Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.43 MB, 21 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
ừ Trung Nam, Tây Nam Trung Quốc đến Đông Nam Á, có một
vùng văn hóa sùng bái Hoa Thần tương đối rộng lớn. Phạm vi trải
khắp trên các quốc gia Việt Nam, Thái Lan, Myanma, Ấn Độ, ở các dân tộc
như Choang, Thái (Trung Quốc), Thái (Thái Lan), Tày Nùng (Việt Nam),
A Hàm. Với các dân tộc Choang, Tày Nùng, quan hệ giữa thần linh và mơi
trường tự nhiên hết sức mật thiết. Nó thể hiện tiến trình lịch sử của một quần
tộc từ trạng thái tự phát của một cá thể đến giai đoạn thị tộc, quần tộc là đơn
vị văn hóa trung tâm, cuối cùng hình thành một trật tự lớp lang trong môi
trường đạo đức mang đậm tính dân tộc và đặc sắc riêng mà trung tâm của
ưật tự ấy là làng mạc thơn xóm. Trong hệ thống tâm linh của các dân tộc,
bài viết chọn thần thoại Hoa Bà của dân tộc Choang, Tày Nùng làm đối
tượng tiếp cận chính để từ đó nghiên cứu khái quát trạng thái giao lưu văn
học cổ đại Trung Việt trên cơ sở kết cấu luân lý hình thái, rất mong được
các nhà nhiên cứu đóng góp ý kiến.
Nguồn gốc tự nhiên của thủy tổ Hoa Bà: cộng hưởng nền văn học trên
cơ sở dân tộc đồng nguyên và sự nổi bật của hình tượng con người tự nhiên
Sự phản ánh lịch sử hình thành chế độ huyết thống lấy làng xóm tự
nhiên làm hình tượng trung tâm là hạt nhân của việc tạo lập trật tự xã hội và
trật tự vũ trụ trong thần thoại của dân tộc Choang, Tày Nùng cũng là hạt
nhân của kết cấu hình thái đạo đức và căn tính tự nhiên mà chúng ta đã nói.
Trước hết, xuất thế của thủy tổ thể hiện nguyên tắc tự nhiên, trên cơ sở
ý nghĩa mục định luận đưa đến sự gắn kết lịch sử với luân lý sinh thái sinh
trưởng và hình thành từ tự nhiên của các dân tộc Choang (Trung Quốc), dân
và
Theo nghiên cứu của học giả dân tộc Choang Lương Đình Vọng, Hoa
là nguồn gốc tơ tem dân tộc Choang, từ nó dẫn đến tô tem của 12 bộ lạc khác
[2]. Cùng với những hiểu biết ngày càng sâu sắc về lịch sử sinh thành của
quần tộc của dân tộc Choang, Mễ Lạc Giáp - vị thủy tổ của dân tộc Choang
sinh ra từ hoa của mn lồi hoa trong tự nhiên đã được phong làm nữ thần
sinh dưỡng Hoa Bà bởi công năng dưỡng dục vun bồi, bảo vệ người và vạn
vật vô cùng lớn của bà. Chức năng của bà là phụng dưỡng dân tộc Choang,
bảo vệ trẻ con khỏe mạnh. Không chi như thế Hoa Bà trong thần thoại ra đời
giữa vũ trụ tam giới Thiên Địa Nhân, nên quyền lực của Hoa Bà có thể phủ
khắp tam giới.
Thêm vào đó, trong sách
còn ghi lại ân đức tạo lập phương thức sinh tồn, phát triển của dân tộc
Choang cũng như ân đức dưỡng dục tự nhiên của bà:
Vì thế, ữong các thơn xóm của dân tộc Choang như Tĩnh Tây, Đức
Bảo, Na Kỳ, nhà nhà thờ cúng thần vị Hoa Bà.
