Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Luận Văn Triết học phật giáo, Phật giáo, Tư tưởng triết học, Trần Nhân Tông, Triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (630.36 KB, 62 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
---------------------------

PHẠM LINH NHI

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO CỦA TRẦN NHÂN TƠNG

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X

HÀ NỘI, 2019


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
---------------------------

PHẠM LINH NHI

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO CỦA TRẦN NHÂN TƠNG

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X


Người hướng dẫn: PGS.TS. Lê Thị Lan

HÀ NỘI, 2019


Lời cám ơn
Đề tài “Một số vấn đề cơ bản trong triết học Phật giáo của Trần Nhân
Tông” là nội dung tơi chọn để nghiên cứu và làm khóa luận tốt nghiệp sau bốn năm
theo học chương trình cử nhân chuyên ngành Triết học tại trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội.
Để hồn thành q trình nghiên cứu và hồn thiện khóa luận này, lời đầu tiên
tơi xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến Cô PGS.TS.Lê Thị Lan thuộc Viện Triết học Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã trực tiếp chỉ bảo và hướng dẫn tôi
trong suốt q trình nghiên cứu để tơi hồn thiện khóa luận này. Ngồi ra tơi xin
chân thành cảm ơn các Thầy, Cơ trong Khoa Triết học đã đóng góp những ý kiến
q báu cho khóa luận này.
Cuối cùng, tơi xin cảm ơn những người thân, bạn bè đã luôn bên tơi, động viên
tơi hồn thành khóa học và bài khóa luận này.
Trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày...tháng... năm 2019
Sinh viên
Phạm Linh Nhi


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 2
PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1. BỐI CẢNH VÀ TIỀN ĐỀ TƯ TƯỞNG HÌNH THÀNH TRIẾT
HỌC PHẬT GIÁO CỦA TRẦN NHÂN TÔNG .................................................... 7
1.1.


Bối cảnh Phật giáo thời Trần ......................................................................... 7

1.1.1.

Những chính sách buổi đầu của nhà Trần ................................................. 8

1.1.2.

Vài nét về đời sống tư tưởng đời Trần ......................................................... 9

1.2.

Một số tiền đề tư tưởng cho sự hình thành triết học triết học Phật giáo

Trần Nhân Tông ...................................................................................................... 11
1.2.1.

Trần Thái Tông – Trần Thánh Tông, hai vị Hoàng đế đầu đời Trần và

những chủ trương đối với Phật giáo. ...................................................................... 12
1.2.2.

Tinh thần siêu thoát của Tuệ Trung Thượng Sĩ. ...................................... 23

1.2.3.

Trần Nhân Tông và việc khai sinh ra dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. ..... 25

Tiểu kết chương 1 .................................................................................................... 29

CHƯƠNG 2. MỘT SỐ QUAN NIỆM TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO CỦA TRẦN
NHÂN TÔNG VÀ CON ĐƯỜNG TU TẬP GIẢI THOÁT ................................. 30
2.1. Quan niệm của Trần Nhân Tơng về Phật, Phật tính, niết bàn. .................. 30
2.1.1. Quan niệm của Trần Nhân Tông về “Phật”................................................. 30
2.1.2. Quan niệm của Trần Nhân Tơng về “Phật tính”. ........................................ 33
2.1.3. Quan niệm của Trần Nhân Tông về “niết bàn”. .......................................... 40
2.2. Một số quan niệm về nhân sinh và con đường tu tập giải thốt của Trần
Nhân Tơng................................................................................................................ 43
2.2.1. Quan niệm của Trần Nhân Tông về nhân sinh. ......................................... 43
2.2.2. Quan niệm của Trần Nhân Tông về con đường tu tập và giải thoát........... 47
Tiểu kết chương 2 .................................................................................................... 55
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 56
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 58

