Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

Những luận cứ khoa học để thiết lập hệ thống kiểm toán nội bộ trong các đơn vị và tổ chức kinh tế.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.21 KB, 50 trang )

Những luận cứ khoa học để thiết lập hệ thống kiểm
toán nội bộ trong các đơn vị và tổ chức kinh tế.
1.1 Hệ thống kiểm soát nội bộ trong quản lý và vị trí của kiểm toán nội bộ trong kiểm tra kiểm soát
nội bộ.
1.1.1 Khái niệm về kiểm soát nội bộ.
Kiểm tra, kiểm soát luôn là một chức năng quan trọng của quản lý và đợc thực
hiện bởi một công cụ chính yếu là hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị. Việc xác lập
và duy trì một hệ thống kế toán thích hợp, kết hợp với quy chế kiểm soát nội bộ khác
để mở rộng kinh doanh và mở rộng loại hình kinh doanh thuộc trách nhiệm quản lý
của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp. Các nhà quản lý cần cung cấp cho các cổ đông
(hoặc Chính phủ) một sự bảo đảm thích hợp về công việc kinh doanh đợc kiểm soát
chính đáng. Đồng thời, bộ phận quản lý còn có trách nhiệm cung cấp cho cho các cổ
đông, Chính phủ và những ngời đầu t tiềm tàng (ngân hàng, chủ đầu t, ngời liên
doanh....) những thông tin tài chính trên cơ sở hợp thời. Một hệ thống bao gồm rất
nhiều chế độ và thể thức đặc thù đợc thiết kế để cung cấp cho các nhà quản lý sự bảo
đảm hợp lý là các mục tiêu và mục đích quan trọng đối với doanh nghiệp. Những
chế độ và thể thức này đợc gọi là các quá trình kiểm soát, và kết hợp lại hình thành
nên cơ cấu kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp.
Nh vậy hệ thống kiểm soát nội bộ là toàn bộ các chính sách, các thủ tục kiểm
soát do đơn vị thiết lập và duy trì nhằm điều hành toàn bộ các hoạt động của đơn vị
đảm bảo các mục tiêu sau:
- Bảo vệ tài sản và sổ sách kế toán.
- Bảo đảm độ tin cậy của các thông tin.
- Bảo đảm duy trì và kiểm tra việc tuân thủ các quy định pháp lý, các chính
sách có liên quan đến hoạt động của đơn vị.
- Bảo đảm hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lý.
Cụ thể là:
* Bảo vệ tài sản và sổ sách kế toán.
Tài sản của đơn vị hiểu theo nghĩa rộng bao gồm:
- Các tài sản ghi trên bảng cân đối kế toán (tài sản cố định, hàng tồn kho, tiền
mặt, tiền gửi, các khoản đầu t ngắn hạn, dài hạn, các khoản công nợ phải


thu...).
- Các tài sản phi vật chất không có hình thái cụ thể nhng có vai trò quan trọng,
tích cực trong việc nâng cao chất lợng hoạt động của đơn vị nh uy tín doanh
nghiệp, số lợng và quan hệ khách hàng, lợi thế thơng mại, bầu không khí
làm việc, quan hệ công tác, quan hệ trong bộ máy lãnh đạo, giữa lãnh đạo
với cán bộ công nhân viên, chính sách thống nhất trong công tác điều
hành....
Tài sản vật chất của đơn vị có thể bị trộm cắp, lạm dụng hoặc bị h hại tình cờ
nếu không đợc bảo vệ bởi các hệ thống kiểm soát thích hợp. Điều này cũng đúng đối
với tài sản phi vật chất nh các khoản công nợ phải thu, các tài liệu quan trọng và sổ
sách. Các thủ tục, quy trình, nghiệp vụ và nội quy bảo vệ tài sản phải dự kiến các ph-
ơng tiện bảo vệ vật chất chống lại mất mát, h hao, ăn cắp, lãng phí... Các phơng tiện
hoặc biện pháp này sẽ bảo vệ trực tiếp hoặc gián tiếp các tài sản vật chất nh hàng tồn
kho, thiết bị, tiền.... Các tài sản vô hình cần đợc bảo vệ và giữ gìn bằng các biện pháp
tổ chức, quy chế và cả những biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ.
* Bảo đảm độ tin cậy của các thông tin.
Thông tin kinh tế tài chính do kế toán tổng hợp xử lý và trình bày là căn cứ
quan trọng cho việc hình thành và lựa chọn các quyết định kinh tế của các nhà quản
lý. Nhà quản lý phải có các thông tin chính xác để điều hành các mặt của hoạt động
kinh doanh. Một lợng lớn thông tin đợc sử dụng để đề ra các quyết định kinh doanh
then chốt, do vậy thông tin phải bảo đảm không đợc lạm dụng và sử dụng sai mục
đích. Các thông tin đợc cung cấp phải bảo đảm:
- Độ tin cậy của các tài liệu tài chính, kế toán do bộ phận kế toán chuẩn bị, do
Giám đốc ký duyệt hoặc báo cáo với Ban Giám đốc, với Hội đồng Quản trị.
- Tính thích đáng, phù hợp của các thông tin tài chính, kế toán. Các thông tin
này phải phản ánh đầy đủ, đúng và khách quan các nội dung chủ yếu của
hoạt động kinh tế.
* Bảo đảm duy trì và kiểm tra việc tuân thủ các quy định pháp lý, các chính sách
có liên quan đến hoạt động của đơn vị.
Nhà quản trị xây dựng các thể thức và nguyên tắc để thoả mãn các mục tiêu

của Doanh nghiệp. Cơ cấu kiểm soát nội bộ đợc thiết kế để mang lại sự bảo đảm chắc
chắn các quyết định và chế độ quản lý đợc thực hiện đúng thể thức, đồng thời giám
sát mức hiệu quả của các chế độ và các thể thức đó. Nhân viên trong công ty phải
tuân thủ các chính sách, quyết định nội bộ, cụ thể là:
- Phát hiện kịp thời những rắc rối trong kinh doanh để hoạch định và thực hiện
các biện pháp đối phó.
- Ngăn chặn, phát hiện các sai phạm và các gian lận trong kinh doanh.
- Ghi chép kế toán đầy đủ, chính xác và đúng thể thức về các nghiệp vụ của
hoạt động kinh doanh.
- Lập các báo cáo tài chính kịp thời, hợp lệ và tuân theo các yêu cầu pháp định
có liên quan.
* Bảo đảm hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lý.
Các quá trình kiểm soát trong mọi tổ chức nhằm ngăn ngừa sự lặp lại không
cần thiết các nỗ lực và sự lãng phí trong mọi lĩnh vực kinh doanh, nhằm ngăn cản
việc sử dụng kém hiệu quả các nguồn tiềm năng. Định kỳ, nhà quản lý đánh giá kết
quả hoạt động để nâng cao hiệu năng quản lý, đảm bảo cơ cấu bộ máy đơn vị có đủ
năng lực điều khiển, chỉ huy đơn vị.
* Các mục tiêu chi tiết và nguyên tắc của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Đối với bất kỳ loại hình nghiệp vụ kinh tế nào trong một doanh nghiệp đều có
thể xảy ra một vài loại sai sót của quá trình ghi sổ. Có bảy mục tiêu mà một cấu trúc
kiểm soát nội bộ phải thoả mãn để ngăn ngừa các sai sót nh vậy.
Cụ thể là:
ST
T
Các mục tiêu chi tiết của hệ thống kiểm soát nội bộ
1 Các nghiệp vụ kinh tế phải có căn cứ hợp lý (tính có căn cứ hợp lý).
2 Các nghiệp vụ kinh tế phải đợc phê chuẩn đúng đắn (mục tiêu về sự phê chuẩn).
3 Các nghiệp vụ kinh tế phải đợc ghi sổ một cách đầy đủ (mục tiêu về tính đầy đủ).
4 Các nghiệp vụ kinh tế phải đợc đánh giá đúng đắn (mục tiêu về sự đánh giá).
5 Các nghiệp vụ kinh tế phải đợc phân loại đúng đắn (mục tiêu về sự phân loại).