Dân tộc Tày và dân tộc Nùng Việt Nam có cùng nguồn gốc với dân tộc
Choang, trong truyền thuyết của họ hai vị tổ tiên Lương Quân [Pú Lương
quân] và Cải Nương cư trú ở vùng núi phía Bắc Việt Nam. Sau khi hai người
gặp nhau trở thành thủy tổ của hai dân tộc. Họ tồn thân lơng óng mượt, khí
lực mạnh mẽ, cưỡi voi, đánh chết hổ; Cải Nương chín lần sinh con, tổng
được 100 người, sau đó họ kết đơi lẫn nhau, hình thành các họ khác nhau,
luân lý trời đất của dân tộc Tày Nùng Việt Nam và dân tộc Choang Trung
Quốc, phản ánh sự mật thiết của mối liên kết giữa con người và tự nhiên:
Thần thoại Hoa Bà của các dân tộc như dân tộc Choang Tày Nùng,
vừa có nội hàm triết học lý luận được xây dựng trên quy luật nhân quả trong
quan niệm tự nhiên, ln để cảm tính làm điều kiện của quy tắc thực tiễn lý
luận, lại có nội hàm của triết học thực tiễn cái mà Kant cho là hoàn toàn
được xây dựng trên quan niệm tự do, có điều kiện là những vật siêu cảm
tính, quy phạm thực tiễn dựa theo đạo đức. Sự thống nhất giữa cùng chất và
đối lập giữa thần và người của dân tộc Choang, Tày Nùng, thực chất là sự
mô phỏng xã hội quần tộc trên cơ sở tính đồng chất sinh thái của con người
và tự nhiên. Từ đó đã kiến tạo ra triết học vũ trụ và nhận thức luận của dân
tộc Choang, có thể đưa đến mơ phạm hành vi thực tiễn của dân tộc Choang,
Tày Nùng.
Ý nghĩa liên quan đến sinh tử của dân tộc Choang, Tày Nùng là sự
định hình và hồn thiện thơng qua sự kết nối giữa ln thường với Hoa.
132 V a n h ó a th ờ N ữ th ẩ n - MẪU ở V lỆT NAM VÀ CHÂU Á
thể giúp cho sinh con thuận lợi. Sau khi có con, cần phải cử hành nghi thức
“hoàn nguyên” để cảm tạ. [6] Theo đó, tổ tiên dân tộc Choang coi Hoa Bà -
Mễ Lạc Giáp là hạt nhân, hình thành tính đồng sinh trong mối quan hệ gia
đình với tự nhiên, đồng thời căn cứ vào điều đó xây xựng một lý luận vũ trụ
nhất thể hóa, tạo nên sự đối ứng giữa con người và ngũ hành, hình thành nên
cảnh giới hài hịa mật thiết khơng gián cách giữa còn người và tự nhiên trong
điều kiện “thuần phát có cùng chất với mn lồi”, có sự giao lưu qua lại với
thiên địa thần linh.
Dân tộc Kinh Việt Nam sau khi người qua đời, cũng phải mời Thiên
hoa giáo chủ đến để trừ tai giải họa. Giống như Martin Heidegger từng nói,
Hoa đã trở thành sự ngưng tụ giữa sinh mệnh và linh hồn của các dân tộc
Choang, Tày Nùng. Sự ngưng tụ này phản ánh lịch trình, phương pháp và
tinh thể triết học của sự gắn kết luân lý sinh thái của dân tộc Choang:
sự đồng thể đồng phương thức kết cấu cùa kết cấu thực thiễn và kết cấu nhận
Trong quá trình vượt qua hoạn nạn ở các dân tộc, môi trường và tập
quán sinh sống của mỗi vật có sự khác nhau về hình thế trạng thái và sự tách
biệt của hình tượng quần tộc.
Nhưng sự nhận diện của Hoa Thần trong các tự nhiên, sinh thái nhân
văn khác nhau, dẫn đến sự khác biệt cụ thể của hình tượng các quần tộc.
Điều đó phản ánh sự nhìn nhận tính phát triển của tài nguyên sinh thái tự
nhiên của dân tộc Choang, một bộ phận dân tộc Choang đã lợi dụng tài
nguyên sinh thái để làm câu chuyện kể lịch sử về các đặc trưng lý luận bản
thể luận.
Lưu ừuyền trong thần thoại của khu vực Đại Hoa đoạn ghi chép sau:
Sự sinh tồn của dân tộc được phản ánh trong thần thoại thủy tổ Hoa Bà
của dân tộc Choang đều gắn chặt với phương thức sản xuất của từng dân tộc,
điều đó nói rõ mỗi cá thể cũng như nhân loại không phải tự sinh tự diệt, mà
đều nằm trong một vật bao quát khác, đồng thời mối quan hệ của các vật
trong đó đều nằm trong một cơ thể mẹ vốn có.
