý
thuyết đối với phân môn vẽ tranh để tiến hành trình diễn khi truyền thụ nội dung kiến
thức của hai phần đó.
- Thực hiện bài dạy có sử dụng cơng nghệ thơng tin vào hai nội dung chính theo dự kiến
và tiến hành một cách chủ động, có kế hoạch. Mặc dù đã thiết kế sẵn nhưng khi triển khai
các nội dung có ứng dụng cơng nghệ thơng tin thì giáo viên cần phải lưu ý tới khâu chuẩn
bị, khâu trình diễn, hết sức lưu ý để hạn chế tối đa những sự cố không đáng có khi tiến
hành nội dung bài giảng.
6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Đây là một mảng đề tài rất mới, tơi có tham vọng nghiên cứu trên phạm vi rộng ở nhiều
đối tượng khác nhau, nhưng do đây là những lần đầu viết và vận dụng đề tài nên tôi chỉ
tập trung nghiên cứu trên đối tượng học sinh tại trường tôi giảng dạy. Ngồi ra tơi thử
nghiệm trên một số đối tượng ở một vài trường khác trong huyện Yên Mỹ và Thành phố
Hưng Yên. Trong thời gian tới tôi tiếp tục hoàn thiện đề tài và tiếp tục sẽ mở rộng phạm
vi nghiên cứu (mở rộng cả đối tượng học sinh và phân môn khác của bộ môn như phân
môn vẽ theo mẫu, vẽ trang trí, thường thức mỹ thuật).
Với phạm vi nghiên cứu như hiện nay tôi cũng đã sử dụng hầu hết các phương pháp
truyền thống kết hợp trong các bước dạy học bằng giáo án điện tử và đồ dùng điện tử.
Riêng phân môn Vẽ tranh tại trường tôi, tôi đã sử dụng nhiều bài giảng trên nhiều khối
lớp khác nhau để thực nghiệm và rút kinh nghiệm trong việc thiết kế bài giảng và đồ
dùng điện tử.


7. DỰ KIẾN KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU:
Đề tài này đã được hình thành trên cơ sở ý tưởng từ năm học 2005 - 2006, từ đó tơi đã
tìm hiểu nhiều phần mềm tin học có thể hỗ trợ tốt cho việc soạn giảng các bài dạy của bộ
môn Mỹ thuật. Và cũng từ thời gian này kế hoạch cụ thể đã được hình thành và những
phiên bản giáo án đầu tiên được thực hiện trên máy tính cá nhân và cũng mới chỉ mang
hình thức thử nghiệm của bản thân để tham khảo và khắc phục những hạn chế. Và cũng

năm học 2005- 2006 giáo án điện tử đầu tiên được sử dụng trong hai đợt hội giảng cấp
trường do tôi trực tiếp dạy (nhưng mới chỉ chuyển định dạng sang VCD và sử dụng trên
hệ thống đầu đĩa và ti vi, do lúc này chưa có đủ thiết bị và máy móc). Cuối năm học này
tại Hội giảng giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh bậc tiểu học của môn Mỹ thuật, giáo án này lần
đầu tiên được sử dụng trực tiếp trên máy chiếu đa năng (Projecter) và máy vi tính.
Ngay từ đầu năm học này (2006 - 2007) tôi tiếp tục dành thời gian và tâm huyết vào việc
nghiên cứu để tạo được những bài giảng điện tử thật trực quan và dễ sử dụng đối với giáo
viên chưa biết nhiều về tin học cũng như những thiết bị máy móc hiện đại.
Bên cạnh đó, tơi vẫn tiếp tục hồn thiện những bộ đĩa VCD có thể cho trình chiếu trực
tiếp trên các thiết bị dân dụng (đầu đĩa video và ti vi) để những địa phương và giáo viên
chưa có điều kiện sử dụng máy vi tính và máy chiếu đa năng vẫn có thể áp dụng được.
Hết năm học này, tôi dự kiến sáng kiến kinh nghiệm này tiếp tục được vận dụng trong
các tiết dạy tại trường tôi và khắc phục những vướng mắc nhỏ trong việc thao tác máy,
thể hiện đồ dùng động thông qua mơ hình thư viện đồ dùng điện tử, và đặc biệt mở rộng
và cập nhật thêm nhiều bộ đồ dùng điện tử để giáo viên có thể sử dụng dạy trong nhiều
bài khác nhau.


PHẦN II - GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG GIẢNG DẠY
PHẦN QUAN SÁT NHẬN XÉT VÀ THỰC HÀNH
CỦA PHÂN MÔN VẼ TRANH
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.
Môn Mỹ thuật trong trường Tiểu học là môn học nghệ thuật nhằm định hướng cho các
em vể cái đẹp trong hội hoạ, giúp các em phát triển tồn diện: Đức - Trí - Thể - Mỹ. Giúp
các em biết phân biệt cái đẹp và cảm nhận được cái đẹp của hội hoạ. Các bước lên lớp
trong một tiết dạy của bộ môn Mỹ thuật hiện nay chủ yếu gồm hai phần:
+ Phần bài giảng của giáo viên.
+ Phần thực hành của học Sinh.
Đối Với các bài: Vẽ theo mẫu, trang trí, vẽ tranh đề tài, để học sinh hiểu bài và vẽ tốt,

làm được bài, phần bài giảng của giáo viên rẩt quan trọng. Một tiết dạy có 35-40 phút, 20
- 25 phút là thời gian dành cho các em học sinh thực hành, như vậy thời gian giảng bài
của giáo viên chỉ còn khoảng 15 phút.
Hệ thống của một bài giảng chủ yếu gồm 3 phần chính:
+ Phần Quan Sát nhận xét (tìm hiểu bài).
+ Phần hướng dẫn cách vẽ.
+ Phần thực hành của học sinh.
Phân quan sát nhận xét mục đích nhằm cho các em quan sát tranh ảnh, tìm hiểu nội dung
bài, tạo ra xúc cảm nghệ thuật cho các em, từ đó các em hiểu bài, biết được với nội dung
này phải vẽ thế nào mới là đúng, là đẹp, thế nào là chưa đẹp. Sau khi các em hiểu bài, yêu
thích nội dung và lựa chọn được nội dung như ý thì mới sang phẩn tìm hiểu cách thể hiện
(cách vẽ).
Như vậy phần Quan sát nhận xét giữ một vai trò quan trọng trong phần bài giảng. Các em
có làm được bài hay khơng, có hứng thú với tiết học hay khơng là phụ thuộc phẩn lớn vào
phần Quan sát nhận xét. Trong phần này giáo viên sẽ cho các em xem tranh và đặt ra các
câu hỏi để các em nhận xét như: Bức tranh này đẹp hay xấu? Đẹp ở chỗ nào? Hoạ tiết ra
sao ? Bố cục thế nào ? Màu sắc có hài hồ khơng ?... nhằm giúp các em tự phân biệt được
cái đẹp và có cảm xúc nghệ thuật, thích thú bài học. Từ trước đến nay giáo viên Mỹ thuật


phải dán từng bức tranh lên bảng cho các em học sinh quan sát và nhận xét. Làm như
vậy:
- Giáo viên sẽ mất nhiều thời gian để đính tranh lên bảng (bằng nam châm hay băng dính)
mà thời gian của phần này chỉ từ 5 đến 7 phút trong 15 phút giảng bài.
- Giáo viên chỉ đính được một số lượng bài nhất định vì giới hạn bảng khơng cho phép
đính quá nhiều (chỉ từ 10 đến 15 bài) và nếu đính nhiều sẽ mất nhiều thời gian, khơng đủ
thời gian để các em phân tích, làm các em đợi lâu mất dần hứmg thú đầu giờ học.
- Với tranh của hoạ sĩ - thường được in trong các tập tranh, tranh nhỏ, khó nhìn, sách dày
và nặng vừa gây khó khăn cho giáo viên, vừa khơng đảm bảo tính trực quan.
- Dữ liệu của giáo viên bị hạn chế, bó gọn trong các cuốn sách và bài vẽ của học sinh.