6 Các nghiệp vụ kinh tế phải đợc phản ánh đúng hạn (mục tiêu về tính đúng kỳ).
7
Các nghiệp vụ kinh tế phải đợc ghi đúng đắn vào sổ phụ và đợc tổng hợp chính xác
(mục tiêu về tính chính xác cơ học).
Bảy mục tiêu trên đợc áp dụng cụ thể cho từng nghiệp vụ trọng yếu trong cuộc
kiểm toán.
Cùng với các mục tiêu trên, hệ thống kiểm soát nội bộ phải đảm bảo thực
hiện các nguyên tắc sau:
ST
T
Các nguyên tắc trong kiểm tra, kiểm soát nội bộ
1 Nguyên tắc phân công phân nhiệm
2 Nguyên tắc bất kiêm nhiệm
3 Nguyên tắc uỷ quyền phê chuẩn
Tóm lại, kiểm tra - kiểm soát là những hệ thống có chức năng xác minh, đánh
giá, nhận xét về đối tợng kiểm tra - kiểm soát. Hoạt động kiểm tra kiểm soát nảy
sinh và phát triển từ chính nhu cầu của quản lý. Các yếu tố của hệ thống kiểm tra -
kiểm soát bao gồm tất cả các yếu tố đối chiếu, xem xét, xác minh đối tợng của quản
lý. Tổ chức kiểm tra - kiểm soát thể hiện cả tính khoa học và tính nghiệp vụ kỹ
thuật về việc thực hiện các chiến lợc và bớc đi cụ thể trong hoạch định chính sách
và tổ chức bộ máy kiểm tra - kiểm soát ở cả tầm vĩ mô và vi mô của nền kinh tế.
1.1.2 Vị trí của kiểm toán nội bộ trong kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
Hệ thống kiểm soát nội bộ trong một doanh nghiệp thờng đợc xem gồm 3 yếu
tố cấu thành nên, đó là: Môi trờng kiểm soát; Hệ thống kế toán; và các thủ tục kiểm
soát.
Kiểm toán nội bộ là một nhân tố cơ bản trong môi trờng kiểm soát. Kiểm toán
nội bộ thực hiện việc kiểm tra, giám sát và đánh giá thờng xuyên về hoạt động của
đơn vị bao gồm cả đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ thông qua việc kiểm toán hoạt
động và kiểm toán tuân thủ. Từ đó, bộ phận này sẽ giúp cho đơn vị có những thông
tin kịp thời, xác thực về hoạt động của đơn vị và chất lợng của các thủ tục kiểm soát

nhằm điều chỉnh, bổ sung các thủ tục kiểm soát thích hợp và có hiệu lực hơn.
Bên cạnh vai trò của mình trong môi trờng kiểm soát của đơn vị, kiểm toán nội
bộ còn có thể góp phần làm giảm chi phí kiểm toán thuê ngoài bằng cách trực tiếp
cung cấp sự giúp đỡ cho các kiểm toán viên độc lập. Nếu kiểm toán viên bên ngoài
có đủ bằng chứng chứng minh cho tính khách quan, chính trực và năng lực của kiểm
toán viên nội bộ thì kiểm toán viên bên ngoài có thể dựa trên công việc của kiểm
toán viên nội bộ theo nhiều cách.
Nh vậy, kiểm toán nội bộ là một phần trong hệ thống kiểm soát nội bộ. Hơn thế
nữa, theo chức năng của mình, kiểm toán nội bộ còn góp phần hoàn thiện hệ thống
kiểm soát nội bộ thông qua việc thực hiện kiểm toán hoạt động và kiểm toán tuân
thủ, làm lành mạnh hóa và hiệu quả hóa hệ thống kiểm soát nội bộ.
1.2 Kiểm toán nội bộ.
1.2.1 Khái quát chung về kiểm toán nội bộ.
a) Sự hình thành và phát triển của kiểm toán nội bộ.
Hoạt động của kiểm toán nói chung đã xuất hiện từ lâu trên thế giới. Sự phát
triển về kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia qua thời gian đã làm cho hoạt động kiểm
toán ngày càng phát triển và trở thành nhu cầu không thể thiếu đợc của các quốc gia.
So với kiểm toán độc lập và kiểm toán nhà nớc thì loại hình kiểm toán nội bộ ra
đời muộn hơn, bắt đầu từ năm 1940 mới xuất hiện khái niệm kiểm toán nội bộ. Nhng
nó có sự phát triển rất mạnh mẽ đặc biệt trong công việc quản trị doanh nghiệp. Các
đơn vị kinh tế cơ sở phát hiện ra rằng hệ thống kiểm toán nội bộ là phơng tiện quản
lý có hiệu quả và là công cụ đắc lực giúp cho các nhà quản lý giám sát đợc toàn bộ
các hoạt động của đơn vị mình. Không những thế, trong các cơ quan nhà nớc việc
hình thành các bộ phận kiểm toán nội bộ để kiểm tra thờng xuyên các hoạt động
trong cơ quan đang tỏ ra có nhiều tác dụng thiết thực.
Với sự lớn mạnh và gia tăng quy mô các doanh nghiệp vài thập niên gần đây,
tầm quan trọng kiểm toán nội bộ cũng lớn mạnh một cách tơng ứng, làm cho nó trở
thành yếu tố chính trong việc thiết lập hệ thống kiểm soát và kiểm tra nội bộ. ở một
số nớc, cơ quan lập pháp đã đa ra những văn bản pháp luật nhằm tạo ra hành lang
pháp lý để tạo điều kiện cho kiểm toán nội bộ hoạt động và phát triển. Bộ phận kiểm

toán nội bộ đã phát triển cực nhanh ở Mỹ cũng nh ở châu Âu từ những năm 60. Sự
phát triển này đã đợc khuyến khích bởi sự thành lập của tổ chức Kiểm toán nội bộ
(IIA) năm 1941 tại NewYork, tổ chức này đã xác định bản chất, mục tiêu và phạm vi
hoạt động của bộ phận kiểm toán nội bộ. Tổ chức kiểm toán nội bộ là thành viên của
Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) và INTOSAI, đồng thời nó chuyên sâu nghiên cứu,
đào tạo, bồi dỡng cấp chứng chỉ cho các kiểm toán viên nội bộ (CIA).
b) Bản chất của kiểm toán nội bộ.
Thuật ngữ kiểm toán thực sự mới xuất hiện và đợc sử dụng ở Việt Nam từ
những năm đầu của thập kỷ 90. Trên thế giới thuật ngữ kiểm toán đã có từ lâu, từ khi
xuất hiện nhu cầu xác định tính trung thực, độ tin cậy của các thông tin báo cáo tài
chính, kế toán và thực trạng tài sản của một chủ thể trong quan hệ kinh tế. Hiện có
nhiều quan niệm khác nhau về kiểm toán, song có thể hiểu đợc bản chất của kiểm
toán qua định nghĩa: Kiểm toán là sự xem xét và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt
động đợc kiểm toán bằng hệ thống phơng pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và
ngoài chứng từ do các kiểm toán viên có trình độ nghiệp vụ tơng xứng thực hiện
trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực. Hoặc qua khái niệm khá phổ biến sau:
Kiểm toán là quá trình mà theo đó một cá nhân độc lập có thẩm quyền thu thập
và đánh giá các bằng chứng về các thông tin số lợng có liên quan đến một tổ chức
kinh tế cụ thể nhằm mục đích xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa thông tin
số lợng đó với các chuẩn mực đã đợc xây dựng.
Kiểm toán gồm nhiều loại hình khác nhau. Nếu căn cứ vào chủ thể kiểm toán
(một tiêu thức phân loại phổ biến) thì kiểm toán bao gồm: kiểm toán độc lập, kiểm
toán Nhà nớc và kiểm toán nội bộ. Các loại hình kiểm toán này khác nhau về chức
năng, tính chất, địa vị pháp lý, phạm vi và hoàn toàn không thể thay thế cho nhau
(Phụ lục 1.1). Trong đó kiểm toán nội bộ là loại kiểm toán do các kiểm toán viên nội
bộ của đơn vị tiến hành. Lịch sử phát triển hoạt động kiểm toán ở các nớc có nền
kinh tế thị trờng cho thấy kiểm toán nội bộ là một nghề nghiệp mới mẻ. Tuy lúc đầu
kiểm toán nội bộ mang tính chất không chuyên, không tồn tại ở các doanh nghiệp
hoặc đợc coi nh một phần của kiểm toán độc lập, nhng về sau nó đã trở thành một
nghề có tính chuyên nghiệp.