Trong thần thoại liên quan đến nguồn gốc nhân loại của Việt Nam
cũng thuật lại sự hình thành dân tộc đồng nguyên, dựa theo tự nhiên - cây
hồ lô ra hoa kết trái. Vì thế, các dân tộc Việt Nam qua việc nhận thức trái hồ
lô, hình thành nên tính đồng nhất của các đân tộc:
/
Câu chuyện này của Việt Nam, thông qua việc miêu tả đặc điểm của
việc tiếp xúc với trái hồ lơ để nói nên sự khác nhau giữa các dân tộc.
1 3 6 Văn h ó a t h ờ Nữ th ấ n - MẴU ở Việ t NAM VÀ CHẢU Á
nghiệm của nó, là một trong những phương thức thể hiện của bản chất dân
tộc tự nhiên và tích lũy lịch sử xã hội dân tộc đối sinh và hình thành.
Ngoài ra, sự sản xuất của cá thể và tộc loài được bao hàm trong đó,
trên thực tế là quy luật sinh tồn mang tính lịch sử của con người và xã hội,
nhưng phương thức “sản xuất thế nào” là mối quan hệ xã hội qua lại trên cơ
sở con người và tự nhiên, nó quyết định bản chất sinh tồn của một xã hội
Tế lễ Hoa Bà: diễn sinh văn hóa của phương thức đối sánh tương quan
giữa con người và tự nhiên
Sự sùng bài Hoa Bà của dân tộc Choang Tày Nùng, đi từ việc sản sinh
ra tộc loài tiến dần đến cuộc sống của từng cá thể. Hơn nữa, mỗi một quần
tộc khác nhau có nhận thức khác nhau về giới sinh vật dẫn đến sự khác nhau
trong phương thức xã hội hóa một cá thể - tức con người tự nhiên, để đạt đến
sự hợp nhất hoàn chỉnh giữa con người tự nhiên và con người xã hội. Thông
qua nghi thức tế lễ liên quan đến sinh đẻ của dân tộc Choang và dân tộc Tày
Nùng, chúng tôi phát triển mở rộng quan điểm này:
^ ^ \ D â n tộc
Nghi t h ứ c \ ^
Dân tộc Choang Trung Quốc Dân tộc Tày Nùng
Việt Nấm
Lễ cầu hoa -
Dựng cầu cầu
hoa
Phụ nữ đân tộc Choang vào
tiết tháng chạp hàng năm, lên
núi hái hoa dại, trở về nhà tế
tự, cầu mong đông con đông
cháu, cả nhà thịnh vượng.
Vợ chồng mới cưới hoặc vợ
chồng lâu rồi không sinh nở
thì thực hiện nhi thức dựng
cầu cầu hoa, nhận sự ủy thác
của gia chủ, “thần ba” (tức
thần bàn tay) làm phép
hướng về phía Hoa Bà để
cầu hoa, dụng một cái giá để
đặt một chiếu cầu vải, mời
các tướng Hoa Chi như Long
thần, Kiều Đầu công công,
Kiều vĩ Bà Bà bảo hộ, mời
Hoa Vương Thánh Mau, Vệ
Phòng Thánh Mau, Nghênh
Hoa Thánh Mầu, Tài Hoa
Phụ Mẩu, Kình Hoa Phụ
Mau, Thác Hoa Phụ Mẩu...
đưa đến chủ gia. Sư công
(ông đồng) rắc gạo trắng làm
Vật phẩm ngồi tiền, gạo,
gà, cịn phải dựng đầu rồng,
hoặc một cái cầu gỗ hình
đi cá chép ờ giữa ngõ chỗ
mọi người qua lại. Thầy
cúng hành lễ sẽ đem bùa
dán trên cầu, tân nương
theo sau thầy cúng đến
trước cầu bái lạy, cầu phúc.
Sau đó thầy cúng sẽ ừở về
nhà, đọc bùa chú cho một
cái mầm chuối, sau đó sai
một người trong số đó đem
cây đó ra trồng ở giữa
vườn, gọi là cây chuối cầu
con, mong cho phúc của cô
dâu sẽ lớn nhanh như cây
Lễ tiếp hoa,
an hoa
Tiếp hoa: nhận hoa từ sư
công, Tống hoa nương
nương, hay người mùa sư tử.
Vấn hoa: khi mang thai hỏi
xem đó là trai hay gái.
