Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Dịch vụ môi trường rừng và chi trả dịch vụ môi trường rừng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.77 KB, 4 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Điều cần biết về dịch vụ môi trường rừng và chi trả dịch vụ môi trường rừng</b>
<b>“Chi trả dịch vụ môi trường rừng” (PFES) là quan hệ tài chính tương đối mới trên</b>
<b>thế giới, bắt nguồn từ quan điểm chính sách về “dịch vụ mơi trường”.</b>


<b>Giá trị của rừng</b>


Theo quan điểm của Nghị định thư Kyoto, “rừng là hệ sinh thái có diện tích tối thiểu
0,05-1,00 ha; tỷ lệ che phủ tầng tán tối thiểu 10-30%; chiều cao cây cối tối thiểu 2-5m”
[UNFCCC, 2001]. Trong định nghĩa này hệ sinh thái được hiểu là một tập hợp quần thể
năng động có một chức năng chung của các loài thực vật, động vật và cộng đồng các chất
vi sinh vật cùng môi trường xung quanh chúng.


Trên thực tế, mỗi quốc gia cũng có định nghĩa riêng về rừng. Điều quan trọng là làm sao
để định nghĩa của mỗi nước nhất quán theo thời gian và không mâu thuẫn với định nghĩa
của Nghị định thư Kyoto.


Luật Bảo vệ và phát triển rừng của Việt Nam 2004 đã đưa ra định nghĩa “rừng là một hệ
sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng, vi sinh vật rừng, đất rừng và các
yếu tố môi trường khác, trong đó có cây gỗ, tre, nứa hoặc hệ thực vật đặc trưng là thành
phần chính, có độ che phủ của tán rừng từ 0,1 (10%) trở lên” [Theo Luật Bảo vệ và Phát
triển rừng 2004, 2004].


Khác với trước đây, ngày nay lợi ích kinh tế của rừng đã vượt xa giá trị của các sản phẩm
hữu hình do rừng tạo ra để phục vụ cho nhu cầu đời sống, sản xuất và buôn bán của con
người. Tổng giá trị kinh tế của rừng được phân thành giá trị sử dụng và giá trị phi sử
dụng.


Giá trị sử dụng là những lợi ích thu được từ việc sử dụng nguồn tài nguyên rừng, bao
gồm: giá trị sử dụng trực tiếp, giá trị sử dụng gián tiếp và giá trị tùy chọn.


Giá trị sử dụng trực tiếp là các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ mà rừng trực tiếp cung cấp và


chúng ta có thể tính được giá cả cũng như khối lượng trên thị trường.


Giá trị sử dụng gián tiếp là những giá trị chủ yếu dựa trên chức năng của hệ sinh thái, có
ý nghĩa về mặt sinh thái và mơi trường. Nói cách khác, giá trị sử dụng gián tiếp là giá trị
các dịch vụ do rừng tạo ra và được nhiều người, thậm chí là cả xã hội cùng hưởng lợi
(điều tiết nguồn nước, bảo vệ đất, hạn chế xói mịn, hấp thụ và lưu giữ các bon, cảnh
quan, vẻ đẹp thiên nhiên, đa dạng sinh học…).


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Giá trị phi sử dụng còn gọi là giá trị không sử dụng hoặc giá trị chưa sử dụng của rừng là
những giá trị sử dụng tiềm năng có thể được phát hiện và sử dụng về sau.


Hiểu được các giá trị này sẽ thay đổi được nhận thức về vai trò và giá trị kinh tế của rừng
tốt hơn, đặc biệt là giá trị sử dụng gián tiếp của rừng được coi là một trong những điểm
then chốt hình thành REDD


<b>Dịch vụ mơi trường rừng</b>


Để hiểu được dịch vụ môi trường rừng, cần thống nhất cách hiểu về môi trường rừng.
Điều 3, Nghị định 99/2010/NĐ-CP ngày 24/9/2010 của Chính Phủ về chính sách chi trả
dịch vụ mơi trường rừng (Nghị định 99/2010/NĐ-CP) đã nêu rõ:


“Môi trường rừng bao gồm các hợp phần của hệ sinh thái rừng: thực vật, động vật, vi sinh
vật, nước, đất, khơng khí, cảnh quan thiên nhiên. Mơi trường rừng có các giá trị sử dụng
đối với nhu cầu của xã hội và con người, gọi là giá trị sử dụng của môi trường rừng, gồm:
bảo vệ đất, điều tiết nguồn nước, phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ ven biển, phòng chống
thiên tai, đa dạng sinh học, hấp thụ và lưu giữ các bon, du lịch, nơi cư trú và sinh sản của
các loài sinh vật, gỗ và lâm sản khác” [Nghị định 99/2010/NĐ-CP của Chính phủ].