Một cách cơ bản có thể hiểu kiểm toán nội bộ là một bộ phận đợc lập ra trong
một đơn vị, thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát để giúp các nhà quản lý cấp
cao trong đơn vị đó gia tăng đợc quyền lực của mình nhằm quán xuyến đợc các
hoạt động đã và đang diễn ra trong đơn vị, bao gồm: những quy tắc đặt ra có đợc
tuân thủ không? Tài sản có đợc toàn vẹn không? Cán bộ, CNV làm việc có hiệu
quả không? Các quy định hiện hành có phù hợp khi điều kiện thay đổi? Đánh giá
tính chính xác của các báo cáo tài chính......
Ta có thể hiểu kiểm toán nội bộ một cách đúng nhất là loại hình kiểm soát có tổ
chức mà chức năng là đo lờng và đánh giá hiệu quả của những việc kiểm tra kiểm
soát khác và nó mang tính nội kiểm. Khi một tổ chức đặt ra kế hoạch ở tất cả các vị
trí và thực hiện kế hoạch đó qua các nghiệp vụ thì phải có những việc gì để theo dõi
nhiệm vụ nhằm bảo đảm đạt đợc các mục tiêu đã định. Những việc làm tiếp theo đó
có thể hiểu là những việc kiểm soát. Chức năng của kiểm toán nội bộ tự nó cũng là
loại kiểm soát khác, nhng công việc kiểm tra nội bộ có đặc biệt quan trọng là giúp đo
lờng và đánh giá những kiểm soát đó. Nh vậy kiểm toán nội bộ vừa phải hiểu vai trò
của mình là một kiểm soát, vừa phải hiểu tính chất và phạm vi của các loại hình kiểm
soát khác. Nh vậy, kiểm toán nội bộ cũng là hoạt động kiểm toán nhng lại mang màu
sắc riêng của mình. Chính bản thân thuật ngữ kiểm toán nội bộ cũng phần nào phản
ánh đợc những nét riêng đó và thể hiện đợc bản chất của hoạt động này.
ở một góc độ khác, kiểm toán nội bộ là một yếu tố cơ bản trong hệ thống kiểm
soát nội bộ. Thực vậy, kiểm soát nội bộ là một hệ thống các chính sách, thủ tục đợc
thiết lập tại đơn vị nhằm bảo đảm hợp lý cho các nhà quản lý nhằm đạt đợc 4 mục
tiêu sau:
- Bảo đảm tài sản và sổ sách kế toán.
- Bảo đảm tính tin cậy của thông tin.
- Bảo đảm và duy trì kiểm tra việc tuân thủ các chính sách có liên quan đến
hoạt động của đơn vị.
- Bảo đảm hiệu quả của hoạt động và hiệu năng quản lý.
Hệ thống kiểm soát nội bộ đợc chia thành 3 bộ phận: môi trờng kiểm soát, hệ
thống kế toán và các thủ tục kiểm soát.

Trong đó, môi trờng kiểm soát là toàn bộ những nhân tố có ảnh hởng đến quá
trình thiết kế, vận hành và tính hữu hiệu của kiểm soát nội bộ và bao gồm những yếu
tố cơ bản sau: đặc thù về quản lý, cơ cấu tổ chức, chính sách nhân sự, công tác kế
hoạch, Uỷ ban kiểm toán và kiểm toán nội bộ.
Theo mối quan hệ này, kiểm toán nội bộ đợc xem là một bộ phận chịu trách
nhiệm thực hiện kiểm tra, giám sát và đánh giá thờng xuyên về hoạt động của đơn vị,
qua đó phát hiện những sai phạm làm thất thoát tài sản, đề xuất những biện pháp cải
tiến hoạt động.
Trong quan hệ với hệ thống kiểm tra tài chính Nhà nớc, khái niệm kiểm toán
nội bộ có thể đợc cụ thể nh sau: Kiểm toán nội bộ là một hoạt động nội kiểm có tính
độc lập trong các cơ quan, đơn vị kinh tế thực hiện chức năng là kiểm tra đánh giá
các hoạt động tài chính và phi tài chính nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động đó và
góp phần hoàn thiện hệ thống quản lý tại các đơn vị kinh tế cơ sở.
Nói tóm lại, các định nghĩa đã nêu tuy có khác nhau về từ ngữ với ý nghĩa cụ
thể xác định song chung quy đều bao hàm vào khái niệm kiểm toán nội bộ với các
yếu tố cơ bản sau:
1. Chức năng của kiểm toán nội bộ là kiểm tra, giám sát và đánh giá.
2. Nội dung trực tiếp của kiểm toán nội bộ không chỉ giới hạn trong thực trạng
hoạt động tài chính mà cả những lĩnh vực khác của quản lý.
3. Để thực hiện chức năng trên phạm vi của hoạt động tài chính cũng nh phi tài
chính với nhiều mối quan hệ phức tạp đòi hỏi kiểm toán nội bộ phải hình
thành một hệ thống phơng pháp kiểm toán riêng dựa trên hệ thống phơng pháp
kiểm toán nói chung gồm các thủ tục: quan sát, kiểm kê thực tế, xác minh, thu
thập và đánh giá các bằng chứng, tính toán, so sánh, phân tích, kiểm tra trên
máy tính; tổng hợp, lựa chọn thông tin, xác định nguyên nhân và mức độ liên
quan, đánh giá khác....
4. Chủ thể kiểm toán nội bộ là những kiểm toán viên nội bộ có trình độ nghiệp
vụ tơng xứng với công việc đảm nhận và độc lập tơng đối với các bộ phận
khác trong đơn vị.
Nh vậy, kiểm toán nội bộ hình thành và phát triển xuất phát từ nhu cầu quản

lý của bản thân doanh nghiệp. kiểm toán nội bộ thực hiện chức năng đánh giá một
cách độc lập và khách quan cơ cấu kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp. Phạm vi
hoạt động của kiểm toán nội bộ bao gồm tất cả các mặt hoạt động của của doanh
nghiệp và ở tất cả các cấp quản lý khác nhau. Kiểm toán nội bộ xem xét, đánh giá
và báo cáo về thực trạng của hệ thống kiểm soát nội bộ, đa ra những phân tích,
kiến nghị, t vấn mang tính chất chuyên nghiệp để lãnh đạo doanh nghiệp có cơ sở
tin cậy trong việc quản lý thành công các hoạt động của doanh nghiệp.
1.2.2 Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu và quyền hạn của kiểm toán nội bộ.
* Chức năng của kiểm toán nội bộ.
Kiểm toán nội bộ hình thành do nhu cầu quản lý nên chức năng của nó cũng trải
qua quá trình phát triển từ thấp tới cao cùng với khoa học quản lý kinh tế, trình độ và
kinh nghiệm quản lý của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp. Mặc dù theo kinh nghiệm
của các nớc có nền kinh tế thị trờng phát triển, chức năng của kiểm toán nội bộ hiện
đại là đánh giá độc lập hệ thống kiểm soát nội bộ, nhng chức năng truyền thống của
kiểm toán nội bộ là xem xét, đánh giá độ tin cậy, thống nhất của các thông tin tài
chính, đánh giá việc sử dụng tiết kiệm, hữu hiệu vốn và tài sản của doanh nghiệp.
Chính vì thế, việc quy định chức năng, nhiệm vụ cho kiểm toán nội bộ cần phải xem
xét phù hợp với điều kiện cụ thể của từng quốc gia, từng khu vực kinh tế, từng ngành
và từng đơn vị cụ thể.
* Nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ.
Về cơ bản nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ bao gồm các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: Kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của các chứng từ, tài liệu, số liệu kế
toán, việc chấp hành chế độ, thể lệ kế toán tài chính của nhà nớc, kiểm tra việc tuân
thủ các chính sách, các quy định, các kế hoạch và các thủ tục hiện hành.
Các kiểm toán viên nội bộ phải kiểm tra các hệ thống thiết lập xem có sự bảo
đảm sự tuân thủ với các chính sách, thủ tục, biện pháp và các quy định mà có thể tác
động quan trọng đến mọi hoạt động của tổ chức. Tiếp nối với chức năng này, trong
một số trờng hợp và nếu đợc phép của Uỷ ban quản trị tối cao, các kiểm toán viên nội
bộ đánh giá tính hợp lý và sự u việt của các chính sách, quy định, kế hoạch trớc khi
đi đến việc xác định mức độ tuân thủ. Họ sẽ chỉ ra khoản lợi nhuận (hay tiết kiệm đ-

