Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

Luận Văn Tìm hiểu thực trạng về phẩm chất nhân cách của thẩm phán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 136 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐẶNG THANH NGA

TÌM HIỂU THỰC TRẠNG VỀ PHẨM CHẤT
NHÂN CÁCH CỦA THẨM PHÁN

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

hµ néi - 2003

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐẶNG THANH NGA

TÌM HIỂU THỰC TRẠNG VỀ PHẨM CHẤT
NHÂN CÁCH CỦA THẨM PHÁN

Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 5.06.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. Nguyễn Hồi Loan

Hà Nội, năm 2003



2


MỤC LỤC
Trang
Mở đầu
1
1. Tính cấp thiết của đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3
5. Giả thuyết khoa học
4
6. Phạm vi nghiên cứu
4
7. Phương pháp nghiên cứu
5
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của đề tài
6
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu nhân cách
6
1.2. Lý luận về nhân cách và phẩm chất nhân cách
10
1.2.1. Lý luận về nhân cách
10

1.2.1.1. Quan niệm của các nhà tâm lý học phương Tây
10
1.2.1.2. Quan niệm của các nhà tâm lý học Liên xô
13
1.2.1.3.Quan niệm của các nhà tâm lý học Việt Nam
14
1.2.2. Lý luận về phẩm chất nhân cách
1.3. Phẩm chất nhân cách của Thẩm phán
20
1.3.1. Khái niệm, vị trí, quyền hạn và nghĩa vụ của Thẩm phán
20
1.3.2. Những đặc điểm đặc thù về hoạt động xét xử của Thẩm phán 24
1.3.3. Phẩm chất nhân cách của Thẩm phán
27
1.3.3.1.Phẩm chất chính trị – tư tưởng
29
1.3.3.2. Phẩm chất đạo đức
29
1.3.3.3. Phẩm chất chuyên môn
34
1.3.3.4. Phẩm chất ý chí
37
1.3.3.5. Phẩm chất về năng lực tổ chức hoạt động xét xử
39
1.3.3.6. Phẩm chất liên quan đến việc thiết lập quan hệ với những
người tiến hành tố tụng khác và những người tham gia tố tụng 40

3

16



Chƣơng 2: Tổ chức nghiên cứu
43
2.1. Vài nét về quá trình tổ chức thực hiện và khách thể nghiên cứu 43
2.1.1. Tiến trình thực hiện
43
2.1.2. Vài nét về khách thể nghiên cứu
43
2.2. Công cụ nghiên cứu
44
2.3. Tổ chức nghiên cứu
49
Chƣơng 3: Kết quả nghiên cứu
50
3.1. Hiện trạng nhận thức của Thẩm phán, Chánh án, Phó chánh án,
Thư ký về phẩm chất nhân cách Thẩm phán
50
3.1.1. Hiện trạng nhận thức về vị trí của các nhóm phẩm chất nhân
cách của Thẩm phán
50
3.1.2. Hiện trạng nhận thức về các phẩm chất cần có của Thẩm phán 59
3.1.2.1. Nhóm phẩm chất chính trị – tư tưởng
60
3.1.2.2. Nhóm phẩm chất đạo đức
63
3.1.2.3. Nhóm phẩm chất chun mơn
67
3.1.2.4. Nhóm phẩm chất ý chí
70

3.1.2.5. Nhóm phẩm chất về năng lực tổ chức hoạt động xét xử
73
3.1.2.6. Nhóm phẩm chất liên quan đến việc thiết lập quan hệ với những
người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng
76
3.2. Đánh giá và tự đánh giá về các phẩm chất nhân cách Thẩm phán 84
3.2.1. Đánh giá và tự đánh giá về các nhóm phẩm chất nhân cách
của Thẩm phán
84
3.2.2. Đánh giá và tự đánh giá về các phẩm chất nhân cách
của Thẩm phán hiện có trong từng nhóm phẩm chất
92
3.2.2.1. Nhóm phẩm chất chính trị – tư tưởng
92
3.2.2.2. Nhóm phẩm chất đạo đức
95
3.2.2.3. Nhóm phẩm chất chun mơn
98
3.2.2.4. Nhóm phẩm chất ý chí
101
3.2.2.5. Nhóm phẩm chất về năng lực tổ chức hoạt động xét xử
104
3.2.2.6. Nhóm phẩm chất liên quan đề việc thiết lập quan hệ với những
người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng
107
Kết luận và kiến nghị
116
Tài liệu tham khảo
123
Phụ lục


4


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đang tiến
hành cơng cuộc đổi mới một cách tồn diện trên mọi mặt của đời sống xã hội,
nhằm xây dựng một Nhà nước pháp quyền XHCN. Đó là Nhà nước của dân, do
dân, vì dân, tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Một trong những yêu cầu cấp bách của việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN là đổi mới hệ thống tư pháp nói chung, đổi mới tổ chức và hoạt
động của Tồ án các cấp nói riêng. Có thể nói Tồ án chiếm vị trí trung tâm
trong hệ thống tư pháp, là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử những vụ án
hình sự, dân sự, hơn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết
những vụ việc khác theo qui định của pháp luật.
Trước đòi hỏi của thực tế khách quan, Đảng và Nhà nước đã có nhiều
quan tâm đến việc đổi mới hệ thống các cơ quan tư pháp và kiện toàn lại đội ngũ
cán bộ ngành tư pháp. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng
khoá VII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định: "Củng
cố, kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp. Phân định lại thẩm quyền xét xử của
Toà án nhân dân. Từng bước mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho Toà án
nhân dân huyện... Xây dựng đội ngũ thẩm phán, thư ký toà án, chấp hành viên,
cơng chứng viên, giám định viên, luật sư... có phẩm chất chính trị, đạo đức, chí
cơng vơ tư, có nghiệp vụ vững vàng, bảo đảm cho bộ máy trong sạnh, vững
mạnh". Nghị quyết trung ương III (khoá 8) xác định rõ "Nghiên cứu phân cấp
thẩm quyền bổ nhiệm Thẩm phán Toà án cấp tỉnh và Toà án cấp huyện, đồng
thời căn cứ vào tình hình đội ngũ cán bộ hiện nay mà điều chỉnh tiêu chuẩn