Đối với khái niệm “dịch vụ mơi trường”: hiện nay trên thế giới chưa có một định nghĩa
chuẩn nào về dịch vụ môi trường. Tuy vậy, để hiểu một cách gần gũi, dịch vụ mơi trường


là lợi ích mà tự nhiên có thể mang lại cho các hộ gia đình, cộng đồng và nền kinh tế.
Theo định nghĩa và phân loại của UNFCCC, các dịch vụ môi trường được chia thành 4
nhóm: nhóm cung cấp, nhóm điều tiết, nhóm văn hóa và nhóm hỗ trợ.


Dịch vụ mơi trường rừng là bộ phận quan trọng bậc nhất của dịch vụ môi trường. Môi
trường rừng là môi trường do kết quả tác động của rừng tạo ra cho xã hội và tự nhiên. Nó
là loại mơi trường có tầm quan trọng không thể thay thế trong hệ sinh thái chung.


Điều 3, Nghị định 99/2010/NĐ-CP ngày 24/9/2010 cũng đã nêu rõ: “Dịch vụ môi trường
rừng là việc cung ứng các giá trị sử dụng của môi trường rừng để đáp ứng các nhu cầu
của xã hội và đời sống của nhân dân” .


Dịch vụ môi trường thuộc loại dịch vụ tổng hợp bao gồm nhiều loại dịch vụ cụ thể. Theo
điều 4, Nghị định 99/2010/NĐ-CP, các loại dịch vụ môi trường rừng gồm:


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

ứng bãi đẻ, nguồn thức ăn và con giống tự nhiên, sử dụng nguồn nước từ rừng cho nuôi


trồng thủy sản [Nghị định 99/2010/NĐ-CP ]


Như vậy, dịch vụ REDD thuộc nhóm thứ 3 trong hệ thống phân loại dịch vụ môi trường
rừng theo Nghị định trên của Chính phủ.


Hiện nay, có ba loại dịch vụ mơi trường đang được triển khai chi trả, đó là giảm nhẹ biến
đổi khí hậu, phịng hộ đầu nguồn và bảo tồn đa dạng sinh học. Nhu cầu về 3 loại dịch vụ
này được dự báo ngày càng tăng. Tuy nhiên, mức chi trả ở các quốc gia rất khác nhau,
tùy thuộc vào nhận thức, năng lực thể chế, nguồn lực ngân sách nhà nước và năng lực chi
trả. Không thể tính được chính xác những gì bị mất đi về mặt mơi trường khi chuyển đổi
mục đích sử dụng đất lâm nghiệp sang các mục đích sử dụng khác. Nếu tiếp cận theo
quan điểm chính sách mới, chỉ đủ cơ sở để lập luận rằng, các dịch vụ môi trường rừng là
hữu ích và có thể xác định được lợi ích, giá trị của nó để thiết lập cơ chế chi trả. Nó là


một loại hàng hóa cơng cộng vì có đầy đủ hai tính chất là khơng thể phân chia và khơng
thể loại trừ. Tuy nhiên, do tính chất có thể đo đếm kết quả và xác định được người hưởng
lợi dịch vụ nên có thể xác lập được cơ chế chi trả theo nguyên tắc thị trường [UNEP,
2005]. Từ đó, khái niệm “Chi trả dịch vụ mơi trường rừng” (PFES) đã ra đời và từng
bước được áp dụng ở các nước, tạo hiệu quả rất tốt về chính sách cơng và huy động
nguồn lực tài chính.