1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật công nghệ ngày nay, bên
cạnh những thành tựu vĩ đại mà cả nhân loại đã đạt được trong nền văn minh vật
chất thì những giá trị về mặt văn hóa, tinh thần, tơn giáo khơng hề bị xem nhẹ. Mà
ngược lại nó ngày càng được coi trọng và quan tâm hơn. Cùng với thay đổi của xã
hội, trong điều kiện lịch sử mới, các tôn giáo không ngừng thay đổi để ngày càng
thích ứng và phù hợp hơn. Chính sự phát triển và giao lưu giữa các tơn giáo đã góp
thêm phần thúc đẩy nhanh q trình tồn cầu hóa trong các lĩnh vực. Vì vậy, việc
nghiên cứu về tơn giáo nói chung là không thể bỏ qua.
Bước vào giai đoạn hậu cơng nghiệp, hay nền văn minh trí tuệ, nền kinh tế tri
thức, bên cạnh những điểm mạnh mà công nghệ khoa học kỹ thuật đem lại thì đời
sống tinh thần của con người trong xã hội lại ngày càng phải đối mặt với những áp

lực, những khổ nạn mới như: sự phân hóa giàu nghèo, cạnh tranh và xung đột, ô
nhiễm môi trường, sự tha hóa về mặt đạo đức, lối sống... Để giúp con người giải
thoát được những khổ nạn ấy, dường như chúng ta không thể không nhắc tới Phật
giáo với những giá trị nhân bản trong việc giải thoát cho con người về mặt nhu cầu
tâm linh, bù lấp khoảng trống và nỗi thất vọng trong lòng con người trong một thế
giới vong thân. Với khả năng điều chỉnh sự cân bằng trong nội tâm, Phật giáo có thể
giúp con người sống hài hịa, an vui hơn trong thực tại.
Ngày nay, có một điều ngạc nhiên khi mà nhân loại, đặc biệt là các nước
Phương Tây đang có trào lưu hướng về Châu Á, nhất là hướng về đạo Phật. Vì sao
vậy? Điều này có thể lý giải một phần từ những giá trị nhân sinh của đạo đức Phật
giáo. Hơn nữa, Phật giáo đã thực sự nhập thế trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, kể
cả trong các hoạt động kinh tế, tưởng như rất xa lạ với giáo lý Phật giáo. Hơn thế,
Phật giáo hiện đại không dạy con người ta xa rời cuộc sống để làm thần, làm thánh
hay xuất gia để làm hòa thượng nơi chùa chiền, rừng xa mà hướng tới cải tạo xã hội,
cải tạo thế giới bằng đạo đức, làm cho con người chúng ta ngày càng nhân văn hơn.

2


Phật giáo du nhập vào Việt Nam ta từ khá sớm và đã nhanh chóng hịa quyện
với tín ngưỡng bản địa, trở thành một tôn giáo của dân tộc. Trải dài suốt lịch sử phát
triển Việt Nam, Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc. Các thiền sư Việt Nam, đặc
biệt là dưới các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần đã tích cực khi đem tài năng và trí
tuệ của mình phục vụ cho đất nước, cho dân tộc mà không hề cầu lợi, luôn giữ thái
độ xuất thế. Phật giáo do vậy còn tạo nên những yếu tố quan trọng của bản sắc văn
hóa Việt Nam. Cho đến hiện nay, vẫn còn rất nhiều tranh cãi về triết học Phật giáo,
điển hình trong đó là Triết học Phật giáo Trần Nhân Tơng có những đặc điểm và nội
dung gì, tính hiện đại của triết học Trần Nhân Tơng nằm ở vấn đề nào... ? Để đi tìm
câu trả lời cho những câu hỏi này, cùng với sự say mê nghiên cứu Phật giáo Việt
Nam, tôi đã lựa chọn đề tài: “Một số vấn đề trong triết học Phật giáo Trần Nhân

Tơng” làm đề tài khóa luận của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Là một tơn giáo – triết học lớn, thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học
giả trong và ngồi nước, Phật giáo có một khối lượng đồ sộ các cơng trình nghiên
cứu tổng quan hay các khía cạnh khác nhau.
Về khái niệm triết học Phật giáo cũng đã có nhiều bài viết, tiêu biểu là Đỗ
Quang Hưng với “Phật giáo Việt Nam trong bối cảnh hội nhập tồn cầu hóa” (tạp
chí Khoa học xã hội số 9/006, tr58-66). Trong đây, tác giả đã rất đề cao vai trò của
Phật giáo trong xã hội hiện đại và những thay đổi của Phật giáo nói chung cho phù
hợp với thời đại. Từ đó, tác giả đã chỉ ra nhiệm vụ của Phật giáo trong giai đoạn
hiện nay. Tác giả cũng nhấn mạnh, Phật giáo hiện nay là Phật giáo nhập thế. Khái
niệm “nhập thế” được tác giả phân tích, chứng minh là khơng đồng nhất với khái
niệm “thế tục hóa” của phương tây, xu hướng nhập thế của Phật giáo được tác giả
phân tích, chứng minh là không đồng nhất với khái niệm “thế tục hóa” của phương
Tây.
Tác giả Nguyễn Thị Minh Ngọc với “Phật giáo dân gian: con đường nhập thế
của Phật giáo Việt Nam” (tạp chí nghiên cứu tơn giáo số 8/2008, tr25-32) đã đi
phân tích rất cụ thể về khái niệm nhập thế dưới góc độ chức năng, nhiệm vụ của
3