5



tuyển chọn cho phù hợp để kịp thời bổ sung đủ Thẩm phán cho Toà án cấp
huyện và Toà án cấp tỉnh...", "Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững
mạnh, có phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực chuyên môn. Lập quy hoạch
tuyển chọn, đào tạo, sử dụng cán bộ tư pháp theo từng loại chức danh với tiêu
chuẩn cụ thể..."[12.116,117]. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX tiếp
tục xác định: "Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ
quan tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ tư pháp
trong công tác điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử, thi hành án, không để xảy
ra những trường hợp oan sai... Tăng cường đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân cả về số lượng và chất luợng...".[59]
Nhìn trong tổng thể hệ thống tư pháp, đội ngũ thẩm phán có vị trí quan
trọng- là người đại diện cho Nhà nước bảo vệ sự công bằng xã hội cũng như
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Hoạt động của họ có ảnh lớn
tới tính cơng minh của pháp luật, uy tín và nền cơng lý của một quốc gia, đồng
thời góp phần giáo dục cơng dân có ý thức pháp luật.Vậy mà hiện nay khi nhận
định về đội ngũ cán bộ tư pháp nói chung, đội ngũ thẩm phán nói riêng, Nghị
quyết 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm
cơng tác tư pháp trong thời gian tới nêu rõ: “Công tác cán bộ của các cơ quan
tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình hiện nay. Đội ngũ cán bộ
tư pháp còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ và năng lực nghiệp vụ, một bộ
phận tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, sa sút về đạo đức". Bên cạnh
đó xuất phát từ yêu cầu thực tiễn nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước,
trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi hơn lúc nào hết công tác bồi dưỡng đào tạo cán
bộ phải được chú trọng. Chính vì vậy, việc khảo sát đánh giá đúng thực trạng về
phẩm chất nhân cách của đội ngũ thẩm phán là một yêu cầu cấp bách và cần thiết
khơng chỉ có ý nghĩa về lý luận mà cịn có ý nghĩa về thực tiễn.

6



Xuất phát từ những lý do trên và với tư cách là cán bộ giảng dạy môn tâm
lý học tại trường Đại học Luật Hà Nội, trực tiếp giảng dạy chuyên đề tâm lý học
tư pháp cho các lớp đào tạo nguồn thẩm phán, chúng tơi chọn đề tài "Tìm hiểu
thực trạng về phẩm chất nhân cách của Thẩm phán ". Việc nghiên bước đầu
đã đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác đào tạo nguồn
thẩm phán và nghiên cứu khoa học của trường Đại học Luật Hà Nội cũng như
góp phần nâng cao cơng tác xét xử của Toà án nhân dân, đồng thời góp phần vào
q trình hồn thiện chương trình đào tạo của khoa Tâm lý học trường Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở nghiên cứu, điều tra thực trạng về phẩm chất nhân cách của
Thẩm phán đang cơng tác ở Tồ án nhân dân các địa phương, từ đó đề xuất một
số kiến nghị để góp phần hoàn thiện phẩm chất nhân cách của đội ngũ Thẩm
phán, nhằm nâng cao năng lực xét xử của đội ngũ này.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Nghiên cứu những cơ sở lý luận về:
a> Khái niệm, vị trí, quyền hạn và nghĩa vụ của Thẩm phán.
b> Những đặc điểm đặc thù về hoạt động nói chung và hoạt động xét xử
nói riêng của Thẩm phán.
c> Các phẩm chất nhân cách cơ bản của Thẩm phán trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Khảo sát về thực trạng phẩm chất nhân cách của Thẩm phán đang
cơng tác ở Tồ án nhân dân các địa phương. Đưa ra hệ thống các phẩm chất nhân
cách cần thiết của của Thẩm phán, đồng thời đề xuất một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện các phẩm chất nhân cách này cho đội ngũ thẩm phán.
4. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu.

7



4.1. Đối tượng nghiên cứu: Những phẩm chất nhân cách của Thẩm phán
Toà án nhân dân địa phương.
4.2. Khách thể nghiên cứu:
- 300 Thẩm phán ở TAND các địa phương.
Miền Bắc gồm: Hà Nội, Hải Phòng, Hà Tây, Vĩnh Phú.
Miền Trung bao gồm: Hà Tĩnh, Quảng Trị, Đà Nẵng, Khánh Hoà.
Miền Nam bao gồm: An Giang, Lâm Đồng, Thành phố Hồ Chí Minh.
- 66 Chánh án, Phó chánh án, Chánh tồ, Phó chánh tồ ở các địa phương
nêu trên.
- 200 Thư ký các TAND ở các địa phương trên.
5. Giả thuyết khoa học.
Xuất phát từ hoạt động đặc thù của Thẩm phán có thể xác định hệ thống
các phẩm chất nhân cách cơ bản của Thẩm phán theo 6 nhóm phẩm chất sau:
1. Nhóm phẩm chất chính trị-tư tưởng.
2. Nhóm phẩm chất đạo đức.
3. Nhóm phẩm chất chun mơn.
4. Nhóm phẩm chất ý chí.
5. Nhóm phẩm chất về năng lực tổ chức hoạt động xét xử.
6. Nhóm phẩm chất liên quan đến việc thiết lập quan hệ với những người
tiến hành tố tụng khác và những người tham gia tố tụng.
Trong đó nhóm phẩm chất chính trị-tư tưởng cùng với nhóm phẩm chất
đạo đức chiếm vị trí hàng đầu, sau đó đến các nhóm chun mơn, ý chí...Cả 6
nhóm phẩm chất có quan hệ chặt chẽ với nhau và có quan hệ với chức năng xét
xử của Thẩm phán.
6. Phạm vi nghiên cứu:

8



Với đề tài này, chúng tơi chỉ có điều kiện nghiên cứu những phẩm chất
nhân cách cơ bản của Thẩm phán đang cơng tác tại các Tồ án nhân dân địa
phương như đã nêu trong phần khách thể nghiên cứu, mà khơng có điều kiện
nghiên cứu phẩm chất nhân cách của Thẩm phán ở Toà án nhân dân tối cao và
Toà án quân sự các cấp.

7. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Để nghiên cứu đề tài này chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Phương pháp này nhằm tìm hiểu những vấn đề lý luận cơ bản về phẩm
chất nhân cách như lịch sử nghiên cứu vấn đề phẩm chất nhân cách, các quan
niệm của các nhà tâm lý học phương Tây, Liên Xô , Việt Nam về nhân cách và
phẩm chất nhân cách.
Ngoài ra, chúng tơi cịn sử dụng phương pháp này nhằm mục đích nghiên
cứu khái niệm, vị trí, quyền hạn và nghĩa vụ của Thẩm phán.
Các kết quả nghiên cứu của phương pháp này chủ yếu nhằm xây dựng cơ
sở lý luận và xác định phương pháp nghiên cứu.
7.2. Phương pháp quan sát.
Quan sát hoạt động xét xử của Thẩm phán tại một số Toà án nhằm phát
hiện ưu, nhược điểm của họ trong q trình xét xử.
7.3. Phương pháp trị chuyện, phỏng vấn.
Phương pháp này được thực hiện thơng qua trị chuyện với một số Thẩm
phán có nhiều kinh nghiệm trong cơng tác xét xử để tìm hiểu, xây dựng mơ hình
lý thuyết về những phẩm chất cần có của Thẩm phán.
7.4.Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi.
Đây là phương pháp chính.
+ Điều tra trên khách thể là Chánh án, Phó chánh án, Chánh tồ, Phó
chánh tồ; Thẩm phán. Đối với hai khách thể này chúng tôi tiến hành điều tra

9



trên mẫu phiếu 1. Mục đích thu thập ý kiến đánh giá của các khách thể về những
phẩm chất đang có và cần có hiện nay của Thẩm phán.
+ Điều tra trên khách thể Thư ký. Đối với khách thể này chúng tôi tiến
hành điều tra trên mẫu phiếu 2. Mục đích thu thập ý kiến đánh giá của khách thể
về những phẩm chất đang có và cần có hiện nay của Thẩm phán.
7.5.Phương pháp thống kê toán học.
Bằng phương pháp thống kê SPPS chúng tôi tiến hành xử lý những kết
quả thu được để tìm ra những chỉ số cần thiết phục vụ cho việc nghiên cứu.

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Vài nét về lịch sử nghiên cứu nhân cách.
Về vấn đề “phẩm chất nhân cách” trong các hoạt động nghề nghiệp khác
nhau đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu. Một trong những
cơng trình nghiên cứu đầu tiên cần được kể đến là tổng kết của R.M.Stogdill,
đánh giá 124 nước về lãnh đạo theo phẩm chất trong thời kỳ 1904-1948. Kết quả
là đưa ra những phẩm chất có liên quan đến việc thực hiện vai trị của người lãnh
đạo như thơng minh, hiểu biết nhu cầu của người khác, hiểu biết nhiệm vụ, chủ
động và kiên trì trong việc giải quyết, tự tin, có trách nhiệm, mong muốn nắm
giữ vị trí thống trị và kiểm soát. Tổng kết lần thứ hai của R.M.Stogdill năm
1974, nghiên cứu 163 đề tài về phẩm chất và kỹ năng người lãnh đạo trong thời
kỳ 1949-1970. Với các nghiên cứu của mình, ơng đã xác định về phẩm chất của
người lãnh đạo như thích ứng, am hiểu môi trường xã hội, tham vọng và định
hướng thành tựu, quyết đốn, có tinh thần hợp tác, kiên quyết, đáng tin cậy,
thống trị, xơng xáo, kiên trì, tự tin, chịu đựng sự căng thẳng, sẵn lòng nhận trách
nhiệm..., về kỹ năng như tài giỏi, thông minh, nhận thức, sáng tạo, ngoại giao và
lịch thiệp, diễn đạt thông tin, kỹ năng tổ chức, kỹ năng thuyết phục...


10


Ở Liên Xô vào những năm 20, đầu những năm 30 của Thế kỷ XX, đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu nhằm xác định những phẩm chất, đặc điểm cơ bản
của người lao động trong một nghề (như các công trình nghiên cứu của
T.Marcarian, R.Cuchepov, M.P.Xơcơlov, T.C.Chuguev). Đến năm 60-70 nhiều
tác giả đã đi sâu nghiên cứu sự thành nghề và sự phát triển nhân cách nghề trên
cơ sở sử dụng cách tiếp cận nghiên cứu về họa đồ nghề nghiệp, đặc biệt là đi sâu
nghiên cứu về mặt động cơ và thao tác của hoạt động nghề.
Kết quả nghiên cứu của các tác giả như N.V.Cuzmin (1961,1967, 1970),
A.I.Serbacov, V.A.Xlatvenin (1978) về quá trình hình thành nhân cách người
giáo viên, sự phát triển năng lực sư phạm và trình độ tay nghề. Ph.N.Gônôbin
(1977) với “những phẩm chất tâm lý của giáo viên” có đề cập tới các đặc điểm
tâm lý phù hợp với hoạt động giảng dạy và giáo dục học sinh. Đó là các phẩm
chất như đạo đức, chí hướng, hứng thú, năng lực, quá trình nhận thức, những đặc
điểm trí tuệ, tình cảm lao động, phẩm chất ý chí của người thầy giáo trong q
trình dạy học và giáo dục.[17]
Vấn đề phẩm chất nhân cách người cán bộ lãnh đạo quản lý đã được các
nhà tâm lý học và xã hội học nghiên cứu như E.E.Vendtrôv, X.G.Xtruminlin.
Sêpen, V.L.Lêbêđev... Các tác giả đã đưa ra 150 phẩm chất mà người cán bộ
lãnh đạo cần phải có.[49]
Một số tác giả của trường Đại học tổng hợp Lêningrát (Liên Xô), trong
phương án thử nghiệm đã đưa ra 109 yêu cầu về phẩm chất nhân cách người kỹ
sư thiết kế theo 8 nhóm: Các nhóm phẩm chất biểu hiện thái độ đối với công việc
(yêu lao động, thái độ quan tâm đến công việc, sáng tạo...); các phẩm chất đặc
trưng cho phong cách chung của hành vi và hoạt động (tính chấp hành, tính độc
lập, tính năng động..); kiến thức (kiến thức kỹ thuật theo chun ngành của
mình, kiến thức tốn học, văn hố nói chung...); các phẩm chất trí tuệ (tính mềm