ợc) từ các hoạt động bởi việc tuân thủ thích đáng các chính sách, các kế hoạch và thủ
tục đợc lập ra và các mất mát nếu không có sự tuân thủ đó. Bên cạnh đó, các kiểm
toán viên nội bộ phải kiểm tra tính pháp lý của các thông tin kế toán với chuẩn mực
là các quy định pháp chế của Nhà nớc.
Thứ hai: Kiểm tra tính trung thực và độ tin cậy của thông tin trong đó chủ yếu
là kiểm tra và xác định mức độ trung thực, hợp lý của các báo cáo quyết toán do kế
toán và các bộ phận khác trong doanh nghiệp lập ra.
Kiểm toán viên nội bộ phải kiểm tra tính trung thực và độ tin cậy của thông tin
không chỉ của bản thân các thông tin tài chính mà cả các hoạt động và phơng tiện đ-
ợc sử dụng để xác minh, đo đạc, phân loại và báo cáo các thông tin đó. Việc kiểm tra
hệ thống thông tin này là cơ sở để khẳng định các sổ sách và báo cáo tài chính chứa
đựng các thông tin chính xác, kịp thời và hữu ích. Các kiểm toán viên nội bộ thực
hiện kiểm tra các báo cáo tài chính của doanh nghiệp trong hai trờng hợp:
- Trờng hợp thứ nhất với mục đích giúp chủ Doanh nghiệp hay nhà quản lý
của Doanh nghiệp kiểm tra lại các thông tin tài chính, kiểm toán viên nội bộ
tiến hành kiểm tra, soát xét việc tính toán, phân loại báo cáo, thẩm định cụ
thể các khoản mục cá biệt (kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ, các số d tài
khoản). Điều này cũng có tác dụng giảm phí kiểm toán của các kiểm toán
viên độc lập khi công việc của kiểm toán viên nội bộ đạt hiệu quả tốt.
- Trờng hợp thứ hai công việc kiểm tra đợc thực hiện nhằm hoàn thiện việc
thẩm tra các lĩnh vực khác để có thể đa ra kết luận. Việc kiểm tra các báo
cáo tài chính trở thành hoạt động bổ trợ đối với nhiệm vụ kiểm toán chính.
Thứ ba: Kiểm tra việc tuân thủ các mục tiêu đề ra đối với các chơng trình hay
các hoạt động nghiệp vụ. Kiểm tra xác nhận giá trị vốn góp của Doanh nghiệp và các
đối tác tham gia liên doanh với doanh nghiệp. Kiểm tra xác nhận tính trung thực, hợp
lý, đầy đủ của số liệu kế toán và báo cáo quyết toán của đơn vị liên doanh.
Kiểm toán viên nội bộ phải kiểm tra các hoạt động hay chơng trình để xem xét
kết quả thu đợc có phù hợp với mục tiêu đề ra hay không và các hoạt động, chơng
trình đó có đợc thực hiện theo kế hoạch đã định hay không. Bên cạnh đó, kiểm toán
viên nội bộ cần trợ giúp cho những ngời lãnh đạo khi xây dựng các mục tiêu cho các

chơng trình bằng việc xác định xem những giả thiết, dữ liệu quan trọng có hợp lý
không, những thông tin hiện thời có chính xác và có đợc sử dụng không và hệ thống
kiểm tra kiểm soát có đợc thiết lập trong các hoạt động hay chơng trình không. Đánh
giá các vấn đề liên quan đến liên doanh liên kết trong hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp cũng là những mục tiêu quan trọng mà các kiểm toán viên nội bộ phải
thực hiện, bao gồm: đánh giá các báo cáo kế toán liên doanh liên kết, xác định giá
trị liên doanh của Doanh nghiệp và việc bảo toàn vốn liên doanh, liên kết...
Thứ t: Kiểm tra các phơng tiện bảo đảm an toàn cho tài sản. Kiểm tra tính hiệu
quả và pháp lý của hệ thống kiểm soát nội bộ trong đó có hệ thống kế toán. Giám sát
sự hoạt động và tham gia hoàn thiện chúng.
Các kiểm toán viên nội bộ phải kiểm tra các phơng tiện đợc sử dụng để đảm bảo
an toàn cho các tài sản để tránh các mất mát khác nhau nh ăn trộm hoặc hỏa hoạn....
Mặt khác, kiểm toán viên nội bộ cần có những kiến nghị cho nhà quản lý để
phòng ngừa các hành vi bất hợp pháp xâm phạm tài sản của đơn vị, tổ chức.
Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ là một trong những nhiệm vụ của kiểm toán
nội bộ, xem xét hệ thống kế toán hoạt động có hiệu quả và bảo đảm độ tin cậy hay
không, đồng thời qua đó đa ra các kiến nghị cũng nh các giải pháp để hoàn thiện hệ
thống đó.
Thứ năm: Đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ và hiệu quả hoạt động của các
nguồn lực.
Kiểm toán viên nội bộ phải đánh giá chất lợng thực hiện các nhiệm vụ đợc giao.
Việc thực hiện này liên quan đến các nhóm hay các nhân viên của đơn vị. ở đây
kiểm toán nội bộ không chỉ quan tâm tới việc các nhóm hay các nhân viên thực hiện
công việc của họ có mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho Doanh nghiệp hay không? Do
các công việc (đặc biệt là trong lĩnh vực kỹ thuật) rất đa dạng trong một tổ chức kinh
tế nên để hoàn thành đợc nhiệm vụ trên, bộ phận kiểm toán phải tuyển chọn đợc
những ngời có trình độ nghiệp vụ tơng xứng.
Thứ sáu: Thẩm tra các thủ tục kiểm soát để xác định tính thích hợp và u việt của
nó. Kiểm tra tính hiệu quả và tính pháp lý của quy chế kiểm soát nội bộ, đồng thời có
kiến nghị hoàn thiện các quy chế này.

Thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ đồng thời kiểm toán nội bộ phải thực hiện
việc giám sát thực hiện các quy chế kiểm soát nội bộ đã đề ra, qua đó phát hiện
những điểm cha hợp lý để tham gia hoàn thiện chúng.
Mục đích của việc thẩm tra tính thích hợp của kiểm toán nội bộ để khẳng định
rằng hệ thống kiểm toán nội bộ vận hành đều đặn và có hiệu quả, đáp ứng mọi mục
tiêu đã định trớc. Việc thẩm tra sẽ phơi bày mọi hành vi gian lận, không bình thờng
và gây lãng phí với bản chất lặp đi lặp lại nhằm ngăn chặn và giảm thiểu chúng.
Thứ bảy: Các nhiệm vụ đặc biệt khác.
Ngoài các nhiệm vụ chính trên, kiểm toán nội bộ có thể đợc giao bất cứ nhiệm
vụ gì mà có ích cho Ban Giám đốc chẳng hạn nh: điều tra về cá nhân, đại diện cho
Ban giám đốc hoặc giám sát trong các thoả thuận, tham gia vào các chơng trình đào
tạo đơn vị.
Thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ trên, kiểm toán nội bộ có trách nhiệm h-
ớng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ kế toánvà các cán bộ nghiệp vụ khác có liên quan, đề
xuất các quyết định quản lý, xử lý về tài chính kế toán và các nội dung xử lý khác.
* Quyền hạn của kiểm toán nội bộ.
Do đặc trng của kiểm toán nội bộ là thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu nêu trên,
cho nên kiểm toán nội bộ có những quyền hạn riêng để đảm bảo mục đích hoạt động.
Kiểm toán nội bộ có quyền:
- Kiểm toán nội bộ độc lập với các bộ phận khác trong doanh nghiệp, độc lập
về chuyên môn nghiệp vụ trong phạm vi khuôn khổ pháp luật và các chuẩn
mực, phơng pháp nghiệp vụ chuyên môn.
- Có quyền yêu cầu các bộ phận và các cá nhân có liên quan cung cấp đầy đủ,
kịp thời các tài liệu về kế toán, tài chính và các tài liệu khác có liên quan tới
nội dung đợc kiểm toán.
- Có quyền đối chiếu xác minh các thông tin kinh tế có liên quan tới đối tợng
đợc kiểm toán ở trong và ngoài doanh nghiệp.
- Có quyền kiến nghị với chủ thể đợc kiểm toán có biện pháp sửa chữa sai
phạm và có quyền ghi kiến nghị của mình vào báo cáo kiểm toán.
- Đề xuất với lãnh đạo doanh nghiệp những kiến nghị và biện pháp về quản lý.