tăng ni, Phật tử và đi đến kết luận: Phật giáo nhập thế là Phật giáo từ bi và đắc
dụng. Sau đó, tác giả đi làm rõ tinh thần nhập thế của Phật giáo dân gian Việt
Nam,...
Nhắc đến Phật giáo Việt Nam nói chung cũng như triết học Phật giáo nói riêng
, chúng ta khơng thể khơng nhắc tới Trần Nhân Tơng. Ơng đã kế thừa dịng chảy
của những vị tiền bối đi trước và vận dụng linh hoạt nó vào tư tưởng Thiền giáo.
Nghiên cứu về ông cũng như về tư tưởng Thiền học có khá nhiều cơng trình như
sau:
Tác giả Lê Mạnh Thát cũng có khá nhiều bài báo, bài nghiên cứu về Thiền học

hay cũng như những bài viết về Trần Nhân Tông. Cụ thể là cuốn “Tồn tập Trần
Nhân Tơng” (Nxb Tp HCM, 2000), qua khái quát tổng hợp toàn bộ những tư tưởng
và hành động của Trần Nhân Tông trong công cuộc dựng và giữ nước, đặc biệt tác
giả đi nhấn mạnh vào tài khéo léo ứng dụng đạo Phật trong công cuộc trị quốc, an
dân của Trần Nhân Tơng. Ngồi ra Lê Mạnh Thát cịn viết một số cuốn sách như
cuốn “Trần Nhân Tơng, con người và tác phẩm” (1999, Nxb Tp. HCM); bài viết
“Một số vấn đề tư tưởng của Trần Nhân Tông” (ngày đăng: Thứ 7, ngày
10/8/2013);... Ở đây, tác giả đã đi nghiên cứu tìm hiểu về Trần Nhân Tơng nói
chung cũng như là triết học Phật giáo Trần Nhân Tông nói riêng.
Tác giả Nguyễn Tài Thư với điển hình trong cuốn “Xu hướng nhập thế trong
tư tưởng Phật giáo Trần Nhân Tơng” (tạp chí Nghiên cứu tơn giáo, số 11/2009,
tr.13-20). Tư q trình phân tích lập luận tác giả đi đến kết luận: Ở Trần Nhân Tông
thể hiện rõ sự thống nhất hai mặt ở con người ông là con người của triều thần và
con người của Phật tử.
Tiếp đến là những cơng trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Tài Đơng, trong
“Việt Nam hóa Phật giáo ở Trần Nhân Tơng” (Tạp chí triết học số 12/2008, tr 3846), tác giả đã đi làm rõ tư tưởng “tức tâm tức Phật” của Trần Nhân Tơng. Từ đó đi
phân tích và nhấn mạnh vào vai trị của Trần Nhân Tơng trong hai cuộc kháng chiến
chống quân Nguyên Mông và tinh thần cởi mở của ông trong việc kết hợp tam giáo,
trong đó lấy Phật giáo làm xương sườn cho vận mệnh quốc gia. Tác giả cũng đi
4


khẳng định, Thiền học ở Trần Nhân Tơng khơng thốt ly cuộc sống mà lúc nào
cũng thấm đẫm hơi thở của cuộc sống, tất cả vì nhân sinh. Cùng với đó là một số
bài báo, như “Việt Nam hóa Phật giáo ở Trần Nhân Tông” của tác giả Nguyễn Tài
Đông (Tạp chí triết học, số 12 (211), tháng 12 – 2008),...
Tác giả Thích Chân Tuệ thì đã cho xuất bản hai cuốn “Cư trần lạc đạo” (Nhà
xuất bản Tôn giáo PI2551 – DL 2007) để giới thiệu cho độc giả một khái khái lược
và bao quát nhất về Trần Nhân Tông. Trong cuốn sách tác giả đã đi vào từng phần
một như: An lạc hạnh phúc, Bát chánh đạo, Bát phong, Bất tuy phong biệt, chánh