11


dẻo, tính phê phán, độ sâu, tầm rộng...); các kỹ năng tổ chức-kỹ thuật (kỹ năng
giải quyết nhiệm vụ kỹ thuật, kỹ năng làm việc với tài liệu và sổ tay kỹ thuật, kỹ
năng thực hiện tác động qua lại đối với các bộ phận khác...); các kỹ năng tổ
chức-hành chính (kỹ năng thiết lập bầu khơng khí lao động, kỹ năng lãnh đạo, kỹ
năng thuyết phục người khác...); các phẩm chất đặc trưng thái độ đối với bản
thân (khiêm tốn, tự tin, tự hoàn thiện...).[24.218]
A.V.Đulov trong cuốn “Tâm lý học tư pháp” đã khẳng định tầm quan
trọng vị trí của Thẩm phán trong hoạt động xét xử. Ông nêu lên một số phẩm
chất cơ bản đối với Thẩm phán là: Đạo đức, khả năng nhận thức, kỹ năng giao
tiếp, những đặc điểm hoạt động trí tuệ, các kỹ năng tổ chức hoạt động xét xử,
phẩm chất ý chí...[63]
Ở Lào, tác giả Khăm Kẹo Vông Phi La (1996) trong “Nghiên cứu phẩm
chất nhân cách người hiệu trưởng tiểu học” đã xác định hệ thống những phẩm
chất nhân cách của người hiệu trưởng theo 3 nhóm phẩm chất: Phẩm chất đạo
đức, phẩm chất tư tưởng-chính trị và phẩm chất cơng việc.[30]
Ở Việt Nam một số tác giả đã đề cập tới vấn đề này như:
Tác giả Đỗ Thị Hoà (1993) trong đề tài “Tuyển chọn những phẩm chất
tâm-sinh lý học sinh học nghề lái xe” đã đưa ra 5 đặc điểm tâm lý cơ bản, cần
thiết cho nghề lái xe là: Có khả năng phản ứng nhanh, nhạy bén trước tình huống
bất ngờ, có khả năng phối hợp thao tác, động tác tốt; có độ bền vững và phân
phối chú ý tốt; có khả năng tập trung và di chuyển chú ý tốt; có khả năng phân
tích tổng hợp sự kiện tốt; có khả năng phán đốn tình huống chính xác.[29]
Tác giả Nguyễn Thị Kim Luân (1993) trong “Nghiên cứu một số phẩm
chất tâm lý đặc trưng ở vận động viên bóng bàn trẻ Việt Nam” đã đưa ra 6 nhóm
phẩm chất tâm lý đặc trưng của vận động viên bóng bàn là: năng lực chú ý; tri

12



giác không gian; cảm giác vận động cơ; đặc điểm hoạt động thần kinh; tư duy
trực quan hình ảnh- hành động; trạng thái tâm lý thi đấu.[33]
Tác giả Nguyễn Thị Phương Anh (1996) trong đề tài “Một số đặc điểm
tâm lý-xã hội của nhà doanh nghiệp” đã đưa ra 14 đặc điểm tâm lý của các nhà
doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động kinh doanh là: Bền bỉ, cần cù, có chí,
dám mạo hiểm, có đầu óc tính tốn kinh doanh, ham học hỏi, hiểu biết, linh hoạt,
năng động, nhạy bén, óc sáng tạo, quảng giao, quyết đốn, thạo việc, có kinh
nghiệm về lĩnh vực mình kinh doanh, thận trọng, thông minh, tự tin,.[2]
Tác giả Nguyễn Thị Kim Phương (1996) trong “Nghiên cứu một số đặc
điểm tâm lý-xã hội của giới doanh nghiệp trẻ Việt Nam” đã khảo sát 60 phẩm
chất theo 3 nhóm: Những khả năng, những kỹ năng và những phẩm chất đặc
trưng hiện có ở giới doanh nghiệp trẻ Việt Nam.[48]
Tác giả Nguyễn Sinh Phúc đi sâu nghiên cứu vị trí của “đức” và “tài”
trong cấu trúc nhân cách của bác sĩ quân y.[47]
Tác giả Hoàng Cao (1998) trong “Những phẩm chất nhân cách người hiệu
trưởng trường tiểu học ở Thanh Hoá hiện nay” đã khảo sát 21 phẩm chất theo 6
nhóm: Phẩm chất tư tưởng-chính trị, phẩm chất đạo đức, phẩm chất chuyên môn,
phẩm chất ý chí, các phẩm chất liên quan đến việc thiết lập và duy trì quan hệ
với người khác, năng lực tổ chức hành chính.[13]
Tác giả Hồ Thị Song Quỳnh (2000) trong đề tài “Thực trạng về nhân cách
của cán bộ chủ chốt cấp phường, xã tỉnh Bến Tre” đã xác định hệ thống các
phẩm chất nhân cách của người cán bộ chủ chốt cấp phường, xã theo 3 nhóm
phẩm chất: Phẩm chất chính trị- tư tưởng, phẩm chất tâm lý-đạo đức, phẩm chất
cơng tác. Trong đó tác giả xếp nhóm phẩm chất chính trị-tư tưởng cùng với

13



nhóm phẩm chất tâm lý-đạo đức chiếm vị trí hàng đầu, sau đó là nhóm phẩm chất cơng
tác.[49]
Ở mức độ nghiên cứu sâu hơn, GS. TS. Nguyễn Ngọc Phú còn đi sâu phân
tích cấu trúc của ý thức bảo vệ Tổ quốc- Một phẩm chất chính trị- tinh thần- đạo
đức. Theo tác giả, phẩm chất này bao hàm ý thức giác ngộ giai cấp, dân tộc sâu
sắc, có nhu cầu sẵn sàng bảo vệ Tổ Quốc và được thể hiện bằng những hành
động tích cực cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.[44.132]
Tác giả Nguyễn Mai Lan (2000) đi sâu nghiên cứu: “Những phẩm chất
tâm lý đặc trưng của mã dịch viên”. Trên cơ sở phân tích vị trí, vai trị và nhiệm
vụ của mã dịch viên, tác giả đã đưa ra 22 phẩm chất tâm lý thuộc 4 nhóm xu
hướng, năng lực, tính cách, khí chất.[31]
Tóm lại, vấn đề phẩm chất nhân cách đã được đề cập đến trong nhiều cơng
trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngồi nước. Những nghiên cứu này đã
đóng góp một phần khơng nhỏ vào sự hình thành và phát triển tâm lý học nói
chung và tâm lý học nhân cách nói riêng. Tuy nhiên, các cơng trình trên mới chỉ
đề cập đến một số khía cạnh cụ thể của phẩm chất nhân cách, chưa có cơng trình
nào nghiên cứu sâu một cách tồn diện, có hệ thống về phẩm chất nhân cách, đặc
biệt là làm rõ những phẩm chất nhân cách của Thẩm phán. Chính vì vậy chúng
tơi chọn nghiên cứu phẩm chất nhân cách với khách thể hoàn toàn mới là những
Thẩm phán công tác tại các TAND địa phương.
1.2. Lý luận về nhân cách và phẩm chất nhân cách.
1.2.1. Lý luận về nhân cách.
Nhân cách là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau
như xã hội học, triết học, đạo đức học, giáo dục học, tâm lý học... Bất cứ khoa
học nào có liên quan tới con người đều quan tâm đến vấn đề nhân cách.