“Vi hoa”, “hộ hoa” thông
thường được cử hành khi
mang thai tháng thứ 3, thứ 5,
thứ 7, đẻ mong cho người mẹ
và đứa trẻ được khỏe mạnh.
Xung hoa: Trên cơ sờ thần
vị của Hoa Bà đã được lập từ
đời ông, đời cha, lập thêm
thần vị Hoa Bà mới. Phương
thức là: Sư công chọn lấy
mấy đốt từ hai cây trúc vàng
được nhà ngoại đưa đến, hát
“An Hoa ca”, làm thành một
bình hoa, bơng hoa dùng
giấy ngũ sắc cắt theo hình
An hoa: vợ chồng mới cưới
trước hết lập thần vị Hoa Bà
trong phòng ngủ. Khi trẻ nhỏ
được đầy một tuần, từ sư
công sẽ chọn một ngày lành
để cử hành nghi lễ. từ bên
ngoài nhà đém đến hai cây
trúc vàng, cơm nếp ngũ sắc,
gà trổng, trứng gà đỏ, giày,
mũ áo, quần của trẻ nhỏ. Sư
công theo lời mời của gia
chù, hát Hoa ca, làm ống
hoa, cắt cành hoa, dựng cổng
hoa, lập cầu hoa, đưa hai vị
lão phụ đến chỗ xã vương
trước thôn lấy hoa, dùng hai
mảnh vải dài 7 tấc, nửa hồng
Lễ bẩm báo
Hoa Bà (tam
triêu)
Nhà ngoại chuẩn bị đồ lễ
Hoa Bà. Ở các huyện tỉnh
Quảng Tây, buổi sáng ngày
thứ ba sau khi sản phụ sinh
nở, nhà gái mang đến một
“Diêu Hoa” làm bằng gỗ
giống như một nửa cái hịm,
ờ giữa có đặt linh bài của
Hoa Bà Thánh mẫu, phía
trước đặt một lị hương, phía
trước hai bên có cắm một
mũi tên làm bằng giấy vàng,
sau khi mời ma công niệm
thần chú xong thì đặt giữa
phịng của sản phụ, tục gọi là
“An hoa”
Sau khi sinh được ba ngày,
thì đặt một Thần đài của
Hoa Bà ờ một góc trong
phòng ngủ, cảm tạ Hoa Bà,
cầu mong sự che trở. Sau
khi sinh được một tháng,
mẹ hoặc bà, mỗi buổi tuối
đều phải thắp nhang cho
Hoa Bà
Lễ đầy ĩháng
Chủ nhà mở tiệc cảm ơn nhà
ngoại, chuẩn bị lễ kính tạ Hoa
Bà. Ở các vùng sơng nước lun
hành “cháo tiễn trăng”, “giải
trăng”, ở các vùng như Thiên
Đẳng, Đại Tân cịn có tập tục
“bán trăng”.
quấn quanh cổ tay của đứa
trẻ.
Lễ giải tiết,
giải quan
Đứa trẻ vốn ốm yếu nhiều
bệnh, do hoa của nó bị cơn
trùng hại, cần phải mời thầy
cúng cắt hoa, trừ sâu bọ, tưới
nước, tiến hành nghi thức
chiêu quỷ, đem một cái bùa
giấy gắn lên quần áo của đứa
trẻ, tiêu diệt mầm bệnh.
Đứa trẻ ốm yếu nhiều bệnh,
sự phụ làm nghi lễ đồi
mệnh, để giải hạn cho đứa
trẻ, để cho đứa trẻ được
hưởng phúc, sống lâu.
Lễ hoàn
nguyện, hoàn
hoa
Hoàn nguyện tức đứa ữè được
ba tuổi thì làm lễ cảm ơn ân
đức của Hoa Bà Tống Hoa.
Hoàn hoa tức là đốt bùa hoa
để trả lại cho Hoa Bà, đưa
trẻ đã trở thành một cá thể
độc lập.
Nếu đứa trẻ vẫn ốm yếu thì
mời ma cơng trả vong linh
nóng. Một đầu lấy hoa
trắng, trứng trắng, cơm nếp
trắng, đưa tiễn đứa trẻ về
trời; một đầu là hoa đỏ,
trứng đỏ, com nếp đỏ để
nghênh đón một đứa mới.