Trong thời đại ngày nay, qua thông tin đại chúng, truyền hình, mạng Intemet, có rất nhiều
tư liệu q giá, có thể là tranh, ảnh, thậm chí băng hình Video. Nếu như được sử dụng
trong tiết dạy sẽ làm cho bài giảng phong phú, thu hút các em, giúp các em phát triển,
hiểu biết, liên hệ giữa thực tế với bài học.
- Tranh đồ dùng dạy học tuy có to, rõ, in đẹp nhưng số lượng lại quá ít, mỗi bài là một tờ,
trong đó chỉ có vài ba hình. Chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu giảng dạy của giáo viên
và quan sát của các em.
- Nếu như in ra giấy thì phải mang ra hàng Scan hoặc phải tìm kiếm trên mạng intemet
hay phải mua các đĩa thư viện điện tử ở các cửa hàng phần mềm, chọn lựa những bức cần
thiết rồi đi in mầu, giá in mầu khổ lớn từ 50.000 đến 140.000 một bản, như vậy rất tốn
kém. Với 35 bài trong phân phối chương trình thì khơng thể thực hiện được việc in màu.
- Nếu như sử dụng máy chiếu hắt để chiếu phim trong thì in màu ra phim cũng rất tốn
kém, hiệu quả khi chiếu lên khơng được hồn thiện như thật, ngồi ra, máy chiếu hắt lại
to, kính chiếu nhơ lên làm cản trở tầm nhìn của người xem.
* Vậy vấn đề đặt ra là cần có một phương tiện có thể đưa ra nhiều tranh cho học sinh
quan sát và nhận xét trong thời gian nhanh nhất, (thậm chí có thể chiếu được các hình ảnh
có liên quan đến bài giảng) to , rõ ràng, đảm bảo tính trực quan, gợi xúc cảm nghệ thuật
cho các em, giúp các liên hệ giữa thực tiễn cuộc sống với bài giảng để các em làm bài đạt
kết quả tốt nhất.
II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
Từ khi tôi nhận công tác về trường Tiểu học Hoàn Long (năm 2000). Sau khi ra trường
tơi đã tự trang bị cho mình một vốn kiến thức về công nghệ thông tin (2 năm tự nghiên
cứu và tự học tập: năm 1998 - 2000). Khi nhận nhiệm vụ nhà trường phân công giảng dạy
bộ mơn Mỹ thuật tơi đã hình dung trong đầu để đưa những kiến thức tôi tự học về công


nghệ thông tin vào giảng dạy bộ môn. Nhưng trong lúc đó, việc trang bị máy vi tính và
máy chiếu quả thực là điều chưa thể thực hiện được.
Đến năm học 2004 - 2005, tôi đã mạnh dạn tự nghiên cứu một phần mềm để chuyển thư
viện ảnh mà tôi sưu tầm được qua các kênh thông tin khác nhau thành các đĩa VCD để có

thể chạy trên đầu đĩa và ti vi dân dụng được. Ngay từ những sản phẩm đầu tay đã được
tôi áp dụng khi lãnh đạo Phòng Giáo dục giao nhiệm vụ thiết kế bài dạy của một giáo
viên của huyện tham dự Hội giảng giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh. Và cũng qua đợt thi đó mà
sáng kiến này của tơi thực sự đã được khẳng định có hiệu quả khi mà giáo viên đó (Lưu
Thị Nhữ - trường Tiểu học Yên Phú II) đã đạt giải Nhì của tỉnh và được hội đồng giám
khảo đánh giá rất cao về sáng kiến vận dụng thiết bị công nghệ vào dạy học Mỹ thuật.
Năm học 2006 - 2007 tôi đã viết một sáng kiến kinh nghiệm để đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin vào dạy Mỹ thuật cho học sinh tiểu học, trong sáng kiến này tôi đã đề cập
tới việc sử dụng thiết bị công nghệ thông tin vào dạy học của phân môn Vẽ tranh.
Hiện nay, tôi vẫn tiếp tục nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm này để mở rộng sang nhiều
phân môn khác của bộ môn Mỹ thuật. Đặc biệt, tôi đã ấp ủ nội dung để có thể vận dụng
cho đa môn, đa cấp học.
III. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY VÀ HỌC PHÂN MƠN VẼ TRANH.
1. Những vấn đề khó, mới:
Hiện nay, 100% các trường đã có máy chiếu đa năng: máy chiếu Prorector, và một số
trường trang bị máy chiếu vật thể (là một camera dùng để chiếu những vật hình khối).
Đây là những thiết bị chiếu hình ảnh và vật thể hiện đại nhất hiện nay. Nếu có những
thiết bị này thì coi như chúng ta đã tìm được một giải pháp tốt cho việc dạy môn Mỹ
thuật ở trường Tiểu học.
Tuy nhiên, vấn đề tơi muốn nói ở đây là hiệu xuất sử dụng của nó. Để trang bị một máy
Projector đã khá là tốn kém, không phải trường nào cũng có thể tự trang bị được. Khơng
những thế, đi kèm với nó là rất nhiều thứ như:
- Một phòng chức năng với điều kiện ánh sáng phù họp. Với những trường khơng có
phịng chức năng thì giáo viên phải bê máy lên lóp mỗi tiết dạy, đó cũng là một vấn đề.
- Một bộ máy máy vi tính nối với máy chiếu. Nếu khơng có phịng chức năng, giáo viên
phải bê cả bộ máy vi tính theo máy chiếu đây cũng là một việc chẳng dễ dàng gì đối với
mỗi giáo viên.
- Để đưa tư liệu đã chuẩn bị đến trường, giáo viên phải có USB Flash hoặc thẻ nhớ.



- Để thao tác được máy tính từ cơng tác chuẩn bị đến lúc lên lớp như vậy, đa số các giáo
viên nhiều tuổi khó có thể làm được.
Như vậy, mỗi lần sử dụng máy chiếu đều dẫn đến tâm lí ngại vì phức tạp và mẩt thời gian
của giáo viên. Từ đó dẫn tới hiệu quả sử dụng khơng cao, để thiết bị lãng phí khi khơng
sử dụng đến nó…
2. Nguyên nhân của tồn tại và đề xuất giải pháp:
- Nguyên nhân:
Đối với giáo viên: Có thể một bộ phận giáo viên chưa tự chủ trong việc tự học, tự nghiên
cứu về cơng nghệ thơng tin để có thể vận dụng vào dạy học một cách có hiệu quả. Một số
giáo viên khác thì vẫn dừng ở việc ứng dụng mang hình thức, phơ trương mà chưa tập
trung cao vào việc mở rộng phạm vi ứng dụng cho nhiều đối tượng học sinh, nhiều phân
môn khác nhau. Mặt khác, có một số ít giáo viên đồng nghiệp và cán bộ quản lý chưa ủng
hộ cao để có thể áp dụng rộng rãi cho tất cả các môn học.
Đối với nhà quản lý giáo dục: Cho tới nay, việc trang bị những thiết bị công nghệ hiện
đại cho các trường học vẫn còn ở mức tối thiểu nên triển khai rộng sẽ gặp khó khăn, ví dụ
trong một đợt hội giảng hoặc trong một buổi học nếu như hiện nay mới chỉ có 1 bộ máy
tính và máy chiếu đa năng thì chưa thể đáp ứng 2 tiết dạy cùng một lúc. Chính vì vậy mà
giáo viên vẫn cịn ngại vì phải nhường nhau và bất tiện khi phải vận chuyển qua lại giữa
các lớp học.
- Đề xuất hướng giải pháp thực hiện:
Để phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất của các trường, để mọi người đều sử dụng dễ
dàng và vẫn đảm bảo tính trực quan, khoa học, hiện đại, tôi đã đi đến một hướng giải
quyết trước mắt như sau:
Tạo các đĩa Video CD cho các bài vẽ tranh đề tài của từng khối lớp. Mỗi một đĩa Video
CD có cấu trúc bài tương ứng như bên dưới:
Đĩa lớp 1:
+ Track 1 : Bài thứ nhất trong phân phối chương trình.
+ Track 2 : Bài thứ hai trong phân phối chương trình.
+ Track 3 : Bài thứ ba trong phân phối chương trình.