Đó là một số quyền hạn cơ bản của kiểm toán nội bộ, bên cạnh đó tùy thuộc
vào từng doanh nghiệp, từng điều kiện mà kiểm toán nội bộ có thể có thêm các
quyền khác.
1.2.3 Nội dung và phạm vi hoạt động của kiểm toán nội bộ.
a) Nội dung hoạt động của kiểm toán nội bộ.
Hoạt động của kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp thực hiện một số nội
dung chủ yếu sau:
- Rà soát lại hệ thống kế toán và các quy chế kiểm soát nội bộ có liên quan,
giám sát sự hoạt động của các hệ thống này cũng nh tham gia hoàn thiện chúng.
- Kiểm tra các thông tin tác nghiệp, thông tin tài chính, bao gồm việc soát xét
lại các phơng tiện đã sử dụng để xác định, tính toán, phân loại và báo cáo những
thông tin này, kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ, các số d và các bớc công việc.
- Kiểm tra tính hiệu quả, sự tiết kiệm và hiệu suất của các hoạt động, kể cả
các quy định không có tính chất tài chính của doanh nghiệp.
Nh vậy, lĩnh vực hoạt động của kiểm toán nội bộ bao gồm cả kiểm toán tài
chính và kiểm toán nghiệp vụ trong doanh nghiệp. Kiểm toán nội bộ là kiểm toán
hoạt động để đánh giá tính kinh tế, tính hữu hiệu và hiệu quả hoạt động của các bộ
phận trong doanh nghiệp. Bên cạnh đó kiểm toán nội bộ cũng tiến hành các nội
dung kiểm toán tuân thủ để xem xét việc chấp hành các chính sách, quy định của
doanh nghiệp.
b) Phạm vi hoạt động của kiểm toán nội bộ.
Miền xác định hoạt động của kiểm toán nội bộ khá rộng lớn. Thật vậy, để đạt
đợc mục tiêu chung nhất của hoạt động kiểm toán nội bộ, các kiểm toán viên phải
tham gia vào các quá trình trong mọi hoạt động của đơn vị hay tổ chức kinh tế, kiểm
toán viên nội bộ phải đảm nhận tất cả các loại công việc mà không một loại hình
kiểm toán đơn lẻ nào có thể đáp ứng đợc.
Những chức năng của hoạt động kiểm toán sẽ đa kiểm toán viên tới tất cả các
lĩnh vực trong doanh nghiệp. Các lĩnh vực cụ thể để đánh giá và kiểm toán trong
phạm vi hoạt động của kiểm toán nội bộ là:
* Đánh giá:

Công việc của kiểm toán nội bộ thờng đợc tiến hành trong nội bộ doanh nghiệp
trong đó đánh giá một trong những phần hành không thể thiếu với bất kỳ một cuộc
kiểm toán nội bộ nào. Phạm vi của công việc đánh giá trong cuộc kiểm toán nội bộ
thờng bao gồm:
- Các kế hoạch và mục tiêu của các nhà quản lý.
- Các quy định và chính sách hiện hành cho việc thực hiện các kế hoạch và mục
tiêu trên.
- Kiểm soát nội bộ và mức độ giám sát.
- Hoạt động nhân sự và các chơng trình đào tạo.
* Theo tính chất của cuộc kiểm toán.
Tùy theo từng loại hình kiểm toán mà phạm vi kiểm toán có những sự khác
nhau cơ bản.
Đối với kiểm toán tài chính.
Do việc kiểm toán báo cáo tài chính chủ yếu tập trung vào việc xác định tính
trung thực, chính xác của các báo cáo tài chính cho nên phạm vi của cuộc kiểm toán
tài chính thờng giới hạn trong phạm vi các bảng khai tài chính của đơn vị. Ngoài ra
có thể mở rộng phạm vi hoạt động của cuộc kiểm toán nội bộ về báo cáo tài chính
sang một số lĩnh vực khi cần thiết để phục vụ cho mục đích xác định tính đúng đắn
của các bảng khai tài chính đợc lập.
Đối với kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động.
Do mục tiêu của kiểm toán tuân thủ và cuộc kiểm toán hoạt động là đánh giá
tính hiệu năng và hiệu quả của hệ thống cũng nh của các hoạt động, cho nên phạm vi
của các cuộc kiểm toán này thờng mở rộng trên phạm vi toàn đơn vị và ở tất cả các
lĩnh vực hoạt động, các vấn đề có liên quan. Phạm vi hoạt động của nó rộng hơn
nhiều so với kiểm toán tài chính.
1.2.4 Các loại hình kiểm toán nội bộ.
a) Theo phân loại chung phổ biến hiện nay, hoạt động kiểm toán có 3 loại
hình: Kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán tài chính.
* Kiểm toán hoạt động (Operational Audit):
Kiểm toán hoạt động là việc kiểm toán để đánh giá tính hữu hiệu (hiệu lực) và

tính hiệu quả trong hoạt động của một bộ phận hay toàn bộ một tổ chức, một đơn vị.
- Tính hiệu lực là khả năng hoàn thành các mục tiêu hay nhiệm vụ đề ra.
- Tính hiệu quả là việc đạt đợc kết quả cao nhất với chi phí bỏ ra thấp nhất.
Đối tợng của kiểm toán hoạt động rất đa dạng, từ việc đánh giá mộ phơng án
kinh doanh, một quy trình công nghệ, một loại tài sản thiết bị mới đa vào hoạt động
hay việc luân chuyển chứng từ trong một đơn vị..... Vì thế, khó có thể đa ra một
khuôn mẫu cho loại hình kiểm toán này. Đồng thời, tính hiệu lực và hiệu quả của quá
trình hoạt động rất khó đợc đánh giá một cách khách quan so với tính tuân thủ và
tính trung thực, hợp lý của báo cáo tài chính. Thay vào đó, việc xây dựng các chuẩn
mực để đánh giá các thông tin có thể định lợng trong một cuộc kiểm toán hoạt động
là một việc mang nặng tính chất chủ quan.
Trong kiểm toán hoạt động, việc kiểm tra thờng vợt ra khỏi phạm vi công tác kế
toán - tài chính mà liên quan đến nhiều lĩnh vực. Vì vậy, kiểm toán hoạt động sử
dụng nhiều kỹ năng khác nhau: kế toán, tài chính, kinh tế, kỹ thuật, khoa học... Sản
phẩm của kiểm toán hoạt động là bản báo cáo cho ngời quản lý về kết quả kiểm toán
và những ý kiến đề xuất cải tiến hoạt động.
* Kiểm toán tuân thủ (Compliance Audit):
Kiểm toán tuân thủ là xác định liệu bên đợc kiểm toán có tuân thủ các thủ tục
hoặc các nguyên tắc quy định đặc thù mà cơ quan có thẩm định quyền hoặc đơn vị
đã đề ra hay không. Kiểm toán tuân thủ đối với một tổ chức hay một cá nhân có thể
bao gồm việc xác định cá nhân kế toán viên có tuân thủ các thủ tục mà kế toán trởng
đã đề ra, cấp có thẩm quyền phê duyệt hay không. Hoặc là một nhân viên thanh toán
có cháp hành các quy định trong quan hệ thanh toán của đơn vị đã đề ra hay không...
Khi kiểm toán tuân thủ đối với cá nhân, tổ chức, kiểm toán viên nhằm vào đánh
giá việc chấp hành chính sách đã đề ra, các thoả hiệp và các quy định về pháp lý. Kết
quả kiểm toán tuân thủ sẽ đợc báo cáo cho ngời nào đó có trách nhiệm cao nhất đơn
vị.
* Kiểm toán tài chính (Audit of Financial Statements):
Kiểm toán tài chính là kiểm tra xác nhận xem các bảng khai tài chính đợc lập
có trung thực và hợp lý hay không, có phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực kế