14


Trong tâm lý học, khái niệm nhân cách là một vấn đề khá phức tạp. Có thể

nói nhân cách là một vấn đề đã được tranh luận từ lâu, cho tới nay vẫn chưa có
một quan điểm thống nhất về nó. Đã có rất nhiều định nghĩa và quan niệm khác
nhau về nhân cách. Ngay từ năm 1949 G.Allport đã dẫn ra trên 50 định nghĩa
khác nhau của các nhà tâm lý học về nhân cách, đến nay con số này đã lên tới
hàng trăm theo một số tác giả nhận định.
1.2.1.1. Quan niệm của các nhà tâm lý học phƣơng Tây.
Trong tâm lý học phương Tây hiện đại đang tồn tại nhiều quan niệm rất đa
dạng, mâu thuẫn và đối lập nhau về nhân cách. Chẳng hạn:
S.Freud là một thầy thuốc tâm thần người Áo cho rằng: Bản chất của nhân
cách phát sinh từ các quá trình nội tại. Sự xung đột này xảy ra giữa sự thúc đẩy
của “cái nó” (“id”), “cái tơi” (“ego”) và “cái siêu tơi” (“super”). Trong ba khối
thì “cái nó” là cốt lõi của nhân cách, là động lực chi phối mọi hành vi của con
người. Đây chính là những sai lầm của thuyết phân tâm học. S.Freud đã tách rời
điều kiện xã hội với việc hình thành nhân cách và cho rằng cái sinh vật và cái vô
thức là yếu tố quyết định hình thành nhân cách, đồng thời đã tuyệt đối hố bản
năng tình dục của con người.
G.Allport đã bỏ qua vai trò của xã hội, xem nhân cách là sản phẩm phát
triển của hoạt động nhưng là hoạt động có chứa đựng khả năng tự phát triển chứ
không bị qui định của xã hội. Ông đã nêu lên một định nghĩa rất chung về nhân
cách: Nhân cách là một tổ chức động của các hệ thống tâm sinh lý trong cá nhân
chúng qui định sự thích ứng cá nhân đối với môi trường xung quanh.
A.Maslow nhà tâm lý học Mỹ cho rằng: Nhân cách của con người được
hình thành và phát triển là do sự xuất hiện theo thứ tự các nhu cầu. Có thể chia ra
năm loại nhu cầu, đó là nhu cầu sinh lý, nhu cầu an toàn, nhu cầu yêu thương,
nhu cầu được thừa nhận, nhu cầu tự thực hiện. Tuy nhiên những nhu cầu này

15


khơng bị sự kiểm sốt của xã hội mà nó đều dựa trên cơ sở di truyền nhất định,

cịn tính xã hội lại nằm trong chính bản tính của con người.
Carl Roger nhà tâm lý học Mỹ cho rằng: Nhân cách là con người có ý thức
về bản thân và do đó nó cũng gắn ln với bản ngã, “cái tôi”.
G.H.Mead cho rằng: Sự phát triển của nhân cách được thực hiện trong quá
trình giao tiếp của cá nhân với các thành viên khác của một nhóm xã hội nhất
định, sự giao tiếp này được thực hiện trong quá trình hoạt động cùng nhau. Trong
quá trình tương tác xã hội thì cái quyết định là xã hội, tập thể, chứ không phải nhân cách.
R.Sears đã xem nhân cách là thực thể của giao tiếp và hoạt động và các
thuộc tính của nhân cách được hình thành trong các “tình huống hai người”. Tuy
nhiên, sự giải thích chỉ dừng lại “hệ thống hai người” là một cấu trúc độc lập, tự
xác định bên trong là không đúng. Trong thực tế, sự tác động qua lại giữa các cá
nhân được diễn ra trong một hệ thống rộng lớn hơn đó là trong các quan hệ xã
hội, trong nhóm xã hội, trong giai cấp, trong hình thái xã hội.
K.Horney nhà tâm lý học Mỹ cho rằng: Khi con người tiếp xúc với hoàn
cảnh xã hội sẽ nảy sinh sự lo lắng và quá trình tìm cách làm giảm bớt sự lo lắng
bằng phương pháp lần mò- phương pháp “thử và sai” sẽ qui định sự hình thành
và phát triển nhân cách của người đó.
R.B.Cattel coi nhân cách là hành vi của một người trong những tình huống
nhất định nào đó.
Kurt Lewin đưa ra khái niệm “khơng gian sống” để giải thích hành vi của
nhân cách- không gian sống bao gồm cả trường tâm lý. Khơng gian sống- đó là
nhân cách và hồn cảnh trong mối tác động qua lại lẫn nhau tạo nên hành vi
trong một thời điểm nào đó.
R.Meili lại cho rằng: Nhân cách là tổng hoà các phẩm chất tâm lý, nói lên
đặc điểm của từng người riêng biệt.