+ Track n : Bài thứ n trong phân phối chương trình.


Tương tự như vậy tôi tạo các Video CD cho các lớp cịn lại (2,3,4,5) và chúng ta sẽ có bộ
đĩa hoàn chỉnh cho cả bậc Tiểu học.
Như vậy, khi mà nhà quản lý giáo dục chưa trang bị được cho các đơn vị trường học đầy
đủ thiết bị thì chúng ta sẽ tận dụng những thiết bị khác như đầu đĩa VCD và ti vi dân
dụng để tiến hành trình chiếu các đĩa chúng ta xây dựng trước cho các nội dung cần thiết.
IV. NHỮNG KINH NGHIỆM, BIỆN PHÁP THỰC HIỆN.
1. SỬ DỤNG ĐĨA VCD TRONG PHẦN QUAN SÁT NHẬN XÉT.
a). Chuẩn bị dữ liệu (tranh ảnh tƣ liệu):
Để có thể giải quyết các vấn đề đã nêu ở trên, giáo viên cần Scan hoặc chụp ảnh lại các
hình ảnh vào máy vi tính hay mua sẵn các đĩa CD thư viện ảnh và sử dụng các phần mềm
có khả năng trình diễn để chiếu tranh, ảnh, băng hình lên (Phần mềm ProShowGold,
ACD see, Powerpoint…)
- Phương pháp Scan ảnh: Nếu nhà trường đã trang bị được một máy Scan phổ thơng thì
giáo viên hồn tồn có thể sử dụng một số phần mềm đồ hoạ hoặc chính phần mềm kèm
theo máy Scan để quét ảnh tư liệu đưa vào máy.
Nếu nhà trường chưa trang bị được máy Scan thì giáo viên có thể liên hệ với một số cửa
hàng chụp ảnh kỹ thuật số hoặc cửa hàng in ấn, quảng cáo để họ sẽ tiến hành quét và lưu
thành file ảnh (*.jpg, *.png, *.gif…). Từ các file này chúng ta có thể tiến hành làm thành
các VCD để sử dụng trong bài giảng.
- Phương pháp chụp ảnh những tư liệu: Hiện nay trên thị trường đã rất phổ biến các loại
máy ảnh kỹ thuật số nhỏ gọn nhưng rất tốt cho việc chụp hình tư liệu. Nếu chúng ta
khơng tự trang bị được thì cũng có thể sử dụng một số máy điện thoại di động đời cao có
chức năng chụp hình của đồng nghiệp để chụp lại ảnh.
Khi chụp ảnh tư liệu giáo viên cần chú ý tới một số chức năng của các máy ảnh (kể cả
máy ảnh trên điện thoại di động) như chức năng chụp cận cảnh để được chất lượng hình
ảnh tốt nhất (chức năng chụp Macro).
Nếu đã chụp được đủ tư liệu thì chúng ta cần kết nối máy ảnh với máy tính thơng qua

cáp tín hiệu đi kèm thiết bị, hoặc tháo thẻ nhớ của thiết bị chụp hình ra và đưa vào đầu
đọc thẻ nhớ trên máy vi tính để có thể đưa toàn bộ nội dung ảnh đã chụp vào kho dữ liệu
trên máy vi tính.
* Lưu ý khi tập hợp ảnh tư liệu: Việc tập hợp ảnh tư liệu tuy là công việc nhỏ nhưng nếu
giáo viên chú tâm tới vấn đề này thì việc sử dụng sau đó sẽ rất thuận tiện và khoa học.
Chúng ta cần lưu ý như sau: khi lưu ảnh trên máy vi tính cần phân loại theo từng loại tư


liệu khác nhau, mỗi loại được đặt trong một thư mục (Folder) riêng, trong mỗi loại cần
đặt tên file ảnh rõ ràng để tìm kiếm và sử dụng nó hiệu quả nhất.
b). Thiết kế trình diễn ảnh tƣ liệu phục vụ bài giảng:
Để trình diễn hình ảnh một cách sinh động, có chú thích, âm thanh, ta có thể sử dụng
phần mềm PowerPoint, ProShowGold ... Đây là những phần mềm thơng minh, dễ sử
dụng, tiện ích cho việc thuyết trình, giảng bài.
- PowerPoint là một phần mềm phổ dụng nhất hiện nay, phần mềm này nằm trong bộ
MicroSoft Office. Đây là phần mềm được rất nhiều giáo viên sử dụng làm cơng cụ trình
chiếu bài giảng điện tử của mình. Công cụ này rất dễ sử dụng và thân thiện, nhiều hiệu
ứng đẹp mắt và có giao diện đồ hoạ sinh động.
Khi thiết kế trên phần mềm PowerPoint giáo viên cần lưu ý tới hệ thống hiệu ứng thiết
lập sẵn của phần mềm để thiết kế thứ tự xuất hiện trên màn hình khi trình chiếu bài giảng.
Bên cạnh đó cũng cần lưu ý tới chức năng xuất thành file VCD để có thể ghi ra đĩa để
chạy trên đầu VCD dân dụng và ti vi.
- ProShowGold là phần mềm phổ thông, đơn giản, mà hầu hết các máy vi tính thường
được cài đặt. Phần mềm này cho phép ta tạo được một VCD ảnh từ những file ảnh đã sưu
tầm được. Ngoài ra phần mềm cũng cho phép lồng ghép xen kẽ cả hình ảnh, video, chữ,
âm thanh... và khống chế được thời gian trình chiếu, đảm bảo đúng quy trình bài giảng.
Khi sử dụng phần mềm này giáo viên chú ý tới các chức năng mà phần mềm hỗ trợ như:
chức năng chèn ảnh để tạo vi deo, chức năng chèn chữ vào mỗi đoạn video, chức năng
chèn âm thanh (nhạc nền, lời thoại…) vào đoạn video, và chức năng chèn luôn cả một
đoạn video khác vào video đang thiết kế… Đây là phần mềm rất dễ sử dụng, giáo viên

thao tác đơn giản bằng những thao tác phổ biến như kéo và thả hoặc lựa chọn trong danh
sách.
c). Ghi sản phẩm đã thiết kế hoàn thiện ra đĩa VCD để sử dụng:
Sau khi hoàn thiện sản phẩm là những đoạn video, những file trình chiếu thì cũng là lúc
chúng ta có thể ghi ra đĩa theo từng khối lớp. Mỗi lớp một bộ đĩa. Trong mỗi đĩa, số bài
trên đĩa (Track) tương ứng với số bài học trong phân phối chương trình.
Trong mỗi bài, hình ảnh sẽ tương ứng với tiến trình bài giảng. Ví dụ:
* Với bài vẽ tranh đề tài: Các hình ảnh liên quan đến đề tài là ảnh chụp, tranh của hoạ sĩ,
tranh của học sinh..lần lượt xuất hiện. Tiếp sau là lần lưọt các bước vẽ.