kiến và chánh tín,… hay ở tập II, tác giả đã giới thiệu cho độc giả về Chánh ngữ,
Giác ngộ và giải thoát, hay là Làm sao gặp Phật?...
Tác giả Nguyễn Hùng Hậu với “Tinh thần nhập thế của Phật giáo Việ Nam
thời Lý – Trần” (Viện nghiên cứu Tôn giáo Hà Nội, 1990, tr39-45). Tác giả đã đưa
lăng kính thời kỳ Lý – Trần để nhìn nhận về tinh thần nhập thế của Trần Thánh
Tông. Và cho độc giả thấy rõ , nhập thế là sự lựa chọn tích cực của Phật giáo Việt
Nam nói chung và Phật giáo Lý – Trần nói riêng, trong đó Trần Nhân Tơng là một
nhân vật điển hình.
Ngồi những tác giả đã nêu trên, cịn có rất nhiều những cơng trình nghiên cứu
về Phật giáo Việt Nam nói chung, cũng như Phật giáo Trần Nhân Tơng nói riêng.
Một trong số đó có một nghiên cứu chuyên sâu, cụ thể như trong luận án của Bùi
Huy Du “Tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông” số 6222.80.01. Trong luận án
này, tác giả đã đi nghiên cứu và hệ thống lại toàn bộ những tư tưởng triết học trọng
tâm của Trần Nhân Tông như: thế giới quan trong tư tưởng triết học Trần Nhân
Tông (tr 86-113), nhân sinh quan và triết lý đạo đức (tr.114-122). Hay Nguyễn Kim
Sơn với “Cội nguồn triết học của tinh thần Thiền nhập thế Trần Nhân Tông”;
Nguyễn Lang với Việt Nam Phật giáo sử luận” (Nxb Văn học, Hà Nội, 2008); Đỗ
Trung Lai với “Trần Nhân Tông, nhân vật kiệt xuất nhất trong sơ đồ Phật giáo Việt
Nam” (Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 1/2008)... và rất rất nhiều cơng trình nghiên
cứu cũng như các bài viết khác.

5


Như vậy, cho đến nay đã có khá nhiều luận văn, luận án, cũng như các sách
báo của các tác giả đi nghiên cứu về Phật giáo, Triết học Phật giáo nói chung, cũng
như là triết học của Trần Nhân Tơng nói riêng. Với giới hạn nhận thức của bản thân
cũng như giới hạn của bước đầu nghiên cứu, khóa luận của tôi kế thừa và phát huy
kết quả từ những cơng trình nghiên cứu đi trước, từ đó xây dựng nên “Một số vấn
đề cơ bản trong triết học Phật giáo của Trần Nhân Tơng”.

3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của khóa luận là đi tìm hiểu về bối cảnh ra đời thiền phái Trúc Lâm,
cũng như làm rõ một số vấn đề triết học Phật giáo của Trần Nhân Tơng
Để hồn thành mục đích trên, khóa luận của tơi sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau:
Làm rõ bối cảnh hình thành triết học Phật giáo Trần Nhân Tơng
Phân tích một số tư tưởng nổi bật triết học Phật giáo của Trần Nhân Tông
4. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu các tài liệu về bối cảnh Phật giáo Việt Nam
thế kỷ XIII và các tác phẩm triết học Phật giáo của Trần Nhân Tông.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp luận của triết học Mác - Lênin và các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, nghiên cứu văn bản... để
lập luận. .
6. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, tiểu kết và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của khóa luận gồm 2 chương và 4 tiết

6


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. BỐI CẢNH VÀ TIỀN ĐỀ TƯ TƯỞNG HÌNH THÀNH
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO CỦA TRẦN NHÂN TƠNG
1.1.