<b>Chi trả dịch vụ môi trường rừng</b>


“Chi trả dịch vụ môi trường rừng” (PFES) là quan hệ tài chính tương đối mới trên thế
giới, bắt nguồn từ quan điểm chính sách về “dịch vụ môi trường”. Theo quan điểm này,
các hệ sinh thái, trong đó có hệ sinh thái rừng, có vai trị cung cấp các dịch vụ có tác dụng
khơng chỉ đảm bảo sự trong lành về mơi trường mà cịn đảm bảo sản xuất và sức khỏe
của con người, thông qua các tác động tích cực và đa dạng như bảo vệ nguồn nước,
phịng hộ đầu nguồn, điều hịa khí hậu, phòng chống dịch bệnh, tạo điều kiện phát triển
du lịch, văn hóa và cải tạo đất…Ngày nay, trong khi nhu cầu về các dịch vụ này tăng, thì
khả năng để cung cấp các dịch vụ đó của các hệ sinh thái ngày càng đứng trước nguy cơ
bị suy giảm vì mơi trường rừng đang dần bị suy thối và ơ nhiễm quá mức. Một trong
những nguyên nhân chính dẫn tới điều đó là tăng nhu cầu phát triển kinh tế, sự gia tăng
dân số, sự thiếu hiểu biết về chu kỳ và chức năng của các hệ sinh thái và cả sự thiếu trách
nhiệm của một số doanh nghiệp và cá nhân khi chỉ nghĩ tới việc tối đa hóa lợi nhuận
trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài về bảo vệ mơi trường.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Để có thể hiểu một cách đơn giản, PFES là việc chi trả của những người hưởng lợi dịch
vụ môi trường rừng cho người cung ứng dịch vụ.


Theo Simpson và Sedjo (1996), Land-Mils và Porras (2002), PFES là một cách tiếp cận
mới để khuyến khích chủ rừng, những người quản lý rừng cung cấp dịch vụ môi trường
rừng tốt hơn. PFES giúp đền bù cho những người cung cấp dịch vụ môi trường rừng hoặc
khuyến khích những người chưa quan tâm tham gia bảo vệ và phát triển rừng.



Nghị định 99/2010/NĐ-CP cũng đã đưa ra cách hiểu về PFES: “Là quan hệ cung ứng và
chi trả giữa bên sử dụng dịch vụ môi trường trả tiền cho bên cung ứng dịch vụ” .


Như vậy, PFES là một quan hệ tài chính mới cho một loại hình dịch vụ cơng cộng là dịch
vụ mơi trường rừng. Việc chi trả này bao gồm các yếu tố cơ bản như đối tượng phải chi
trả, đối tượng được chi trả, loại dịch vụ chi trả, hình thức và nguyên tắc chi trả…


Để có thể thực hiện PFES, trước hết cần đánh giá được giá trị của dịch vụ này. Thứ nhất,
có rất nhiều người khơng hiểu được giá trị của sinh thái rừng, đặc biệt là những người
cịn đang chịu cảnh đói khổ, nguồn sống chỉ biết phụ thuộc vào rừng. Ngồi ra, cịn có
những người dân có cuộc sống khá hơn nhưng vì muốn tối đa hóa lợi nhuận nên chỉ nghĩ
tới lợi ích trước mắt mà khơng nghĩ tới lợi ích lâu dài. Thứ hai, việc đánh giá giá trị dịch
vụ môi trường rừng sẽ cho phép các nhà tài chính phân tích chi phí- lợi ích để so sánh cái
được và cái mất trong việc bảo vệ hay hủy hoại môi trường rừng, từ đó đưa ra các căn cứ
để các nhà hoạch định chính sách và những nhà quản lý mơi trường ra những quyết định
đúng đắn và lý giải về nghĩa vụ của toàn xã hội đối với các hoạt động bảo tồn hệ sinh thái
rừng. Thứ ba, Nếu muốn ai đó trả tiền cho dịch vụ môi trường rừng, chúng ta phải chỉ ra
được giá trị về mặt tài chính của các dịch vụ đó.


Mặc dù cịn nhiều ý kiến và quan điểm khác nhau nhưng PFES đã trở thành hình thức và
cơ chế chi trả tài chính phổ biến trong hệ thống cơ chế, chính sách của nhiều quốc gia,
trong đó có Việt Nam (mặc dù Việt Nam là một nước mới thí điểm áp dụng).


</div>

<!--links-->

×