* Với bài Vẽ trang trí: đầu tiên là các ứng dụng trang trí của bài học với cuộc sống,
những bài trang trí đẹp của các bạn khố trước, và các bước vẽ trang trí. Những lỗi sai
nên tránh trong trang trí như hoạ tiết giống nhau mà tơ màu khác nhau, rời rạc,. ..
* Với bài Vẽ theo mẫu: Các bố cục tốt và chưa tốt, các bước vẽ hình,...
* Các bài Thường thức mỹ thuật thì cẩn rẩt nhiều tranh ảnh.
Trong khi trình chiếu, nếu giáo viên muốn dừng lại ở một bức tranh nào đó để phân tích
chỉ việc nhấn "PauSe". Phân tích xong nhấn "Play" để tiếp tục trình diễn.
- Sử dụng chương trình chuyên phục vụ chức năng ghi thành đĩa Video để có thể sử dụng
trên đầu đĩa dân dụng được. Đó là phần mềm Nero, hiện nay phần mềm này đã được
đông đảo người sử dụng máy vi tính tin dùng. Phần mềm này hỗ trợ rất nhiều chức năng
ghi như có thể ghi ra đĩa VCD, DVD, CD và thậm chí chỉ ghi thành Data để lưu trữ và sử
dụng khi cần thiết…
Khi dùng chương trình này giáo viên cần lưu ý tới chức năng ghi đĩa VCD từ File video
đã thiết kế bằng các phần mềm tạo video từ các ảnh tư liệu. Ở chức năng này chương
trình cho phép chèn các file video gốc (có định dạng *.avi, *.mpg, *.wmv…) để tạo thành
đĩa VCD có thể trình chiếu trên đầu đĩa VCD dân dụng hoặc trên máy vi tính.
Như vậy, bất kỳ một giáo viên nào cũng có thể thực hiện được bài giảng một cách dễ
dàng khi mà hiện nay tất cả các trường Tiểu học đều có Tivi 29 in và đầu đọc đĩa VCD.
d). Sử dụng sản phẩm đĩa VCD đã tạo để tiến hành dạy học phần Quan sát nhận xét

và phần Hƣớng dẫn thực hành:
Sau khi hoàn thành các đĩa VCD theo nội dung đã nêu. Giáo viên sẽ tiến hành sử dụng
các sản phẩm đó vào việc giảng bài, cụ thể ở đây là áp dụng vào 2 phần nội dung: Hướng
dẫn quan sát nhận xét, Hướng dẫn thực hành. Khi tiến hành bài dạy, giáo viên cần chuẩn
bị một bộ đầu đĩa VCD và ti vi màn rộng (khoảng 29 in là đủ).
Phần nội dung Hướng dẫn quan sát nhận xét là phần khá quan trọng trong tiến trình dạy
học phân mơn Vẽ tranh. Đây cũng là nội dung mà giáo viên thao tác nhiều, hướng dẫn
nhiều nhất trong tiến trình hình thành kiến thức, hình thành cảm xúc thẩm mỹ để các em
thể hiện đề tài của tranh. Thông thường nếu giáo viên sử dụng phương pháp truyền thống
thì phải chuẩn bị rất nhiều tranh, treo rất nhiều lần, thao tác trên bảng khá tốn thời gian
nhưng hiệu quả thì lại khơng cao cho lắm.
Với sự hỗ trợ của bộ đĩa VCD, giáo viên sẽ tiến hành trình chiếu trên đầu đĩa và ti vi
thơng thường, tồn bộ nội dung tranh minh hoạ chúng ta đã chuẩn bị thành Video và giáo
viên chỉ việc cho phát hình theo trình tự đã thiết kế. Trong q trình minh hoạ, giáo viên
hồn tồn có thể cho dừng hình bằng lệnh Pause trên đầu đĩa hoặc qua điều khiển từ xa


của đầu đĩa. Sau khi phân tích và khắc sâu nội dung giáo viên lại tiếp tục trình chiếu bằng
lệnh Play.
Như vậy, nếu giáo viên đã chuẩn bị tốt nội dung minh hoạ trên VCD và tổ chức đĩa như
đã nêu ra ở phần trước thì giáo viên hồn tồn chủ động thực hiện bài dạy của mình thơng
qua các File Video trên đĩa VCD. Việc sử dụng phương pháp này đã tận dụng được tối đa
thiết bị công nghệ mà các đơn vị nhà trường đang có sẵn, giảm được sự chờ đợi không
cần thiết khi mà hệ thống máy chiếu đa năng chưa được trang bị nhiều cho các nhà
trường. Mặt khác, nếu chúng ta đã có bộ máy tính và máy chiếu đa năng thì vẫn sử dụng
các đĩa VCD này bình thường như sử dụng qua đầu đĩa.
2. SỬ DỤNG MÁY CHIẾU ĐA NĂNG VÀ MÁY CHIẾU VẬT THỂ TRONG
PHẦN THỰC HÀNH.
a). Chuẩn bị phƣơng tiện và thiết bị:
Để các em kịp thời rút kinh nghiệm trong phần thực hành, tránh những lỗi sai và kịp thời

tiếp thu cái đẹp ngay trong lúc làm bài, tôi đã chọn những bài tốt và chưa tốt, đưa vào
máy chiếu, lập tức bức tranh của em học sinh đó đã được phóng lớn trên màn hình. Như
vậy, cả lớp nhìn rõ và cùng giáo viên phân tích những ưu điểm, khuyết điểm để học sinh
rút kinh nghiệm ngay trong lúc làm bài.
Cũng như phần trên đã nêu, máy chiếu vật thể có những nhược điểm của nó. Nhược điểm
đầu tiên là giá một chiếc máy như vậy khá đắt nên các trường học khó có điều kiện để tự
trang bị hoạt động dạy và học. Hiện nay, toàn huyện n Mỹ cũng chỉ mới có một số ít
trường trang bị được hệ thống máy chiếu vật thể này.
Từ thực tế khó khăn về giá cả nên tơi đã tự nghiên cứu và tận dụng nền công nghệ thông
tin hiện tại để tự chế ra được một hệ thống chiếu vật thể tương tự như bộ máy chiếu vật
thể có trên thị trường. Bản chất của máy chiếu vật thể thực ra chỉ là một máy chiếu đa
năng có gắn kèm một camera bình thường. Camera này có nhiệm vụ quay hình ảnh trước
ống kính của nó và gửi tín hiệu cho máy chiếu, từ đó chúng ta nhận được hình ảnh trên
màn chiếu.
Như vậy, xét từ bản chất trên, khi chúng ta đã có bộ máy tính và máy chiếu đa năng rồi
thì việc tạo ra một máy chiếu vật thể là hết sức đơn giản. Ta cần trang bị thêm một
Camera thông thường dạng WebCam đang được bán trên thị trường tin học rất phổ biến.
Các loại camera nhỏ này được bán khá nhiều với giá chỉ vài trăm nghìn đồng (khoảng từ
100.000 đến 500.000 đ/chiếc) ở các cửa hàng điện tử hay cửa hàng tin học.
Khi đã trang bị được Camera rồi chúng ta tiến hành cài đặt vào máy vi tính và thực hiện
một số thao tác đặt, và sắp xếp hợp lý để có thể quay được hình ảnh các bài thực hành


của học sinh là máy tính và máy chiếu sẽ nhận được hình ảnh đó. Ngay lập tức, trên màn
hình máy chiếu sẽ xuất hiện hình ảnh của camera đang ghi hình ảnh bài thực hành của
học sinh. Như vậy, giáo viên và học sinh sẽ cùng nhận xét và phân tích bài kết quả thực
hành của học sinh trực tiếp khi các em đang làm bài.
Cũng chiếc Camera này, nếu trường học chưa trang bị được máy chiếu đa năng và máy vi
tính, thì giáo viên cũng hồn tồn có thể kết nối tới tivi hoặc đầu đĩa để thực hiện thao tác
chiếu vật thể tương tự như kết nối tới máy vi tính và máy chiếu đa năng.