Bối cảnh Phật giáo thời Trần

Bắt tay nghiên cứu vào Phật giáo mà bỏ qua Phật giáo thời Trần, thì quả là
một thiếu sót vơ cùng lớn. Vì Phật giáo đời Trần là thời đại mà Phật giáo thật sự hoà
nhập từ hình thức lẫn nội dung, yếu tố đưa đến thành công và những đặc sắc của

đạo Phật.
Đạo Phật thật sự đã được gieo mầm từ lâu và đã trải qua hàng bao thế kỷ, nó
đã thích nghi với con người và phong tục Việt Nam, đến đời Trần là đỉnh cao để
Phật giáo Việt Nam đơm hoa kết nụ sau thời gian dài được Việt Nam hóa. Phật giáo
đã trở thành cốt tuỷ và hoà nhập với nền văn hóa dân tộc. Do đó nó hồn tồn phù
hợp với tâm tư nguyện vọng của dân tộc Việt Nam ta.
Khi chiến tranh chống ngoại xâm Nguyên Mông, đạo Phật là trí tuệ tập hợp
những tâm hồn yêu nước, thương dân, đồn kết mọi người một lịng với ơng Bụt từ
bi và giáo lý thực tiễn không tách rời cuộc sống bằng thân, khẩu, ý. Đặc sắc của
Phật giáo đời Trần là tính tích cực nhập thế, đạo khơng tách rời đời và đời cũng
khơng thiếu vắng đạo, nó trở thành một hợp thể linh động, sáng tạo và diệu dụng
trong mọi hồn cảnh. Có thể nói rằng các vị vua, các thiền sư đã sử dụng đúng tiềm
năng của đạo Phật, khiến cho nó trở thành Phật giáo Việt Nam mà không phải Phật
giáo Trung Hoa hay Ấn Độ từ cách nhìn, suy nghĩ cho đến hành động.

7


1.1.1. Những chính sách buổi đầu của nhà Trần
Triều Lý1 tàn tạ và bất lực trong quản lý đất nước đã trở nên cần thiết phải
được thay thế bằng một triều đại khác. Nhà Trần2 đã thay thế nhà Lý cai trị đất
nước, ban hành nhiều chính sách nhằm phát triển kinh tế và củng cố vương quyền
của dòng họ Trần. Do vậy, các vua Trần đã nhanh chóng phục hồi nền kinh tế của
Đại Việt lúc bấy giờ, đồng thời đưa Đại Việt lên vị trí thành một cường quốc ở
Đông Nam Á.
Nhà Trần tuân theo qui luật phát triển của nhà nước quân chủ tập quyền. Ngay
khi tập trung những quyền lực trong triều đã cho biên soạn một bộ luật mới, đó là
bộ luật hình thư.
Mở rộng đất đai về phía Nam và tiến hành ban cấp hàng loạt ruộng đất cho q
tộc và quan lại. Ngồi quí tộc họ Trần, các vị cao tăng của Phật giáo cũng được

hưởng chế độ ban cấp này. Sự hậu đãi ấy đã dẫn đến sự xuất hiện của các tự viện
lớn.
Với những quyền lực to lớn về kinh tế, chính trị, quân sự… của quí tộc biểu
hiện những yếu tố phân tán còn tồn tại trong xã hội đời Trần. Tuy nhiên, những yếu
tố đó khơng những khơng gây ra tình trạng cát cứ chống lại chính quyền trung
ương, mà về nhiều mặt còn làm tăng thêm sức mạnh cho triều đình. Sự củng cố
quan hệ họ hàng, bà con trong hồng tộc bằng lợi ích kinh tế có tác dụng thắt chặt
tinh thần cố kết trong giai cấp thống trị. Điều đó cũng thể hiện rõ trong lời nói của
Trần Thánh Tơng với các tơn thất : “Thiên hạ là thiên hạ của Tổ tông, người nối
nghiệp của Tổ tông nên cùng với anh em trong họ cùng hưởng phú q. Tuy bên
ngồi thì cả thiên hạ tơn thờ một người, nhưng bên trong thì ta cùng các khanh là
đồng bào ruột thịt, lo thì cùng lo, vui thì cùng vui”3.