toán thông dụng đã đợc chấp nhận hay không... Kết quả kiểm toán báo cáo tài chính
sẽ đợc báo cáo với ngời hoặc tổ chức yêu cầu hoặc đợc dùng công khai số liệu báo
cáo tài chính.
b) Dựa vào thời gian tiến hành cuộc kiểm toán, có các loại hình kiểm toán:
Kiểm toán trớc quá trình hoạt động, kiểm toán trong quá trình hoạt động và kiểm
toán sau quá trình hoạt động.
* Kiểm toán trớc quá trình hoạt động: Chủ yếu là kiểm tra tính khả thi, tính
hiệu quả các dự án, kế hoạch nhằm giúp các cấp ra quyết định quản lý có đợc những
thông tin và sự đảm bảo chắc nhắn về các quyết định của mình.
* Kiểm toán trong quá trình hoạt động: Mục đích nhằm giúp các nhà quản lý
điều chỉnh những sai lệch thiếu sót khi thực hiện kế hoạch hoặc điều chỉnh các hoạt
động để đảm bảo tối u về hiệu quả các hoạt động đang và tiếp tục diễn ra.
* Kiểm toán sau quá trình hoạt động: Nhằm mục đích thẩm định tính hợp lý
trung thực và độ tin cậy của các thông tin trong các báo cáo tình hình hoạt động của
một tổ chức, cá nhân. Trong đó nội dung chủ yếu kiểm toán sau quá trình hoạt động
là kiểm toán các báo cáo tài chính.
c) Dựa vào công việc cụ thể của hoạt động kiểm toán, các loại hình kiểm toán
đợc chia thành:
* Kiểm toán bộ phận:
Kiểm toán bộ phận bao trùm lên tất cả các hoạt động tại một thời điểm đợc
quản lý bởi một giám đốc điều hành. Địa điểm này có thể là một chi nhánh công sở,
một bộ phận trong một đơn vị kinh doanh, một nhà máy nhỏ trong một Tổng Công ty
lớn. Loại kiểm toán này đợc chọn để đánh giá tất cả các hoạt động trong phạm vi một
bộ phận nh việc quản lý tiền mặt, vật t, các hệ thống sản xuất kinh doanh trong đơn
vị, cơ cấu tổ chức, hoạt động nhân sự. Trong khi tiến hành kiểm toán bộ phận, kiểm
toán viên chủ yếu tập trung vào các hoạt động trong phạm vi bộ phận đó và thờng
không vợt quá ranh giới này.
Mục tiêu của kiểm toán bộ phận là xác minh tính hiệu quả các hoạt động của bộ
phận đợc kiểm toán. Vì vậy, kiểm toán viên nội bộ quan tâm tới chất lợng của kiểm
soát nội bộ trong phạm vi đơn vị, việc tuân thủ các chính sách, chế độ và quy định

đặt ra, tính hiệu quả trong các hoạt động, tính chính xác và độ tin cậy của các dữ liệu
trong các sổ sách và báo cáo.
Loại hình kiểm toán này thờng đợc dùng trong bộ phận kho bạc, bộ phận thu
mua, các văn phòng chuyên môn và các chi nhánh hay các đơn vị, bộ phận tơng đ-
ơng.
* Kiểm toán chức năng:
Kiểm toán chức năng là loại kiểm toán trong đó các bớc kiểm toán cụ thể và
xuyên suốt một vài bộ phận trong tổ chức. Nói cách khác quy trình kiểm toán đợc
thiết lập nhằm kiểm tra hoạt động của một chức năng riêng biệt từ khi bắt đầu đến
khi kết thúc và thông thờng hoạt động này liên quan tới một vài bộ phận hay phòng
ban trong tổ chức.
Trong kiểm toán chức năng, kiểm toán viên nội bộ kiểm tra, đánh giá tính hiệu
quả và các điều kiện hoạt động của một chức năng. Qua đó ngời ta phát hiện đợc
những khuyết điểm trong công tác kiểm soát nội bộ, tìm ra các cách khác nhau để
thực hiện một mục đích hay so sánh tính hiệu quả việc thực hiện một chức năng ở
những nơi khác nhau.
Loại hình kiểm toán này đợc sử dụng để kiểm toán các chức năng nh: thanh
toán tiền lơng, mua bán hàng hóa, nguyên vật liệu, quản lý tiền mặt, các hoạt động
vận tải và hoạt động điều phối...
* Kiểm toán các hoạt động quản trị:
Kiểm toán hoạt động quản trị là sự đánh giá đối với một lĩnh vực nhất định, đối
với một đơn vị trong tổ chức hoặc đối với một chức năng cụ thể. Phạm vi của kiểm
toán hoạt động quản trị có thể chỉ là một chức năng nh hoạt động nhân sự,
marketing, tài chính hay mua bán; nó có thể là một cuộc kiểm toán về tay nghề và
trình độ nhận thức của ngời lao động và nó có thể là cuộc kiểm toán toàn bộ các hoạt
động của một tổ chức. Kiểm toán quản trị có thể áp dụng cho một đơn vị có vài ngời
hay cho một ban có hàng ngàn ngời. Kiểm toán quản trị là một có một vài thể thức
đánh giá, đó là: So sánh những việc đã thực hiện đợc với kế hoạch đề ra, so sánh kết
quả đạt đợc với các tiêu chuẩn hay so sánh những diễn biết thực tế với phơng hớng,
chính sách đã hoạch định. Mục đích của kiểm toán quản trị là xác định xem đơn vị

hay chức năng đợc kiểm toán hoạt động nh thế nào để thực hiện các mục tiêu của tổ
chức.
Khi tiến hành cuộc kiểm toán, kiểm toán viên nội bộ triển khai nhiệm vụ của
mình theo các khía cạnh cụ thể sau:
- Xem xét các mục tiêu đợc tổ chức lập ra cho lĩnh vực đợc kiểm toán và các kế
hoạch, chính sách đề ra nhằm đạt đợc các mục tiêu đó.
- Xác định mức độ tuân thủ các kế hoạch, chính sách đề ra và những quy định
khác trong các hoạt động của lĩnh vực đợc kiểm toán.
- Đánh giá cơ cấu kiểm soát nội bộ.
- Đánh giá chất lợng thực hiện mục tiêu và mức độ giám sát.
- Đánh giá kết quả hay lợi ích tổng thể đem lại cho tổ chức khi thực hiện đợc
các mục tiêu đề ra.
* Kiểm toán cân đối thử:
Kiểm toán cân đối thử là kiểm tra các thông tin tài chính đợc thực hiện bởi các
kiểm toán viên nội bộ thực hiện thông qua việc tính toán, phân loại và thẩm định cụ
thể các tài khoản. Kiểm toán cân đối thử đợc tiến hành theo yêu cầu của nhà quản lý
nhằm giám sát việc xây dựng báo cáo tài chính trog những trờng hợp khác. Trong tổ
chức kinh tế, kiểm toán viên nội bộ thẩm tra các thông tin tài chính qua hệ thống sổ
sách kế toán với nguyên tắc tiếp cận trên hai mặt: kiểm tra và phân tích. Thông qua
việc kiểm toán cân đối thử, kiểm toán viên nội bộ cũng liên tục đánh giá đợc các hoạt
động có chứa đựng các hoạt động tài chính trong một tổ chức.
* Kiểm toán điều hành:
Kiểm toán điều hành là việc tham gia và đánh giá các lĩnh vực về quản lý và
không bao gồm các vấn đề tài chính kế toán. Kiểm toán điều hành đợc kiểm toán
viên nội bộ sử dụng để xem xét toàn bộ hoạt động quản lý và điều hành trong một tổ
chức. Mục đích của kiểm toán điều hành là đánh giá tính đầy đủ và tính hiệu lực của
các bộ phận cấu thành trong toàn bộ hệ thống kiểm soát nội bộ.
* Kiểm toán toàn diện:
Kiểm toán toàn diện là loại hình kiểm toán hiện đại đợc tiến hành theo yêu cầu
của các nhà quản lý với sự kết hợp một vài loại hình kiểm toán. Kiểm toán toàn diện