* Lưu ý khi trang bị thiết bị Camera để chế thành máy chiếu vật thể: Khi mua thiết bị này
chúng ta cần lưu ý một số thông số kỹ thuật sau:
- Độ phân giải của Camera (độ nét của hình ảnh khi quay hình), nếu chúng ta lựa chọn độ
phân giải càng cao thì chất lượng hình ảnh càng trung thực, đồng thời để đổi lại chất
lượng tốt thì chúng ta cũng cần phải bỏ số kinh phí tương ứng với chất lượng. Thông
thường độ phân giải được biểu thị bằng con số Pixel (1.3 M pixel - 3,4,5 M pixel…).
- Giao tiếp của thiết bị Camera với các thiết bị trình chiếu hiện có, nếu chọn được
Camera có nhiều hỗ trợ giao tiếp thì chúng ta càng tiện dụng khi sử dụng chúng để kết
nối với thiết bị trình chiếu. Một số loại Camera có cổng kết nối là giao tiếp USB, COM,
SVIDEO, AV… khi mua chúng ta cũng rất cần lưu tâm đến những thông số này.
- Ống kính của Camera có hỗ trợ phóng to, thu nhỏ hay khơng. Vì nếu có chức năng này
thì khi chiếu hình ảnh giáo viên có thể phóng to những vị trí cần thiết trên bài vẽ của học
sinh để các em tiện quan sát và phân tích.
- Cuối cùng là chúng ta nên chọn các sản phẩm có tên tuổi của các hãng đã có uy tín trên
thị trường, khơng nên chọn các sản phẩm khơng có thương hiệu hoặc no name (khơng rõ
nguồn gốc, xuất xứ). Vì nếu chúng ta chọn khơng đúng, rất có thể chúng ta sẽ gặp rủi ro
trong quá trình sử dụng thiết bị.
b). Phƣơng pháp thực hiện:
+ Cải tiến thiết bị để tạo thành máy chiếu vật thể:
- Thực hiện kết nối Camera với máy tính và ti vi:
Ta thực hiện kết nối thơng qua cổng kết nối mà thiết bị hỗ trợ. Nếu kết nối với máy vi
tính, cần lưu ý cài driver (trình điều khiển kèm theo thiết bị), cũng có thể khơng cần cài
đặt do thiết bị đã hỗ trợ. Cịn kết nối tới ti vi thì thiết bị cần có cồng AV hoặc SVIDEO.
Khi đó, chúng ta cần cắm các Jắc tương ứng giữa Camera vào cổng kết nối trên ti vi là có
thể thực hiện chiếu hình được ngay.


Khi kết nối cần lưu ý, nếu Camera có nguồn điện riêng thì cần cung cấp nguồn cho thiết
bị, nếu thiết bị sử dụng nguồn sẵn có của máy vi tính (thường chỉ có loại giao tiếp USB)
thì chúng ta không cần cấp điện nguồn cho thiết bị nữa.

- Thiết kế giá đỡ và mặt phẳng để đặt bài vẽ của học sinh cho Camera quay hình các bài
đó:
Giáo viên có thể sử dụng một khung nhơm hoặc một khung gỗ, gắn Camera lên phần trên
của khung và cho Camera quay ống kính hướng vng góc xuống dưới mặt sàn, lưu ý
khoảng cách hợp lý để khi chiếu bài thì Camera sẽ quay được tồn bộ hình ảnh bài vẽ của
học sinh.
Phía mặt sàn bên dưới cần tạo một mặt phẳng để làm giá đặt các bài cần trình chiếu. Mặt
phẳng này cần có khoảng cách thích hợp với ống kính Camera đã lắp đặt phía trên.
c). Thực hiện phần hƣớng dẫn thực hành bằng máy chiếu vật thể.
Trong lúc học sinh thực hành, giáo viên thực hiện chiếu hình bài thực hành của học sinh.
Khi cần thiết rút kinh nghiệm, phân tích ưu điểm, nhược điểm giáo viên sẽ lựa chọn một
số bài cần thiết của học sinh để tiến hành chiếu bài lên màn hình máy chiếu hoặc ti vi dân
dụng.
Phương pháp chiếu hình: Đặt bài vẽ của học sinh lên mặt phẳng dưới của khung tự chế
Camera chiếu vật thể. Khi đặt bài vẽ trước Camera cần chú ý tới chiều của bài vẽ để hình
ảnh hiển thị trên màn hình khơng bị ngược, khơng bị nghiêng và không bị nhoè, mờ.
Với giải pháp này, chúng ta sẽ thực hiện chiếu một bài vẽ một lên màn hình. Nhưng nếu
do yêu cầu của giáo viên và của nội dung bài dạy mà chúng ta cần chiếu nhiều hơn một
tranh thì cần phải cải tiến thêm một trục đứng để định vị khoảng cách của Camera tới bài
vẽ. Trục này có thể nâng lên cao và hạ xuống thấp một cách rõ ràng để giáo viên thao tác
khi cần thiết. Như chúng ta đã biết, nếu ống kính của Camera càng cách xa hình ảnh cần
chiếu thì khung hình càng được mở rộng, như vậy đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ chiếu
được nhiều tranh hơn trên một khung hình.
Vậy giải pháp này, nếu giáo viên chỉ cần chiếu hình để học sinh nhận xét từng tranh riêng
lẻ thì chúng ta có thể để ống kính gần với bài vẽ hơn, còn nếu muốn để học sinh so sánh
giữa nhiều bài thì giáo viên định vị lại khoảng cách của Camera cao lên là hình ảnh sẽ
chiếu được nhiều hơn. Từ đó, giáo viên cùng với học sinh sẽ được quan sát, nhận xét và
phân tích chi tiết các bài thực hành của học sinh khi cần nhận xét.
V. TỔNG KẾT KINH NGHIỆM



Qua đề tài này, tôi nhận thấy một số kinh nghiệm tổng kết được qua việc áp dụng công
nghệ thông tin vào dạy phần Quan sát nhận xét và phần Thực hành của phân môn Vẽ
tranh như sau:
- Nhờ vào việc chuẩn bị những đoạn video, những trực quan “số hố” trên máy vi tính mà
giáo viên có thể thao tác nhanh, chính xác và tạo được tương tác hai chiều đối với học
sinh và giáo viên.
- Đồ dùng minh hoạ phong phú, đa dạng, có thể lựa chọn theo từng bài dạy cụ thể, từng
phần nội dung bài dạy cụ thể.
- Học sinh được cảm nhận gần như ngay tức thì do hiệu ứng của phầm mềm và một số
thiết bị hỗ trợ giảng bài.
- Tranh, ảnh được hiển thị trên màn hình máy chiếu to, rõ ràng và sinh động.
- Giáo viên hoàn toàn chủ động trong các tình huống hướng dẫn quan sát và hướng dẫn
thực hành.
- Đảm bảo được việc phân phối thời gian cho từng phần của bài dạy.
- Đối với những đề tài rộng giáo viên vẫn có thể hướng dẫn một cách nhanh chóng được
mà khơng mất thời gian vào việc thao tác đồ dùng.
- Tận dụng được những thiết bị sẵn có trên thị trường và thiết bị đã được trang bị của nhà
trường để tạo thành những thiết bị thực sự hữu dụng và thiết thực.
- Học sinh được tiếp cận, hưởng thụ và học nghệ thuật trên nền công nghệ hiện đại, hình
thành cảm xúc thẩm mỹ một cách sâu sắc, nhanh chóng và sáng tạo.
VI. PHÂN TÍCH TỔNG HỢP NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM.
Với đề tài “Ứng dụng Công nghệ thông tin trong việc đổi mới phương pháp dạy học phần
Quan sát nhận xét và thực hành của phân môn vẽ tranh bậc Tiểu học” tôi thấy đề tài này
đã đem lại những bài học kinh nghiệm thật bổ ích:
Thứ nhất: Việc chuẩn bị đồ dùng điện tử đơn giản, ít tốn kém và dễ phổ biến rộng rãi
cho đồng nghiệp; Xử lý và thao tác trên máy sẽ nhanh, chính xác và sinh động hơn đồ
dùng truyền thống.
- Đơn giản là do giáo viên chỉ cần nắm vững một số phần mềm trợ giúp trong việc tạo ra
những đồ dùng điện tử như UleadVideoStudio, ProShowGold, PowerPoint…, là giáo

viên có thể tạo được vơ số đồ dùng điện tử theo yêu cầu của từng bài, từng phân môn và
thậm chí của cả bộ mơn.