1

Triều nhà Lý: niên đại kéo dài từ 1009 - 1225

2

Triều nhà Trần: niên đại kéo dài từ 1225 - 1400

3

Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Viện KHXHVN, Nxb KHXH, Hà Nội, 1998
8


Những bước phát triển mới trong chính sách buổi đầu của nhà Trần không
những củng cố thêm cơ sở vật chất của quốc gia phong kiến, mà cịn có tác dụng
quan trọng nâng cao đời sống của người dân và tăng thêm sức mạnh quốc phòng

của đất nước.
1.1.2. Vài nét về đời sống tư tưởng đời Trần
Theo như chúng ta đã biết, Phật giáo xuất phát từ Ấn Độ và truyền sang các
nước Đơng Á theo hai đường đó là: phía bắc sang Tây Tạng, Mơng Cổ, Trung Hoa,
Nhật Bản, Triều Tiên; phía đơng sang Miến Điện, Thái Lan, Indonexia và miền nam
Đơng Dương. Từ đó đã hình thành hai phái Phật giáo đại thừa và Phật giáo tiểu
thừa.
Trước tiên là Phật giáo đại thừa, Phật giáo đại thừa truyền sang nước ta vào
khoảng đầu công nguyên và phát triển mạnh trong các thế kỷ VII, VIII, IX. Thời
bấy giờ đã có những cao tăng người Việt xuất thân từ tầng lớp hào trưởng. Từ khi
nhà nước dành độc lập, Phật giáo tiếp tục phát triển và được coi là quốc giáo.
Trị vì từ năm 968 đến 97, Đinh Tiên Hoàng đã phân phẩm hàm cho nhà sư và
cấp tự điền cho nhà chùa. Thời Tiền Lê, sư tăng ngày càng có vai trị quan trọng
trong triều đình, được đặc biệt ưu đãi, thường giữ việc đi sứ hoặc tiếp sứ. Đến thời
Lý, Phật giáo bước vào giai đoạn hưng thịnh nhất. Và cho đến thời Trần thì Phật
giáo thời bấy giờ đã chi phối xã hội một cách mạnh mẽ. Bấy giờ, chùa chiền được
dựng lên ở khắp nơi, từ kinh đô Thăng Long cho đến mọi miền của đất nước. Cũng
bấy giờ số người xuất gia tu hành rất đơng, trong số đó có cả những người trong
hồng tộc, thậm chí là cả hồng đế. Trong hồng tộc, nhiều người rất mộ Phật. Họ
thường thỉnh các bậc cao tăng về tư dinh để được nghe giảng đạo. Phật giáo đời
Trần đã có những đóng góp lớn lao, ưu điểm lớn nhất của Phật giáo là tinh thần
khoan dung và tự do. Phật giáo không bao giờ chống đối và chỉ trích Nho giáo và
Đạo giáo. Phật giáo đã để cho Nho giáo và Đạo giáo phát triển. Chính những Phật
tử thuần thành nhất như Trần Thái Tông và Trần Thánh Tông đã mở rộng Nho giáo.
Năm 1253, Trần Thái Tông lập Quốc học viện ở kinh sư và tạc tượng Chu Công,
Khổng Tử, Mạnh Tử, cùng vẽ tranh 72 vị tiền hiền để thờ cúng. Trần Thánh Tông
9