Nếu như đứa trẻ chết yểu,
thì cử hành nghi thức
“Tống hoa lạc”, cầu mong
hồn phách của đứa ừẻ rời
đi, không được đầu thai trở
lại.
Khác
Trương Đạt Hoài Vệ Phật
Tổ được mệnh làm Hoa
Vương, các vùng của dân tộc
thế cứu thế. Hoa Bà là nữ
Hoa Bà có liên quan đến ba
tôn giáo khác Nho, Phật,
Đạo, mỗi lễ tiết khác nhau
thì có hình tượng khác
nhau: Mùa hạ thì là Thích
Đe Hoa Bà, mùa thu là Hoa
Phương Ngọc Dế, mùa
đông là Tây Phòng Thượng
Phương.
Ở Việt Nam, “thiên địa chi
mẫu” (người mẹ trời đất) là
người mẹ lớn nhất của tinh
thần, Hoa Bà là hình tượng
hóa của bà cứ giúp nhân
loại.
Người Tày, Nùng khơng có
miếu Hoa Vương
(Nguồn tư liệu: 1. Nguyễn Thị An, Đằng Thành Đạt (dịch),
thể nghiệm, tuy là nhiều như vạn vật, nhưng không thể nằm ngoài sự cảm
nhận, huống hồ đó chẳng phải biết được sao? [9]. Vì thế, dân tộc Choang và
dân tộc Tày Nùng thông qua việc sùng bái Hoa Bà ước vọng sự phát triển
không giới hạn của dân tộc, đưa việc tiếp xúc trực diện của toàn bộ cơ sờ
nhận thức vượt qua khả năng có thể, từ đó tái hiện những biểu hiện mang
tính đồng nhất trở thành khn mẫu mang tính hình tượng cho sự đồn kết,
theo đó có thể nghiệm chứng cho năng lực tự nhiên thiên tạo của việc báo
đáp cùa người đời đối với bà, đồng thời khiến cho chức năng xã hội được
lâu bền, giống như theo chủ nghĩa luân lý tiên nghiệm nghiêm khắc cùa
Weber một cá thể được đảm bảo tính lưu động nằm bên ngoài thần thánh và
xã hội, có được sự tiếp nối của sinh mệnh và đặc tính lồi, điều này hết sức
phù hợp với các hành động tực giác tự do.
Kiến tạo sự tương quan đối sánh giữa con người và tự nhiên trong ngữ
cảnh đạo đức:
Tuy nhiên, Hoa Bà cịn có một cơng năng khác. Ba chị em Hoa San,
một người quản lý việc dâng hoa, một người quản lý việc tưới hoa bảo vệ
hoa, một người quản lí việc hái hoa. Vì thế, ừong khu vực dân tộc Choang,
sản phụ nhiều năm không mang thai, bị nghĩ là kiếp trước thiếu công đức -
một sự khuyết thiếu bản chất trao đổi của tồn tại xã hội, cho nên chịu sự
trừng phạt của Hoa Bà. Phương pháp giải cứu chính là nhờ ma cơng (hay sư
cơng tức thầy mo) dựng cầu hoa dẫn Hoa đến gia đình thiếu con nối dõi.
Người Tày Nùng Việt Nam cho rằng, nếu như kết hôn lâu ngày mà
khơng có con, là bởi vì Hoa Bà đang giận hoặc là quên không ban con chc,
Truyện
việc vận dụng nguyên tắc chí thiện để làm nổi bật hiện thực lịch sử cùa đạo
đức học sinh thái:
Người Trung Quốc cổ đại cho rằng: Trời sinh ra dân, có vật tất có
khuôn phép, dân vốn đã biết được phép thường nên luôn yêu quý đức thuần.
’
Trọn vẹn nhân đạo là lấy “Động” để thuận theo cuộc sống.”
; ^ À ì t è ,
không thái quá.” [ S T O M •
>
nhất của sự đối sinh giữa con người và tự nhiên.