đợc thực hiện dựa vào phơng pháp tiếp cận tổng hợp mà qua đó một vài loại hình
kiểm toán đợc thực hiện. Cuộc kiểm toán này thờng bắt đầu với việc xác định tính
tuân thủ với luật pháp, quy định và chế độ cụ thể, tiếp đến xác minh tính kinh tế và
tính hiệu quả và cuối cùng đa ra kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh
tranh cho một đơn vị hay tổ chức kinh tế.
d) Dựa vào chu kỳ của kiểm toán, có thể có các loại hình kiểm toán sau: Kiểm
toán thờng xuyên và kiểm toán định kỳ.
* Kiểm toán thờng xuyên: Là thực hiện các việc kiểm tra, xem xét liên tục,
hàng tuần, hàng tháng, trong suốt năm. Hình thức này tỏ ra khá hữu hiệu và có thể
giúp cho việc phát hiện mau chóng, kịp thời các sai sót, nhờ đó hạn chế ngăn chặn đ-
ợc các tác hại. Mặt khác do đợc thực hiện thờng xuyên, các cuộc kiểm toán này có
tác dụng ngăn chặn, phòng ngừa rất hiệu quả.
* Kiểm toán định kỳ: Trái lại với kiểm toán thờng xuyên, kiểm toán định kỳ
chỉ nhằm theo dõi tình hình qua các báo cáo tài chính kế toán hàng tháng, hàng quý
hoặc cả năm nghiên cứu, đánh giá bảng cân đối kế toán giữa năm hoặc cuối năm để
đa ra những nhận xét, kết luận, đánh giá về công việc kinh doanh của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, do khoảng cách về thời gian kiểm toán cách nhau quá xa nên nhiều
khi không mang lại kết quả mong muốn về các sai trái, tiêu cực (nếu có) đã gây ra
những hậu quả khó có thể khắc phục.
1.2.5 Vị trí, ý nghĩa và tác dụng của kiểm toán nội bộ.
Xét về vị trí của kiểm toán nội bộ trong cơ cấu tổ chức: Trong sơ đồ quản lý
doanh nghiệp, trách nhiệm và nhiệm vụ càng lớn thì vị trí càng cao. Do tính chất đặc
thù của hoạt động kiểm toán, đảm bảo tính khách quan trong công việc, bộ phận
kiểm toán nội bộ cần đợc tổ chức độc lập với các bộ phận quản lý và điều hành kinh
doanh trong doanh nghiệp và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của (Tổng) Giám đốc hoặc
HĐQT của doanh nghiệp.
ý nghĩa và tác dụng của kiểm toán nội bộ:
Kiểm toán nội bộ là một hoạt động nội kiểm sinh ra từ nhu cầu quản lý, nên tr-
ớc hết hoạt động này có ý nghĩa và tác dụng to lớn đối với các nhà quản lý. Thực vậy,
kể từ khi chính thức ra đời đến nay có sự lớn mạnh nhanh chóng trong việc áp dụng

kiểm toán nội bộ vào công việc quản trị Doanh nghiệp. Các đơn vị kinh tế cơ sở phát
hiện ra rằng hệ thống kiểm toán nội bộ là phơng tiện quản lý hiệu quả và ngày nay
nó đã tìm đợc chỗ đứng vững chắc trong các cơ quan Chính phủ, các đơn vị sản xuất
kinh doanh lớn nhỏ trên toàn cầu.
Đối với các kiểm toán viên độc lập: Họ thừa nhận kiểm toán nội bộ là công cụ
quản lý hiệu quả và là sự bổ sung cần thiết cho công việc ngoại kiểm nên luôn
khuyến khích khách hàng của mình thiết lập hệ thống kiểm toán nội bộ.
Trong hệ thống kiểm tra tài chính Nhà nớc, hệ thống kiểm toán nội bộ trong
các cơ quan hành chính sự nghiệp và các tổ chức kinh tế Nhà nớc giữ vai trò hết sức
quan trọng. Do kiểm toán nội bộ đợc đặt tại các đơn vị cơ sở nên giúp sớm phát hiện,
ngăn ngừa và xử lý các hành vi tiêu cực, gian lận trong quản lý và điều hành các hoạt
động kinh tế, tài chính, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lý;
hoàn thiện và đổi mới phong cách làm việc tại các cơ quan, đơn vị.
Về mặt lý thuyết, kiểm toán nội bộ là lực lợng độc lập trong đơn vị đợc lập ra để
kiểm tra và đánh giá những hoạt động của đơn vị và các thành viên khác trong đơn vị
đó. Trong những đơn vị nhỏ, chức năng kiểm toán nội bộ thuộc về một phần của vai
trò quản lý và đợc ngời chủ sở hữu hoặc ngời quản lý trực tiếp thực hiện. Tuy nhiên,
các hoạt động cụ thể tại các đơn vị rất đa dạng và phức tạp, hệ thống kiểm tra đã thiết
lập từ trớc khó đem lại cho ông chủ và các nhà quản lý cấp cao cái nhìn quán xuyến
đối với hoạt động đã và đang diễn ra. Những quy tắc định ra có đợc tuân thủ hay
không? Tài sản có đợc bảo vệ nguyên vẹn hay không? Công nhân viên làm việc có
hiệu năng không? Những câu trả lời này phải giao cho một ngời hoặc một số ngời
chịu trách nhiệm kiểm tra và đánh giá các hoạt động, sau đó báo cáo lại cho chủ sở
hữu hoặc ngời quản lý. Kiểm toán viên nội bộ là ngời đảm nhận công việc này.
Tóm lại kiểm toán nội bộ hoạt động đúng với chức năng của mình sẽ có ý
nghĩa và tác dụng to lớn đối với Doanh nghiệp mà trớc hết là cho những nhà quản
lý.
1.3 Các tiêu chuẩn để thiết lập bộ phận kiểm toán nội bộ.
Trên thực tế không có những tiêu chuẩn tuyệt đối quyết định việc thành lập bộ
phận kiểm toán nội bộ, nhng cũng có thể kể ra một số nhân tố mà hầu hết các

doanh nghiệp khi lập một bộ phận kiểm toán nội bộ đều cần phải quan tâm.
Quy mô của doanh nghiệp.
Quy mô, tầm vóc của doanh nghiệp là một tiêu chuẩn tiên quyết cho mục đích
thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ, ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ ít khi có bộ phận
kiểm toán nội bộ. Các doanh nghiệp lớn thờng lập ra bộ phận kiểm toán nội bộ để
giải quyết một số vấn đề phát sinh do quy mô của mình. Quy mô doanh nghiệp có
thể đợc đo lờng theo chỉ tiêu doanh thu, tổng sản lợng hay tổng số công nhân viên.
Thờng ngời ta hay lấy theo tiêu thức cuối cùng là số lợng công nhân viên. ở Pháp,
mức độ trung độ trung bình là một kiểm toán viên nội bộ cho 1000 công nhân viên.
Tiêu chuẩn theo nhân sự này chỉ ra rằng, không hẳn chỉ có sự phức tạp của những vấn
đề kỹ thuật, tài chính hay thơng mại quyết định cho sự tồn tại của đội ngũ kiểm toán
viên nội bộ, mà vấn đề quan trọng hơn hết là khoảng cách giữa Ban giám đốc và các
cấp thi hành công việc trong doanh nghiệp. Khoảng cách này có thể dẫn đến sự biến
dạng của những thông tin phản hồi về Ban giám đốc hay sự hiểu sai các quyết định
của Ban giám đốc. Bằng việc kiểm tra, giải thích các thông tin này của hệ thống kiểm
toán nội bộ sẽ làm giảm bớt hiện tợng phân tán vốn và sai lệch thông tin không thể
tránh khỏi trong các doanh nghiệp lớn.
Phạm vi hoạt động hay sự phân tán về địa lý.
Độc lập với quy mô của doanh nghiệp, việc phân tán theo địa lý của các bộ
phận, đơn vị cũng là một tiêu chuẩn chủ yếu cho việc xây dựng hệ thống kiểm toán
nội bộ, nếu xét theo khía cạnh chất lợng thông tin. Nhiều doanh nghiệp có thể có các
đơn vị trực thuộc, phụ thuộc ở các địa điểm khác nhau. Do sự cách xa về địa lý nên ở
các đơn vị trực thuộc cấp dới có thể gặp khó khăn trong việc nắm bắt đợc các thông
tin chính xác, ngợc lại, ở các đơn vị cấp trên không phải bao giờ cũng nhận đợc các
thông tin cần cho hoạt động từ các đơn vị dới quyền. Các kiểm toán viên nội bộ góp
phần giải quyết các vấn đề do việc phân tán về mặt địa lý này và việc phải đi công
tác thờng xuyên là một trong những đặc điểm công việc của kiểm toán viên.
Trong thực tế, các chuyên gia trên thế giới về kiểm toán nội bộ cho rằng các
công ty đờng sắt có thể là các công ty đầu tiên ghi nhận sự cần thiết của hoạt động
kiểm toán nội bộ. Do bản chất kinh doanh vận tải hành khách và hàng hoá rất phân