16


Theo H.Thomac, nhân cách là cái tạo ra cái nhận diện, bản sắc, cái độc

đáo, cái độc nhất vô nhị của cá nhân.
Tóm lại, các quan niệm về nhân cách trong tâm lý học phương Tây rất đa
dạng, phong phú. Các quan niệm này có những yếu tố tích cực nhất định, như:
+ Xu hướng ngày càng phủ định nguyên nhân sinh vật của sự thù địch
giữa nhân cách và xã hội, nhấn mạnh những nhu cầu “nhân văn” của con người;
+ Sự cố gắng, chứng minh khả năng phát triển không ngừng của nhân cách;
+ Phát hiện những hiện tượng, những sự kiện phong phú trong đời sống
tâm lý thực của con người (động cơ vô thức, sự dồn nén, cơ chế tự vệ, sự đồng
nhất hoá, sự bù trừ, vai trò của hoạt động giao tiếp, sự chuyển hố hoạt động,
tính trọn vẹn của nhân cách, tính có một khơng hai của nhân cách);
+ Chú ý tới tính chất đặc trưng và tính chất cơ động của nhân cách.
Tuy nhiên các quan điểm này có những hạn chế nhất định. Đó là:
+ Hiểu nhân cách nếu khơng phải là hiện tượng thứ nhất đối với xã hội, thì
trong mọi trường hợp cũng xem nó như là một thực thể tồn tại song song với xã
hội. Kết quả nhân cách khơng tránh khỏi bị nhân chủng hố và tâm lý hố;
+ Nhiều lý thuyết về nhân cách giải thích các quan hệ xã hội như là những
quan hệ liên nhân cách thuần t có tính chất cá nhân của con người (điều này
thể hiện rõ trong thuyết “tương tác xã hội” hay thuyết “liên nhân cách”);
+ Cắt nghĩa hành vi xã hội của con người bằng những thuộc tính đóng kín
trong mình của nhân cách hoặc của mơi trường, phủ nhận những qui luật phát
triển thực tế của xã hội, của các nhóm xã hội, của nhân cách. [52.57-58]
1.2.1.2. Quan niệm của các nhà tâm lý học Liên Xô.
Các nhà tâm lý học Liên Xô khi nghiên cứu về nhân cách đều dựa trên ba
nguyên tắc: Nguồn gốc triết học Mác-Lê nin, tâm lý học và giáo dục học. Họ
xem xét nhân cách trong mối quan hệ qua lại giữa cá nhân và môi trường. Nhân

17


cách khơng phải là con người mang những thuộc tính tâm lý đơn giản và càng

không phải là cá nhân mang những nét riêng biệt của nó. Nhân cách được xem
xét như một chủ thể có ý thức, mang những đặc điểm tâm lý tổng hoà các mối
quan hệ mà trong đó con người sống và hoạt động.
Mặc dù có sự thống nhất chung về phương pháp luận, nhưng trong tâm lý
học Xơ Viết vẫn cịn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về nhân cách:
B.G.Ananiev cho rằng: Nhân cách là cá thể có tính chất xã hội, là khách
thể và chủ thể của bước tiến lịch sử. Nhân cách khơng tồn tại ngồi xã hội,
khơng tồn tại ngồi lịch sử cá nhân. [9.123]
A.G.Côvalev xem nhân cách như một cá nhân có ý thức, chiếm một vị trí
nhất định trong xã hội và đang thực hiện một vai trò xã hội nhất định. [58.167]
E.V.Sơrơkhơva thì quan niệm nhân cách là con người với tư cách là kẻ
mang toàn bộ thuộc tính và phẩm chất tâm lý, qui định của hình thức hoạt động
và hành vi có ý nghĩa xã hội. [58.167]
K.K. Platonnov coi nhân cách là con người có ý thức, nhân cách là con
người có lý trí, có ngơn ngữ, lao động. [9.224]
A.N.Leonchiev coi nhân cách như một cấu tạo tâm lý mới được hình thành
trong các quan hệ sống của cá nhân do kết quả hoạt động cải tạo của người
đó.[32]
X.L.Rubinstein đã viết: Con người là cá tính do nó có những thuộc tính
đặc biệt, khơng lặp lại, con người là nhân cách do nó xác định được quan hệ của
mình với những nhân cách xung quanh một cách có ý thức. [50.245]
Tóm lại, các quan niệm trên đều cho rằng: Chỉ có thể nói đến con người
như là một nhân cách bắt đầu từ một thời kỳ nào đó trong q trình phát triển của
nó. Nói cách khác, khơng phải mọi cá thể người, với cá tính của mình, đều là
nhân cách cả. Nhân cách khơng phải được sinh ra, mà là được hình thành, phát

18


triển trong hoạt động xã hội của con người. Hoạt động của cá nhân mới là con

đường quyết định trực tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của nó.
Hoạt động để lại dấu ấn của mình lên chính bản thân con người. Nhân cách
khơng chỉ được thể hiện, mà cịn được hình thành trong hoạt động. Nhân cách là
những đặc điểm, phẩm chất tâm lý cá nhân nói lên giá trị xã hội của con người
và nó điều khiển hành vi của con người khi quan hệ với người khác và xã hội.
1.2.1.3. Quan niệm của các nhà tâm lý học Việt Nam.
Về khái niệm nhân cách có nhiều ý kiến khác nhau, bởi mỗi tác giả khi
đưa ra khái niệm nhân cách đã nhìn nhận, nghiên cứu nhân cách ở những góc độ khác
nhau.
Trong cuốn sổ tay tâm lý học đã đưa ra khái niệm: Nhân cách là toàn bộ
các đặc điểm phẩm chất tâm lý của cá nhân đã hình thành và phát triển trong các
quan hệ xã hội. Một mặt nhân cách là sản phẩm của sự phát triển lịch sử xã hội,
mặt khác nhân cách cũng sáng tạo ra hoàn cảnh xã hội, sáng tạo ra của cải vật
chất cho xã hội.[28.80]
Trong Từ điển tâm lý học của Bác sỹ Nguyễn khắc Viện đã đưa ra khái
niệm: Nhân cách là toàn bộ những gì hợp thành một con người, một cá nhân với
bản sắc và cá tính rõ nét, với các đặc điểm thể chất (tạng) tài năng, phong cách, ý
chí, đạo đức, vai trị xã hội. Và là cá nhân có ý thức về bản thân đã tự khẳng định
được, giữ được một phần nào tính nhất quán trong mọi hành vi.[60.246]
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Bích đã định nghĩa: nhân cách là hệ thống những
phẩm giá xã hội của cá nhân thể hiện những phẩm chất bên trong của cá nhân,
mối quan hệ qua lại của cá nhân với công việc trong q khứ, hiện tại và tương
lai.[9.223]
Từ các cơng trình nghiên cứu con người (1991-1995) GS.TS. Phạm Minh
Hạc đi đến định nghĩa: Nhân cách của con người là mức độ phù hợp giữa thang