- Ít tốn kém thì chúng ta cũng thấy ngay được. Do nguyên liệu tạo ra chúng không phải là
vật chất mà chủ yếu là do trí tuệ, cho nên ai đã có khả năng thiết kế trên các phần mềm
nói trên thì với một chiếc máy vi tính bình thường cũng có thể tạo ra được những đồ dùng
điện tử sinh động và hấp dẫn mà không hề tốn kém gì. Gần như là chúng ta khơng phải
chuẩn bị về tiền lực mà chỉ đầu tư về trí lực là chính. Ít tốn kém cịn được thể hiện ở chỗ
chúng ta có thể tái sử dụng, sao, nhân bản…
- Dễ phổ biến thì chúng ta lại càng thấy rõ, từ những bản thiết kế của một người chúng ta
có thể sao cho nhiều người sử dụng được, điều này đối với máy vi tính thì lại càng hết
sức đơn giản. Chính vì thế nếu là một đề tài khả dụng chúng ta có thể triển khai trên diện
rộng ngay được nếu như giáo viên chúng ta đã chuẩn bị tốt về tâm thế và kiến thức tin
học.
- Thao tác trên máy thì đơn giản, nhanh nhưng lại hiệu quả. Điều này qua những phân
tích và giải pháp cơng nghệ của phần IV Những kinh nghiệm và giải pháp tôi đã nêu rất
rõ trong từng nhiệm vụ một. Ở đây chúng ta cùng phân tích một số khía cạnh cụ thể như:
thao tác - giáo viên có thể chỉ cần nắm được một số thao tác đơn giản trên bàn phím, con
chuột là có thể điều khiển bài giảng một cách hiệu quả; Đồ dùng sinh động ở chỗ giáo
viên có thể tạo hoạt cảnh động cho các bước hướng dẫn học sinh làm bài (từ phần quan
sát nhận xét đến phần hướng dẫn thực hành), giáo viên có thể thay đổi hình ảnh trực quan
theo ý tưởng của học sinh.
Thứ hai: Đồ dùng điện tử ta có thể chuẩn bị được nhiều, phong phú về thể loại, có thể
chọn lọc theo từng bài dạy tương ứng. Do đồ dùng dạng số hố ta có thể tổ chức lưu trữ
trên dạng thư viện, kho dữ liệu dùng chung.
- Khi đã làm chủ được các phần mềm hỗ trợ thiết kế đồ dùng điện tử thì giáo viên có thể
cập nhật thêm những cho kho thư viện đồ dùng nhiều và phong phú hơn qua từng năm
học. Khi trong kho đồ dùng ảo đã tích luỹ được nhiều thì giáo viên hồn tồn có thể lựa
chọn những đồ dùng tương ứng cho từng bài cụ thể của phân môn vẽ tranh. Điều này

cũng giúp cho giáo viên không phải sử dụng lại những đồ dùng cũ cho các bài dạy khác
nhau.
Việc có thể lựa chọn được cịn một tác dụng rất bổ ích nữa là giáo viên có thể dùng
những đồ dũng sẵn có để minh hoạ hoặc cho học sinh tham khảo nhanh trước khi hướng
dẫn một phần nào đó, như phần hướng dẫn thực hành chẳng hạn, trước khi học sinh làm
bài giáo viên cho học sinh xem qua một số đoạn trình diễn tranh mẫu của học sinh, của
giáo viên.
Thứ ba: Học sinh được cảm nhận, “thực mục sở thị” ngay tức thì trên màn hình máy
chiếu hay ti vi những trực quan số hoá.


- Một trong những ứng dụng hiệu quả nhất của đồ dùng điện tử là có thể tương tác hai
chiều giữa học sinh với giáo viên và cũng có thể trình diễn động theo hoạt cảnh đã được
lập trình sẵn.
- Đồ dùng điện tử có một ưu thế khi biến đổi hình ảnh theo gợi ý của giáo viên hoặc của
học sinh mà đồ dùng truyền thống khơng hoặc khó có thể làm được. Khi học sinh nêu
nhận xét, gợi ý thì giáo viên có thể cho trình diễn trên máy được ngay lập tức, cho nên
thao tác và trình tự diễn ra hết sức nhanh và sinh động.
Thứ tƣ: Đồ dùng điện tử hiển thị trên màn hình máy chiếu to, rõ ràng và sinh động.
- Đối với đồ dùng thơng thường thì học sinh chỉ có thể quan sát ở kích thước vừa nhỏ trên
bảng giáo viên. Và đồ dùng được in và vẽ ở kích thước nào thì học sinh chỉ có thể xem ở
kích thước đó. Nhưng đối với máy vi tính thì có thể phóng đại tại một vị trí nào đó trên
đồ dùng, chắc chắn học sinh sẽ được quan sát chi tiết hơn đối với một số bước hướng dẫn
cụ thể nào đó.
- Trên máy chiếu đa năng và máy chiếu vật thể tự tạo giáo viên có thể thay đổi hình ảnh,
đưa ra và cất đi một cách rất đẹp mắt nếu áp dụng các hiệu ứng xuất hiện và ẩn. Mầu sắc
của đồ dùng hiển thị trên màn chiếu hoàn toàn sinh động như thực tế thậm chí có những
thiết bị không thể diễn tả được bằng đồ dùng thông thường nhưng với đồ dùng điện tử thì
lại thể hiện tốt và hiệu quả.
Thứ năm: Giáo viên chủ động trong các hoạt động hướng dẫn, đảm bảo về sự phân phối

thời gian, không quên được bước dạy, giải quyết tốt các bài có đề tài rộng.
- Giáo viên hồn tồn chủ động trước những tình huống hướng dẫn bài học. Các bước
được lập trình sẵn nhưng khơng cứng nhắc, có thể linh hoạt thay đổi hay tự do lựa chọn
trong khi dạy. Điều này là một thế mạnh mà phương tiện dạy học thơng thường khó làm
được. Từ đó giáo viên ln có tâm thế hết sức thoả mái khi thực hiện bài giảng.
- Đối với việc phân bố thời gian dường như giáo viên không phải bận tâm mấy, do giáo
án được soạn theo trình tự cố định các bước cho nên có muốn thêm bước cũng khơng thể
ngẫu nhiên được hoặc có muốn bớt bước cũng khơng thể ngẫu nhiên được. Nhưng ngược
lại giáo viên lại hồn tồn có thể chủ động trong việc điều chỉnh bớt hoặc thêm nếu có
tình huống nào đó sảy ra trong tiến trình dạy học.
Nói cách khác đi là nhờ vào giáo án điện tử mà giáo viên có thể rất linh hoạt trong việc
trình bày tiến trình dạy học của mình có thể thay đổi, điều chỉnh một số bước nhất định
trong giáo án nếu thấy thực sự cần thiết.
- Riêng đối với các bài có đề tài rộng thì giáo án điện tử lại giúp giáo viên giải quyết hiệu
quả nhất. Do là một dạng bài dạy đề tài rất chung chung như “Vẽ tự do”, “Vẽ tranh


Phong cảnh:, “Vẽ về đề tài Mơi trường” … thì việc gợi ý và hướng dẫn học sinh chọn đề
tài sẽ rất vất vả nếu chúng ta dạy theo những phương pháp thông thường (do phải chuẩn
bị nhiều đồ dùng). Nhưng chúng ta có thể giải quyết tốt với những bài giảng có sử dụng
giáo án điện tử.
* Tóm lại: Qua việc phân tích những bài học kinh nghiệm chúng ta thấy rất rõ một điểm
đó là nếu giáo viên sử dụng tốt bài giảng điện tử thì sẽ thu được một kết quả đáng ghi
nhận, học sinh sẽ có hứng thú hơn, hình thành kiến thức cho học sinh nhanh hơn, có khái
niệm tổng quát hơn đối với những bài có đề tài quá rộng. Nhưng chúng ta cũng thấy rằng
nếu sử dụng chúng quá lạm dụng thì cũng chưa thực sự phát huy hiệu quả thậm chí có thể
làm phản tác dụng. Ví dụ như một số phần hướng dẫn: thực hành, nhận xét đánh giá nếu
chúng ta quá quan tâm tới việc áp dụng tin học tại các bước này chắc chắn sẽ gây rối
hoặc làm mất đi tập trung vào cơng việc chính của học trị, sẽ làm phân tán tư tưởng
khiến cho bài dạy giảm mất hiệu quả.