tán, lẻ tẻ nên họ chấp nhận kiểm toán nội bộ nh một trong những phơng tiện cơ bản
để kiểm tra các hoạt động riêng lẻ rộng lớn của mình. Tơng tự nh vậy, hoạt động
kiểm toán nội bộ đã xâm nhập vào các công ty kinh doanh điện, ga và khí đốt, các
tập đoàn xăng dầu vốn có phạm vi hoạt động rất lớn.
Mức độ phân cấp quản lý trong đơn vị.
Trong các doanh nghiệp mà quyền quyết định đợc uỷ quyền hoặc giao cho từng
trung tâm thực hiện thì việc phân quyền, phân cấp quản lý chỉ có thể thực hiện đợc
khi có các mục tiêu, thủ tục và hệ thống hành chính là đủ rõ và khi một số biện pháp
kiểm tra sau đó đợc tiến hành (nhất là kiểm tra trên kết quả và hiệu năng). Các rủi ro,
sai sót thông tin quản lý có thể tồn tại ở 3 mức:
- Rủi ro trong việc hiểu sai các mục tiêu, nội dung của các chính sách quản lý
do các bộ phận thực hiện. Việc tuân thủ các mục tiêu này là điều kiện đảm
bảo cho sự thành công của cơ cấu phân quyền, phân cấp trong quản lý thông
qua hệ thống hành chính thờng trực.
- Rủi ro về độ trung thực của các thông tin cung cấp từ các bộ phận, chẳng
hạn nh việc cố gắng cải thiện một cách giả tạo các chỉ số đánh giá hiệu
năng.
- Rủi ro trong việc không tuân thủ các chính sách, các quy chế quản lý quy
định cho các bộ phận thực hiện.
Nh vậy kiểm toán nội bộ là cần thiết để đảm bảo rằng các chính sách quản lý đ-
ợc tuân thủ trong tất cả các phòng, ban và các đơn vị trực thuộc.
Năng lực, trình độ của nhân viên.
Ngay cả khi những doanh nghiệp lớn, phân tán về mặt địa lý và chính sách quản
lý là phân quyền thì tất cả các thông tin đều có thể tin cậy nếu nh có một đội ngũ cán
bộ, nhân viên có trình độ, năng lực cao và đồng nhất, cũng nh khả năng thích ứng
cao. Tuy nhiên, trong thực tế không phải bao giờ doanh nghiệp cũng có đội ngũ cán
bộ hội đủ những điều kiện cần thiết. Đặc biệt, trình độ năng lực là thoả đáng tại một
thời điểm nào đó, có thể không còn phù hợp với những đòi hỏi mới phát sinh từ sự
phát triển của doanh nghiệp. Kiểm toán viên nội bộ có thể hạn chế các rủi ro, sai sót
do trình độ kém của nhân viên bằng cách mở ra những khoá đào tạo về mục tiêu, các

thủ tục cần tuân thủ và bằng cách trình bày giải thích cho các nhân viên về những sai
sót đã phát hiện ra.
Các lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp.
Các rủi ro, sai sót về thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu tồn tại ở những doanh
nghiệp có nhiều lĩnh vực hoạt động. Trên thực tế, vì muốn có các thủ tục đồng nhất
cho tất cả các lĩnh vực hoạt động, nên các thông tin nhận đợc có thể không phản ánh
trung thực tình hình trong lĩnh vực này hay lĩnh vực khác. Các sai sót này chủ yếu là
các thông tin liên quan đến chu trình sản xuất, kinh doanh và việc xác định các
chuẩn mực (định tính và định lợng). Kiểm toán viên nội bộ có thể nêu lên việc đa ra
các thủ tục cung cấp thông tin riêng cho từng lĩnh vực hoạt động.
Các tiêu chuẩn khác.
Cần thấy rằng, ngoài các tiêu chuẩn hợp lý nói trên, việc thiết lập bộ phận kiểm
toán nội bộ trong thực tế còn có các lý do và nguyên nhân chủ quan của doanh
nghiệp. Vì muốn đề cao uy tín của doanh nghiệp đôi khi dẫn đến việc gán chức danh
kiểm toán viên nội bộ cho ngời chỉ làm chức năng kiểm soát hành chính cụ thể.
Trong một số trờng hợp, bộ phận kiểm toán nội bộ đợc sử dụng nh một nơi dừng
chân tạm bợ của cán bộ trớc khi chuyển đi nơi khác. Đáng lẽ, bộ phận kiểm toán nội
bộ phải do một nhân viên cao cấp phụ trách, nhng nhiều khi chỉ là nơi trú chân tạm
bợ của cán bộ lãnh đạo trớc khi phụ trách một bộ phận chức năng quan trọng khác
của doanh nghiệp.
Tóm lại, các tiêu chuẩn trên đây là những tiêu chuẩn cơ bản cho việc xây
dựng hệ thống kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp, song sự thành công trong việc tổ
chức và hoạt động của bộ phận kiểm toán nội bộ phụ thuộc rất lớn vào việc liệu
các nhà quản lý có thấy đợc tầm quan trọng thực sự của nó hay không. Quy mô
hoạt động và sự phức tạp của công tác quản lý trong mỗi doanh nghiệp sẽ dẫn tới
vai trò của kiểm toán nội bộ càng quan trọng hơn.
1.4 Tổ chức hệ thống kiểm toán nội bộ.
1.4.1 Nguyên tắc, nhiệm vụ của tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ.
Bộ máy kiểm toán bao gồm con ngời và các phơng tiện chứa đựng các yếu tố
cấu thành của kiểm toán để thực hiện chức năng của kiểm toán.

Tổ chức bộ máy kiểm toán chính là việc tạo ra các mối liên hệ giữa các yếu tố
cấu thành kiểm toán, giữa các phân hệ trong hệ thống kiểm toán và chính giữa bản
thân của hệ thống kiểm toán với các yếu tố khác trong môi trờng hoạt động của
kiểm toán. Chính từ việc tổ chức bộ máy kiểm toán mà các mối liên hệ đợc duy trì
đảm bảo cho hệ thống thực hiện tốt chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến.
* Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ phải đảm bảo:
- Tính khoa học: Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ phải phù hợp với nguyên
lý chung của lý thuyết kiểm toán. Tùy theo đặc điểm tổ chức của doanh
nghiệp là tổ chức theo phơng pháp chức năng hay trực tuyến tham mu mà đa
ra mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ cho phù hợp.
- Tính nghệ thuật: Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ phải chú ý tới nhân tố
con ngời.
Trong sơ đồ tổ chức bộ máy kiểm toán cần phải phân công rõ ràng chức năng và
nhiệm vụ của mỗi kiểm toán viên nhằm đạt hiệu quả và hiệu suất cao.
- Phải đảm đủ về số lợng nhân viên trong bộ phận kiểm toán cũng là một vấn
đề quan trọng.
Số lợng nhân viên kiểm toán có thể đợc xác định qua công thức sau:
Số lợng nhân viên KTNB =
k
btai
n
i

=
+
1
*
Trong đó:
+ ai: Thời gian cần thiết để tiến hành kiểm toán một hoạt động hoặc một bộ
phần của doanh nghiệp bao gồm cả thời gian kiểm toán dự tính, thời gian đi lại

nếu có.
+ t: Tần suất kiểm toán các bộ phận hoặc các hoạt động tơng ứng/năm.
+ b: Thời gian dự kiến phát sinh cho các hoạt động đào tạo, nghỉ phép, hội
họp.......
+ k: Thời gian làm việc trung bình của một kiểm toán viên /năm.
+ n: Tổng số bộ phận hoặc hoạt động cần đợc kiểm toán.
- Điều quan trọng trong tổ chức kiểm toán nội bộ là phải xác định quy mô của
doanh nghiệp: Doanh nghiệp có thực sự cần bộ máy kiểm toán nội bộ hay không,
quy mô của doanh nghiệp nh thế thì bộ máy kiểm toán nội bộ nên có quy mô nh thế
nào thì thích hợp...
- Tùy theo cơ cấu của doanh nghiệp nh thế nào mà tổ chức kiểm toán nội bộ cho
phù hợp sao cho đem lại hiệu quả cao nhất, tốn chi phí ít nhất.

×