Tày Nùng không coi truyện kể này chỉ đơn giản trở thành một hình thái ý
thức hay câu chuyện thần thoại mà từ sự sinh thành cá thể giữa con người và
tự nhiên phát triển đến sự thống nhất giữa tự nhiên và con người khi con
người nằm trong vận động mâu thuẫn của sự đồng thể. Vì thế, thần thoại
Hoa Bà trở thành sự tái hiện cho sự phát triển của trật tự xã hội trong cẩu
thành của một cá thể và lịch sử của dân tộc Choang Tày Nùng. Đồng thời,
trong cảnh giới cộng sinh giữa con người và tự nhiên, con người được coi là
chủ thể của quần tộc thực sự ứng nghiệm của quá trình lịch sử từ hình nhi
thượng đến hình nhi hạ: “Không biết được quy luật hằng thường của đạo,
làm bừa tất sẽ gây tai họa; Hiểu được quy luật hằng thường khơng gì không
dung chứa của đạo, chứa đụmg hết thảy nên công bằng, công bằng nên toàn
vẹn, toàn vẹn nên là Thiên (trời), Thiên nên là đạo, đại thì lâu bền nên thân
không bị hủy [11]
Nguồn gốc đạo đức của tính đa dạng sinh thái trong tín ngưỡng Hoa
Bà và những ranh giới ứong chỉnh thể đạo đức học qua sự tự thể hiện của
các dân tộc
Vĩ Quan Chu Nhị cho rằng:
Dao Thái Lan cho rằng đứa trẻ là hồn của bông hoa do “Hoa Hồng” đưa
đến. Từ đó có thể thấy, lĩnh vực liên quan đến nguồn gốc Hoa Bà đương đối
rộng, thuộc nhiều nhóm dân tộc, vì thế hình thành một khái niệm là “vùng
văn hóa sùng bái Hoa Bà”.
Các dân tộc Choang, Tày Nùng coi con người và động vật là thành
viên có vai trị ngang nhau trong chỉnh thể quan hệ tương quan, đồng thời
hàm chứa quan điểm giá trị nội tại tương đồng trên cơ sở tự nhận thức -
thông qua sự biểu hiện của các vật tự nhiên nhận ra bản tính chân thật của
các vật (hay tự nhiên), trở thành sự tự thể hiện của nhận loại và cá thể. Tiếp
đó, trong quan hệ giữa con người và tự nhiên mỗi khi sử dụng các vật tự
nhiên như hoa, cây, núi đá, thì quần tộc thường xem đó như sức mạnh tinh
thần cùa con người, hay để nói đến ý nghĩa của thiên mệnh, cho nên tự nhiên
và linh hồn của con người là bình đẳng. Các vật tự nhiên như Hoa chính là
nguyên tắc thần truyền được trời ban cho thủy tổ xuất hiện ừong lịch sử của
dân tộc Choang. Kiểu tự ngã đó của quần tộc chính là kiểu tự ngã được miêu
tả trong chinh luận luận của Hình nhi thượng học.
Trong lịch sử ừiết học Trung Quốc, Vương Phu Chi đề xướng “lấy vật
tự nhiên làm thầy” chính là để nhấn mạnh cảnh giới của đạo đuợc nhắc đến
trong trật tự luân thường bao quát mối quan hệ nhân luân nội tại giữa tự
nhiên và con nguời. Vì thế, theo ý nghĩa triết học, thần thoại Hoa Bà của các
dân tộc, thông qua sự giao hòa chuyển đổi lẫn nhau giữa phương thức nhận
thức với phương thức trao đổi qua lại của các dân tộc đã đạt đến xu hướng
đồng nhất về mặt thẩm mĩ giữa lý luận hình thái ý thức và lý luận phê phán,
từ đỏ cải tiến chính sách vận hành của hình thức cấu tạo xã hội và vận động
xã hội với hình thức sinh mệnh trong đó. Trong lĩnh vực này, con người là
sự đột phá của giới hạn, loài người có thể tự do thảo luận đối sách xã hội có
tính chọn lọc đồng thời nỗ lực để đạt được nhận thức chung cho những chính
sách đó, từ đó giúp cho lồi người có tiến dần đến sự giải phóng trong sự kết
hợp hợp lý giữa khả năng phản tỉnh và quan hệ nhân quả.
có thể có mỗi quan hệ huyết thống với các dòng họ khác, sau mỗi một đờii
trên thực tế đều chịu ảnh hưởng của đặc tính di truyền của tổ tiên nam nữ có)
nguồn gốc từ các dịng họ, chủng tộc khác nhau, dẫn đến sự phát triển mang;
chiều hướng tốt nên cùa tố chất hình thể của họ, từ đó hình thành một mạng;
lưới hệ thống xã hội sinh thái có tính tiếp nối và phản hồi.