đã cho hồng đệ là Trần Ích Tắc mở trường dạy Nho học. Nhà Trần đãi kẻ sĩ một

cách khoan dung, khơng hẹp hịi, hồ vị mà có lễ phép, cho nên nhân sĩ thời ấy ai
cũng biết tự lập anh hào tuấn vì vượt ra ngồi lưu tục, làm cho quang vinh cả sử
sách, không thẹn với trời đất.
Bấy giờ, cùng chung thời thịnh với Phật giáo là Đạo giáo. Đền miếu được
dựng lên ở khắp nơi. Số lượng đạo sĩ cũng khá đơng đảo. Trên vũ đài chính trị và tư
tưởng của nước nhà, nhất là trong thời hùng mạnh của triều Trần, sau vị trí chi phối
của Phật giáo chính là vị trí quan trọng của Đạo giáo. Tuy nhiên, gắn liền với sự
phát triển của Phật giáo và Đạo giáo đến thế kỷ XIV, Nho giáo vươn lên lấn át ưu
thế của Phật giáo. Với các thuyết “Thiên mệnh” “Chính danh”, Nho giáo khuyên
người ta ở đời hãy chấp nhận danh phận của mình, trực tiếp bảo vệ trật tự quân chủ,
biện hộ cho quyền áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị.
Ở các thế kỷ X – XIV, Phật giáo ở Việt Nam đã phát triển cực thịnh. Trong
khi Nho giáo chưa trở thành ý thức hệ chính thống của nhà nước quân chủ trung
ương tập quyền, thì Phật giáo đã có tác dụng thống nhất nhân tâm tạo điều kiện cần
thiết để củng cố và phát triển nhà nước quân chủ. Do vậy, Phật giáo ở các thế kỷ
này có ảnh hưởng sâu sắc đến tồn bộ sinh hoạt văn hố đương thời và in dấu rõ nét
trong văn học, nghệ thuật. Thế nhưng từ giữa thế kỷ XIV thì vị trí đó nó đã thay đổi
hồn tồn đó là Nho giáo đứng vị trí quan trọng nhất, kế đến là Phật giáo, sau cùng
là Đạo giáo. Đến đầu thế kỷ XV, tình hình đó lại biến đổi nữa đó là từ đây trở đi
Nho giáo chiếm vị trí độc tơn, cịn Phật giáo và Đạo giáo tuy vẫn tiếp tục phát triển,
thậm chí là khơng hề thua kém trước đó nhưng đã lùi ra khỏi vũ đài chính trị, tư
tưởng để phát triển ở trong lòng xã hội. Đây là nét mới trong đời sống tư tưởng của
đời Trần. Có một số người cho rằng như thế là Phật suy, Đạo suy là khơng đúng.
Bởi vì nó khơng cịn có mặt trên vũ đài chính trị và tư tưởng. Sự phát triển của một
tơn giáo khơng phải là tơn giáo đó có bao nhiêu người làm quan. Điều đáng nói
trong đời sống tư tưởng là chủ nghĩa yêu nước lúc này là dịng chủ lưu nhưng đã
góp phần làm cho chủ nghĩa yêu nước phát triển. Trong đó có cả sự cống hiến của
nhà Phật.

10



“Nhân loại vĩnh viễn mắc vào ba vấn đề cơ bản: Xung đột với thiên nhiên;
Xung đột với tha nhân; Xung đột với chính mình” Bertrand Russell đã nhận xét
Nhờ có đủ tài đức mà các vị vua Trần đã động viên được sự đoàn kết ủng hộ
của mọi tầng lớp nhân dân. Do đó đã lãnh đạo tồn dân kháng chiến chống quân
xâm lược đạt đến thành công rực rỡ. Lịch sử cho chúng ta thấy, mỗi khi tổ quốc
đứng trước những thử thách khắc nghiệt một mất một cịn thì mọi người cùng đồn
kết bên nhau để bảo vệ sự sống cịn của bản thân mình và sự tồn tại của quê hương
xứ sở. Nhưng muốn thu phục được tồn dân thì các nhà lãnh đạo phải có thực tài
thực đức. Đó là những yếu tố rất tiên quyết mà các vì vua đầu đời Trần đều có đủ.
Nhờ vậy mà họ đã thành công. Theo đà của những cuộc chiến thắng, mọi người đều
phấn khởi tinh thần, do đó đất nước phát huy được nhiều mặt tích cực, như nền
kinh tế mở mang, pháp luật nghiêm minh, chính trị ổn định, võ bị vững chắc, ngoại
giao thắng lợi, văn học khởi sắc, giáo dục được củng cố.v.v… Tất nhiên không loại
trừ cơ hội thuận lợi nhất cho việc phát triển tôn giáo, đê cao và quảng bá chính
pháp. Các nhà lãnh đạo quốc gia lúc bấy giờ vốn là những Phật tử thuần thành. Thế
nên những chiến cơng chính nghĩa, vẻ vang của họ cũng có thể mặc nhiên xem như
những thắng lợi của Phật giáo. Trong hoàn cảnh mà đất nước trên đà cường thịnh,
dân chúng an cư, lạc nghiệp mọi người có điều kiện phát huy tài năng về nghề
nghiệp của mình để kiến tạo một xã hội thanh bình, xây dựng tương lai tươi sáng,
thì một tơn giáo mang bản chất nhập thế hành động như đạo Phật, hẳn nhiên được
phát triển rực rỡ lúc bấy giờ.
1.2.