Như vậy, việc lựa chọn và sử dụng như thế nào thì giáo viên cần phải nghiên cứu kỹ
trước khi thực hiện bài soạn, bài giảng, để sao cho giờ dạy đạt hiệu quả cao nhất, học sinh
thích học nhất, bài vẽ của các em có chất lượng nhất.
VII. NHỮNG ĐIỀU CÒN HẠN CHẾ (BỎ NGỎ).
Trên đây là những kinh nghiệm mà tơi đã tích luỹ từ nhiều năm nay nhằm mục đích thay
đổi một số phương pháp dạy học nhờ vào việc vận dụng công nghệ thông tin trong xã hội
hiện nay. Hy vọng nó có thể trợ giúp cho giáo viên có nhiều phương pháp dạy học hơn,
đưa kiến thức đến với học sinh nhanh hơn, hiệu quả hơn. Tuy nhiên do đây là một đề tài
lớn, nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu tiếp và thực nghiệm cho nên sẽ khó tránh được
những hạn chế nhất định nào đó, và đặc biệt vẫn cịn một số nội dung vẫn còn bỏ ngỏ để
hướng tiếp tục về sau tơi sẽ nghiên cứu tiếp và hồn thiện dần, thậm chí từ đó có thể mở
rộng đề tài hơn nữa nhằm áp dụng cho nhiều phân môn khác của bộ môn hoặc ở bậc học
cao hơn.
a. Hạn chế của đề tài:
- Hạn chế lớn nhất hiện nay đó là các cơ sở vẫn chưa thể tự trang bị đủ thiết bị máy móc
để phục vụ cho việc triển khai bài dạy điện tử. Đối với vấn đề này chúng ta có thể hy
vọng trong thời gian tới nhà trường, ngành giáo dục và các cấp có thẩm quyền có thể hỗ
trợ và trang bị để giáo viên được thực hiện bài dạy điện tử, giáo án điện tử, đồ dùng điện
tử.
- Thứ hai có thể kể đến đó là hiện nay ở bậc Tiểu học giáo viên vẫn cịn một số người
chưa chủ động tiếp cận với cơng nghệ thông tin, một số người vẫn cho rằng tin học trong
giáo dục còn khá xa vời với chúng ta. Hạn chế này cũng khá quan trọng và ảnh hưởng


không nhỏ tới việc triển khai giáo án điện tử, bởi để giảng dạy được bằng bài giảng điện
tử thì giáo viên làm chủ cơng nghệ lại đóng một vai trị quan trọng. Nếu giáo viên khơng
biết tin học hay khơng cần biết tin học thì giáo án điện tử sẽ dừng lại ở những người thiết
kế mà thơi.
Với tình hình hiện nay, tơi tin tưởng rằng đội ngũ giáo viên chúng ta hầu hết là còn trẻ,
nhiều đam mê chắc chắn sẽ khắc phục nhược điểm này trong thời gian ngắn mà thôi.

Riêng đội ngũ giáo viên Mỹ thuật thì hồn tồn có thể tin tưởng vào họ do hầu hết những
giáo viên này lại đang sử dụng một số phần mềm đồ hoạ trong công việc chuyên môn của
mình cho nên việc tiếp cận một số phần mềm khác là khơng khó.
- Phần mềm chủ cơng nhất là PowerPoint, ProShowGold chuyên thiết kế hình động, vi
deo, trình diễn ảnh và lập trình xử lý lệnh theo ý tưởng giáo viên lại là những phần mềm
mới có một bộ phận giáo viên tiếp cận.
- Đề tài tuy đã được thực hiện tại các hội thi (Hội thi giáo viên dạy giỏi Mỹ thuật cấp tỉnh
bậc Tiểu học, Hội thi giáo viên dạy giỏi cấp huyện, và tại một số trường tiểu học tại
Huyện Yên Mỹ như trường Tiểu học Hoàn Long, Tiểu học Yên Phú II…) nhưng vẫn gặp
phải những khó khăn đó là chưa thử nghiệm được trên nhiều đối tượng khối lớp khác
nhau.
b. Những điều còn bỏ ngỏ:
Đề tài này mới chỉ nghiên cứu một mảng vấn đề trọng tâm của phân môn Vẽ tranh (hai
nội dung về hướng dẫn về quan sát, nhận xét, hướng dẫn thực hành) cho nên một số nội
dung chúng ta sẽ nghiên cứu tiếp trong tương lai như:
- Phát triển thêm một số kho dữ liệu khác để phục vụ cho các bài dạy của phân môn vẽ
theo mẫu, vẽ trang trí và thường thức mỹ thuật.
- Ngồi ra cần phải phát triển chương trình phổ cập, hướng dẫn giáo viên sử dụng những
phần mềm thông dụng để thiết kế, soạn bài và giảng bài bằng giáo án điện tử.
- Hướng dẫn giáo viên tự chế được máy chiếu vật thể ở diện rộng.
- Lập trình được giao diện giáo án tương tác cho giáo viên thực hiện bài soạn một cách dễ
dàng. Nếu có giao diện này thì giáo viên chỉ cần tìm hiểu cách sử dụng chương trình này
mà có thể chưa cần thiết tìm hiểu các phần mềm khác.
- Nghiên cứu và đề xuất để xin phép cho phát hành một số đĩa CD dạy học Mỹ thuật bằng
đồ dùng điện tử có thể thực hiện được trên cả máy vi tính và cả trên đầu đĩa và ti vi.
VIII. NHỮNG ĐIỀU KIỆN VẬN DỤNG SÁNG KIẾN VÀO THỰC TIỄN.