Các thần thoại có liên quan của Việt nam cũng đều có ghi chép như?
thế. Tổ tiên của dân tộc thiểu số Việt Nam Cơn Hịa Cao sau khi thốt khỏii
sự tấn cơng của dã thú, đã đưa con cháu vào trong rừng sinh sống, đồng thời:
Trong các câu chuyện kể này, chủ thể của các dân tộc dựa theo nguyên
tắc vừa mạnh mẽ vừa ơn hịa của cảnh quanh sinh thái ở vùng biên giới, mờ
rộng môi trường sinh sống của quần tộc ở vùng biên giới khúc khuỷu đó, cho>
nên sự phát triển của các dân tộc Choang Tày Nùng theo nguyên tắc ngầm
thể hiện trong từng trường ngữ nghĩa. Kiểu thông hơn tương đối mở đó - một
đối sách kết nối đạo đức, tích cực ảnh hường đến tiến trình của lịch sử và cá
nhân, đồng thời mở rộng tính khả năng và tính tất yếu này, cùng với sự bức
phá khỏi “sự trần thuật” về tính đơn nguyên của chính ừị cịn có sự kết hợp
những phương diện khác nhau của lịch sử và truyền thống bằng sợi dây liên
kết hôn nhân huyết thống nhất định, sự tiếp nhận mang tính xây dựng những
cách giải thích và kết cấu về tài nguyên thiên nhiên và tư liệu lịch sử có tính
địa phương và tính quần tộc của truyền thống của các các thời đại chính trị
khác nhau, hình thành phả hệ nhận thức chung, trong sự kết hợp giữa dạng
thức phát sinh của văn hóa quần tộc cụ thể và giá trị kinh nghiệm của xã hội
đa nguyên đề cao khả năng thích ứng với tự nhiên và xã hội của chủ thể dân
tộc, tố chất dân tộc không ngừng được làm mới, làm lớn mạnh chủ thể dân
tộc chưa từng có tiền lệ.
cùng lồi người có thể cư trú trên trái đất. Nó nổi bật là nguồn gốc thuyết
khởi nguyên của văn minh nhân loại.
Cho nên, nhận thức về tự nhiên trong thần thoại Hoa Bà có một sức bật
mạnh mẽ. Thông qua sự nhận thức về ý nghĩa cùa tính đa dạng của sinh thái
và tính đa ngun của mẫu tính, nó thể hiện sự mờ rộng cùa mối quan hệ
luân thường sinh thái của các dân tộc Choang, Tày. Hình thành một mặt
khác cùa mối quan hệ giữa con người và tự nhiên - sự liên hệ mang tính tri
nhận, phương thức liên hệ này được kết hợp với mối liên hệ đồng cảm, mối
liên hệ quy phạm, cuối cùng là kết cấu lịch sử cùa lý học chỉnh thể luận.
Tóm lại, thần thoại Hoa Bà đã xây dựng một bản đồ nhân luân tương
quan mật thiết giữa con người và tự nhiên. Hình thế giao lưu văn học được
thể hiện trong thần thoại Hoa Bà của các dân tộc, đối sánh với sự giao lưu
dân tộc của ý nghĩa văn hóa kinh tế, chính trị, sự giao lưu văn học dân tộc
trong phạm vi hẹp này cho dù có nhiều chỗ bị trùng lặp với giao lưu truyền
thống khác, nhưng nó nó vẫn dây dựng một sợi dây trung gian bằng hình thế
độc lập tương đối của nó, bổ sung cho những lĩnh vực mà truyền thống lớn
không thể đạt đến. Điều này có thể lý giải như một cách nhìn khác ngồi các
hình thức văn học so sánh khác.
[1] Lam Hồng Ân,
[2] Lương Đình Vọng,
[3] Quá Vĩ,
[4] (Việt Nam) Lã Văn Lô, Lê Bình Sự,
[6] Ngày 7 tháng 6 năm 2007, Bài giảng của nhà nghiên cứu dân tộc Choang
[7]
[8] Trương Ngọc An (chủ biên),
quyển 6: Truyền thuyết thần thoại cổ đại Đông Nam Á, quyển: khởi
nguyên loài người, Bắc Kinh: Bắc Kinh đại học xuất bản xã, 1999, trang
6 7 -6 9 , 63.
[9] Vương Bật,
[10] Hồng Tồn An,
[11]