19


giá trị và thước đo giá trị của người ấy với thang giá trị và thước đo của cộng

đồng và xã hội.[22.157]
PGS.TS. Lê Đức Phúc đã định nghĩa: Nhân cách là nét tâm lý cơ bản qui
định phương thức hành vi, thái độ độc đáo riêng biệt trong hoạt động của cá
nhân với những quan hệ đa dạng trong những điều kiện thực tế tạo nên sức mạnh nhân
tính.[46]
TS.Trương Thành Trung đã định nghĩa: Nhân cách là tổng hoà các phẩm
chất xã hội, được cá nhân lĩnh hội trong hoạt động và giao tiếp, phản ánh giá trị
xã hội của cá nhân đó trong cộng đồng. [43.110]
Như vậy, khi bàn về khái niệm nhân cách, chúng ta thấy nó rất phức tạp,
đa dạng. Nhưng chúng tôi sử dụng định nghĩa nhân cách của các tác giả GS.TS.
Phạm Minh Hạc, PGS.TS. Phạm Hoàng Gia, PGS.Trần Trọng Thuỷ, GS.TS.
Nguyễn Quang Uẩn, PGS. TS. Lê Khanh làm khái niệm công cụ để nghiên cứu
đề tài này. Nói về nhân cách các tác giả cho rằng: Nhân cách là tổ hợp những
thuộc tính tâm lý của cá nhân, biểu hiện ở bản sắc và giá trị xã hội của con
người.[21.64], [54.76], [58.167]
Nhìn chung, các nhà tâm lý học Mác xít và phần lớn các nhà tâm lý học
Việt nam đều cho rằng nhân cách là sự tổng hồ khơng phải các đặc điểm cá thể
của con người, mà chỉ là những đặc điểm qui định con người như là một thành
viên của xã hội, nói lên bộ mặt tâm lý - xã hội, giá trị và cốt cách làm người của
mỗi cá nhân.
Xét về mặt xã hội thì nhân cách chính là những chủ thể đại diện cho các
mối quan hệ xã hội. Đó là quan hệ kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội... Với con
người những mối quan hệ này vừa có ý nghĩa khách quan, vừa mang màu sắc
chủ quan. Khách quan ví như Mác nói rằng xét về mặt tự nhiên con người là
tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Khi sinh ra con người đã mang những mối

20


quan hệ xã hội nhất định. Chủ quan ở chỗ con nguời chủ động trong việc xác lập

các mối quan hệ xã hội nhất định.
Xét về mặt tâm lý thì nhân cách bao gồm những đặc điểm tâm lý điển
hình, ổn định và bền vững, chứ không phải cái nhất thời, ngẫu nhiên và bất ngờ.
Nhờ tính ổn định và bền vững mà chúng ta mới nhận xét, đánh giá được nhân
cách của từng người và dự đoán hành vi của họ trong tình huống, hồn cảnh cụ
thể nào đó. Những nét tính cách phải được thể hiện trong các hoạt động và giao
tiếp, trong hành vi cử chỉ của cá nhân dưới hình thức này hay hình thức khác.
Đồng thời thông qua hoạt động và giao tiếp, nhân cách được nảy sinh và phát
triển. Giá trị của các đặc điểm cũng như toàn bộ nhân cách thường được qui định
bởi các điều kiện xã hội lịch sử cụ thể.
1.2.2. Lý luận về phẩm chất nhân cách.
Khái niệm “phẩm chất” trong tâm lý học thường dùng để khảo sát ở các
đối tượng khác nhau và được xếp thứ hạng nhất định trong hàng loạt các phẩm
chất do hoạt động nghề nghiệp địi hỏi và hình thành. Trong Từ điển tâm lý học
do A.V.Petrovxki và I.M.Iarơsepxki Chủ biên khơng có từ “phẩm chất” mà chỉ
có từ “nét tính cách”. Trong Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng 1997 có viết “đặc
điểm: Nét riêng biệt” còn “phẩm chất: Cái làm nên giá trị ở người hay vật”.
Trong Từ điển tiếng Việt của Nxb Văn hố-Thơng tin 1998 có định nghĩa “đặc
điểm: nét vẽ làm nên diện mạo của người, sự vật, hiện tượng” và “phẩm chất:
Giá trị và tính chất tốt đẹp của con người hay vật gì”.
Phẩm chất nhân cách là những đặc điểm tâm lý biểu hiện về mặt đạo đức,
trí tuệ, năng lực của con người. Nó qui định hành vi, cách ứng xử có ý nghĩa xã
hội của người đó trong những tình huống khác nhau.

21


Các nhà tâm lý học (kể cả các nhà tâm lý học phương Tây và tâm lý học
Mác xít) đều cho rằng: Nhân cách của con người được cấu tạo từ những thành tố
cấu trúc nhất định. Chẳng hạn:

Quan niệm thứ nhất coi nhân cách bao gồm ba lĩnh vực cơ bản: Nhận thức
(bao gồm cả tri thức và năng lực trí tuệ), rung cảm (tình cảm và thái độ) và ý chí
(phẩm chất ý chí, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen). (PGS.TS.Phạm Hồng Gia)
Quan niệm thứ hai coi nhân cách bao gồm bốn tiểu cấu trúc: Xu hướng
(thế giới quan, lý tưởng, hứng thú, tâm thế...), kinh nghiệm (tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo, thói quen), đặc điểm của các q trình tâm lý (các phẩm chất trí tuệ, ý chí,
đặc điểm của cảm xúc, tình cảm), các thuộc tính sinh học quan trọng (khí chất,
giới tính, lứa tuổi, các đặc điểm bệnh lý...).(K.K.Platonov)
Quan niệm thứ ba cho rằng nhân cách có nhiều tầng: Tầng “nổi”, sáng tỏ
(bao gồm ý thức và ý thức nhóm) và tầng “sâu”, tối tăm (bao gồm tiềm thức và
vô thức).(Thuyết phân tâm học của S.Freud)
Quan niệm thứ tư coi nhân cách bao gồm bốn thuộc tính phức hợp của
nhân cách là xu hướng, tính cách, năng lực và khí chất.(A.G.Kovalev)
Quan niệm thứ năm xem nhân cách con người bao gồm bốn khối hay bộ
phận: Xu hướng của nhân cách, những khả năng của nhân cách, phong cách hành
vi của nhân cách, hệ thống điều khiển của nhân cách.(GS.TS.Phạm Minh Hạc,
PGS. Trần Trọng Thuỷ).[19]
Ở Việt Nam người quan tâm nhất đến phẩm chất nhân cách của người cán
bộ cách mạng và người có những suy nghĩ đúng đắn, cách mạng về vấn đề này là Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Qua nghiên cứu các tác phẩm và những bài viết của Chủ tịch Hồ
Chí Minh chúng ta thấy những tư tưởng của Người về nhân cách đó là tư cách
làm người và đã được đề cập tới trong cuốn “Đường kách mệnh”. Nội dung tư
cách cũng là thành phần cấu trúc nhân cách bao gồm:

22


+ Thành phần thứ nhất là những thuộc tính tâm lý ổn định như cách nói
của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đối với tự mình”. Đó là: Phải có tri thức, ln ln
phải xem xét, nghiên cứu, học hỏi, có tình cảm cách mạng, có ý chí cách mạng,

cả quyết, nhẫn nại, phải có nhu cầu phù hợp, ít lịng ham muốn vật chất, phải có
lập trường, phải có nét tính cách tốt như cẩn thận, cần kiệm, liêm chính, chí cơng
vơ tư, khơng hiếu danh, khơng kiêu ngạo.
+ Thành phần thứ hai bao gồm mối quan hệ cá nhân với xã hội với người
khác như cách nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đối với người”. Tức là quan hệ
đối với mọi người là phải đem lịng chí cơng vơ tư, đối với người thì khoan thứ,
giúp đỡ, trung thực, đối với Đảng và Chính phủ thì trung thành, đối với nhân dân
phải kính trọng.
+ Thành phần thứ ba là quan hệ cá nhân với cơng việc. Đó là: Phải có
năng lực xem xét cụ thể, phải có ý chí, khó mấy cũng phải làm, phải tận tụy siêng
năng.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì đức và tài là hai nội dung cơ bản trong
cấu trúc tổng quát của nhân cách người cách mạng, trong đó đạo đức là cái gốc
của nhân cách. Người viết: “Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có
nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách
mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo
được nhân dân”[36.252-253]
Đạo đức cách mạng trong nhân cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cả một
hệ thống tư tưởng rất phong phú và chặt chẽ được tóm tắt trong 5 điều: Nhân,
nghĩa, trí, dũng, liêm và năm điều này được xem là những phẩm chất nhân cách
cốt lõi của người cán bộ cách mạng.
Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí đồng bào, sẵn sàng
chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ.

23


Nghĩa là ngay thẳng, khơng có tư tâm, khơng làm việc bậy, khơng có việc
gì phải giấu đồn thể, ngồi lợi ích của đồn thể, khơng có lợi ích riêng phải lo toan.
Trí là khơng có việc gì tư túi nó làm mù quáng, cho nên đầu óc trong sạch

sáng suốt, dễ hiểu lý, dễ tìm phương hướng, biết xem người, biết xét việc.
Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc gì phải có gan làm, thấy khuyết điểm
phải có gan sửa chữa, cực khổ khó khăn có gan chịu đựng.
Liêm là không tham địa vị, không tham tiền, không tham sung sướng,
không ham người tâng bốc.[35.34-35]
Tuy coi đạo đức là cái “gốc” của người cán bộ nhưng Chủ tịch Hồ Chí
Minh khơng xem nhẹ “tài”. Theo quan điểm của Người thì “tài” ở đây là năng
lực của người cán bộ, tức là tổng hợp những thuộc tính độc đáo của cá nhân phù
hợp với những yêu cầu, đặc trưng của một hoạt động nhất định, là điều kiện để
hoàn thành tốt đẹp hoạt động đó, là trí tuệ, những hiểu biết và kinh nghiệm của
con người có được trong quá trình hoạt động rèn luyện và lao động sáng tạo.
Khi đánh giá vai trò của từng mặt “đức” và “tài” Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho rằng “đức là cái gốc”, nếu khơng có đạo đức thì tài cũng vơ dụng. Tuy nhiên
đạo đức không tách rời tài năng, Người nói “Có tài mà khơng có đức ví như một
anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những khơng
làm được gì ích lợi cho xã hội mà cịn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà
khơng có tài ví như ông bụt không làm hại gì nhưng cũng không lợi gì cho lồi
người”.[35.74]
Như vậy, nhân cách phải là sự thống nhất giữa mặt đức và tài. Về thực
chất việc đánh giá nhân cách con người là nói về mặt phẩm chất, phẩm giá trong
đó đã bao hàm mặt năng lực của con người. Có thể kể ra gồm các phẩm chất sau:
+ Phẩm chất chính trị, tư tưởng: lý tưởng, lập trường, niềm tin, thế giới quan.

24


+ Phẩm chất đạo đức, tác phong: Các thái độ đối với xã hội, đối với người
khác và thái độ đối với bản thân, tính khí, lối sống, tính nết, thói quen, đạo đức.
+ Phẩm chất ý chí: Tính kỷ luật, tính tự chủ, tính quả quyết, tính phê phán...
+ Các năng lực và sở trường, năng khiếu.

Trong đề tài này, chúng tôi xem nhân cách của người cán bộ được hiểu là
tồn bộ các thuộc tính tâm lý biểu thị những đặc trưng chung của người cán bộ
và cấu trúc nhân cách được xem ở hai mặt “phẩm chất” và “năng lực”, bao gồm
các nhóm phẩm chất:
+ Nhóm phẩm chất chính trị-tư tưởng.
+ Nhóm phẩm chất đạo đức.
+ Nhóm phẩm chất chun mơn.
+ Nhóm phẩm chất ý chí.
+ Nhóm phẩm chất về năng lực tổ chức hoạt động .
+ Nhóm phẩm chất liên quan đến việc thiết lập quan hệ với những người khác.
1.3. Phẩm chất nhân cách của Thẩm phán.
1.3.1. Khái niệm, vị trí, quyền hạn và nghĩa vụ của Thẩm phán.
Điều 1 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm TAND qui định: „Thẩm
phán là người được bổ nhiệm theo qui định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét
xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án”.
Trong hoạt động xét xử của Toà án, Thẩm phán là nhân tố hạt nhân, cùng
Hội đồng xét xử làm nhiệm vụ xét xử và giải quyết các vụ án hình sự, dân sự,
hơn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và các vụ việc khác theo qui
định của pháp luật. Bằng hoạt động của mình Thẩm phán ra các phán quyết bảo
vệ lợi ích Nhà nước, các tổ chức xã hội, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự
do, nhân phẩm của công dân.

25


×