Đối với đề tài này, để triển khai và áp dụng vào thực tiễn rất cần các cấp lãnh đạo, các
nhà trường và đặc biệt các giáo viên cùng hợp sức để đề tài sớm đi vào thực tế trên phạm

vi rộng.
- Đối với ngành giáo dục cần tham mưu, tư vấn với các cấp lãnh đạo để trang bị thêm cho
các nhà trường một số bộ thiết bị máy chiếu, máy tính để làm cơng cụ trợ giảng. Do đề tài
dựa trên mơ hình những thiết bị hiện đại cho nên đối với các nhà trường muốn triển khai
được thì phải có những thiết bị tương ứng.
Ngồi ra, trong lúc thiết bị vẫn là vấn đề khó khăn đối với ngành giáo dục thì tơi đã linh
hoạt phát triển đồ dùng điện tử trên đĩa VCD có thể trình diễn trên đầu đĩa và ti vi được.
Do hai thiết bị này hầu hết ở các trường đều đã trang bị đầy đủ cho nên giáo viên hồn
tồn có thể triển khai được ngay.
- Đối với các nhà trường: Cần tạo điều kiện về cơ sở vật chất (phòng học giáo dục nghệ
thuật). Do thiết bị máy móc nếu phải di chuyển số lượng máy như vậy là điều khó thực
hiện được do vậy rất cần có một phịng cố định để dạy bộ môn.
Cần tạo điều kiện về thời gian cho giáo viên sưu tầm và nghiên cứu, thiết kế giáo án điện
tử, nếu giáo viên sử dụng trên bộ đầu đĩa và ti vi thì cần tạo điều kiện tốt nhất để giáo
viên sử dụng hai thiết bị này trong quá trình dạy học.
- Đối với giáo viên: Việc quan trọng nhất đối với giáo viên là làm chủ một số phần mềm
hỗ trợ soạn giảng bằng giáo án điện tử, có ý thức sưu tầm, lưu trữ dữ liệu để sử dụng
trong thiết kế bài giảng trên máy.
- Đối với học sinh: cần chủ động tiếp cận một phương pháp lĩnh hội tri thức mới, làm
quen và tương tác tốt đối với thiết bị điện tử. Lĩnh hội kiến thức mới thông qua đồ dùng
điện tử cần phải tập một thói quen ghi nhớ hình ảnh, ghi nhớ thao tác.
* Ngoài những điều kiện cơ bản trên chúng ta cần lưu ý thêm một số điều kiện ngoại
cảnh như: sự ủng hộ của đồng nghiệp, quan điểm của những nhà quản lý giáo dục về ứng
dụng tin học phải luôn luôn đổi mới, luôn luôn cập nhật những thành tựu khoa học của
thế giới đem lại.
Tóm lại: Để triển khai thành cơng và có hiệu quả đề tài này tôi thiết nghĩ, mỗi giáo viên
chúng ta cần phải cố gắng nhiều, cần phải học hỏi nhiều hơn nữa để có thể hồn tồn làm
chủ được cơng nghệ trước những bài giảng điện tử. Những điều kiện trên là rất cần thiết
nhưng trong tương lai gần, theo sự tiến bộ của khoa học công nghệ mỗi ngày một thay
đổi thì chúng ta cần tiếp tục và liên tục nghiên cứu những phần mềm sẵn có và những

phần mềm sắp có hoặc hơn nữa là có thể tự viết chương trình riêng cho mình trong việc
soạn và giảng điện tử. Khơng bao lâu nữa mơi trường giáo dục cịn có thể diễn ra trên nền


tảng Internet lúc đó vấn đề bài giảng điện tử sẽ thực sự trở thành điều kiện không thể
thiếu trong nhà trường điện tử.


PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN
I. KẾT QUẢ THÀNH CÔNG.
Việc đổi mới phương pháp dạy phân mơn Vẽ tranh nói riêng, Mĩ thuật nói chung và cũng
như bao mơn học khác là điều cần thiết đối với tình hình thực tế hiện nay, song nói gì thì
nói phương pháp, phương tiện có đổi mới như thế nào đi nữa thì cái đích cuối cùng vẫn
phải là kết quả mà học sinh tiếp thu được, nó phải chứng minh được sự vượt trội về kỹ
năng vẽ bài, tư duy sáng tạo,… . Dưới đây là một số thống kê tại trường tiểu học Hoàn
Long trong năm học 2009 - 2010 để chúng ta tiện so sánh kết quả khi chưa áp dụng và đã
áp dụng phương pháp sử dụng giáo án điện tử, đồ dùng điện tử và bài giảng điện tử.
* Kết quả của HKI năm học 2009 - 2010 (khi chƣa áp dụng)
Kối
Lớp

Số hs

Học sinh vẽ Bố cục tranh Mầu sắc trong
đúng đề tài
cân đối
tranh sinh động
SL

%


SL

%

SL

%

1

105

59

56

78

74

71

67

2

92

65


70

80

86

34

36

3

104

82

78

70

67

55

52

4

124


111

89

88

70

84

67

5

109

83

76

86

78

54

49

Qua thời gian giảng dạy được áp dụng những ứng dụng tin học trong soạn và giảng bài

điện tử (1 học kỳ), với sáng tạo của thầy và họat động tích cực của học sinh cùng với một
số phương pháp tổ chức chơi hợp lý, bản thân tôi nhận thấy kết quả đạt được một cách rất
tích cực với tỷ lệ học sinh hồn thành bài vẽ tranh với những yêu cầu cụ thể là rất khả
quan, điều đó chứng tỏ thành tích đạt được qua trải nghiệm hồn tồn có sức thuyết phục.
Những con số biểu hiện trong bảng thống kê dưới đây đã nói rất rõ điều đó:
*Kết quả học kỳ II năm học 2009 - 2010 (sau khi đã áp dụng)
Kối
Lớp

Số hs

Học sinh vẽ Bố cục tranh Mầu sắc trong
đúng đề tài
cân đối
tranh sinh động


SL

%

SL

%

SL

%

1


105

65

61

84

80

80

76

2

92

77

83

87

94

51

55


3

104

90

86

77

74

59

56

4

124

115

92

95

76

99


79

5

109

99

90

99

90

71

65

Với kết quả như trên, tôi thấy việc dạy học Mĩ thuật nói chung và dạy Vẽ tranh nói riêng,
muốn có kết quả giảng dạy cao thì người thầy phải khơng ngừng tìm tịi và đổi mới
phương pháp dạy học. Để tạo được cách dạy lấy học sinh làm trung tâm cho bài dạy, giáo
viên chỉ là người hướng dẫn, gợi mở, thì ngồi việc sử dụng một số phương pháp dạy
truyền thống còn cần kết hợp nhiều phương pháp khác và sự hỗ trợ của thiết bị và công
nghệ thông tin để tiết học sinh động hơn. Với kết quả này, mỗi chúng ta cũng khơng lấy
đó làm bằng lịng để rồi dừng ở đó. Theo tơi đã là giáo viên thì việc học hỏi, tìm tịi và
sáng tạo trong cách dạy là một nhiệm vụ mỗi ngày của người thầy, hoạt động đó phải
được diễn ra thường xuyên có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao đối với
tri thức, và đặc biệt có thể tạo điều kiện cho học sinh vững vàng bước vào chương trình
Mĩ thuật ở bậc THCS.

II. PHƢƠNG PHÁP TIẾP TỤC HỒN THIỆN ĐỀ TÀI.
Đối với phân mơn vẽ tranh việc sử dụng giáo án điện tử đã đem lại rất nhiều thuận lợi
cho sự hình thành kiến thức về “Hội hoạ” cho học sinh. Nhờ vào phương pháp áp dụng
phương tiện kỹ thuật hiện đại trong giảng dạy Mỹ thuật mà học sinh được tiếp cận với
phương pháp mới, được hình thành kiến thức nhanh hơn, trực quan hơn. Nhưng đây mới
chỉ là mới bắt đầu trong việc thực hiện mơ hình trường học điện tử, lớp học điện tử, môn
học và giáo án điện tử. Trong tương lai gần chúng ta cần phải đổi mới nhiều hơn nữa, sẽ
có nhiều lập trình viên quan tâm hơn tới vấn đề viết chương trình hỗ trợ cho giáo viên
soạn và giảng bài bằng máy vi tính, bằng máy chiếu.
Vậy, hướng cho tôi tiếp tục nghiên cứu sẽ tập trung nhiều vào phần hướng dẫn giáo viên
làm chủ công nghệ, hướng dẫn học sinh tiếp cận với những lớp học điện tử, bài học điện
tử để có thể sáng tạo nhiều hơn, phong phú hơn. Và chắc chắn trong tương lai tôi sẽ tiếp
tục hoàn thiện phần tạo thư viện đồ dùng điện tử đầy đủ cho các phân môn của bộ mơn
Mỹ thuật để giáo viên có thể chia sẻ và sử dụng chung được.


×