Một số tiền đề tư tưởng cho sự hình thành triết học triết học Phật giáo
Trần Nhân Tơng
Về danh nghĩa, tông Trúc Lâm ra đời năm 1229 khi Trần Nhân Tông xuất gia

vào núi Yên Tử tu hành, thu nhận đồ đệ hình thành sơn mơn n Tử. Thế nhưng

trên thực tế, tư tưởng sơn môn Yên Tử phải kể từ khi Trần Thái Tông, Tuệ Trung
thượng sĩ, hai tiền bối của Trần Nhân Tông.4 Cho nên nghiên cứu tư tưởng triết học

Trích trong “Triết học Phật giáo Việt Nam”, tr.415, PGS. Nguyễn Duy Hinh, Nxb.VHTT và Văn
hóa Việt Nam
4

11


thiền phái Trúc Lâm không thể không đề cập tới hai vị tiền bối đó. Dưới đây, dưới
nghiên cứu của một bài khóa luận, tơi đề cập tới 3 vị: Trần Thái Tông, Trần Thánh
Tông, Tuệ Trung thượng sĩ là những người có ảnh hưởng lớn tới tư tưởng Trần
Nhân Tông.
1.2.1. Trần Thái Tông – Trần Thánh Tông, hai vị Hoàng đế đầu đời Trần và
những chủ trương đối với Phật giáo.
Trần Thái Tơng chính là vị tiền bối đầu tiên mà Trần Nhân Tông chịu ảnh
hưởng. Trần Thái Tông tên là Trần Cảnh, con thứ của Trần Thừa, sinh năm Mậu
Dần niên hiệu Kiến Gia thứ tám (1218) Triều Lý. Gia thế ở hương Tức Mặc, phủ
Thiên Trường (nay là xã Tức Mặc,huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định) ông cha làm
nghề đánh cá. Nhờ có cơng dẹp loạn, họ Trần dần dần có thế lực từ đời Lý Cao
Tơng. Trần Cảnh mới có tám tuổi được Lý Chiêu Hồng nhận làm chồng và truyền
ngôi cho, lấy hiệu là Thái Tông. Thế là sự nghiệp nhà Lý đến đây đã chấm dứt. Lịch
sử Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn nhà Trần. Năm Thái Tông
lên 20 tuổi, Lý Chiêu Hoàng 19 tuổi đang là Hoàng hậu, bị Trần Thủ Độ ép Thái
Tơng giáng Chiêu Hồng làm cơng chúa, lấy Thuận Thiên là vợ Trần Liễu (anh ruột
Thái Tơng) làm Hồng Hậu. Lý do, vì Trần Thủ Độ nơn nóng Thái Tơng có con để
kế thừa, mà Chiêu Hoàng chậm con, Thuận Thiên đang mang thai.
Trước khi Trần Thái Tơng n tâm ở ngơi báu trị vì đất nước, năm 1236, theo
bài tựa “Thiền tông chỉ nam”, ông đã trốn lên Yên Tử gặp Quốc sư Trúc Lâm đại sa

môn xin đi tu. Theo sách “Thiền uyển tập anh” thì vị Quốc sư này có thể là Viên
Chứng, thế hệ nhà sư thứ hai tu ở Yên Tử. Trần Thái Tông đã chịu ảnh hưởng tư
tưởng Thiền trực tiếp từ vị quốc sư này. Theo lời khuyên của Quốc sư, Trần Thái
Tơng đã thuận lịng trở về kinh thành, vừa chuyên tâm cai trị đất nước, vừa gắng
sức nghiên cứu Thiền họ. Sau khoảng 10 năm, ông đã viết cuốn “Thiền tơng chỉ
nam”. Sách này nay khơng cịn mà chỉ cịn bài tựa. Theo đó, ta biết được lời khuyên
của Quốc sư và căn cứ vào hành trạng của Trần Thái tơng, ta có thể đốn định rằng
ơng đã thấu triệt tôn chỉ Thiền tông trong lời khuyên này: “Trong núi vốn khơng có
Phật. Phật ở ngay trong lịng. Lịng lặng lẽ mà hiểu, đó chính là Phật. nay nếu bệ

12


hạ giác ngộ điều đó thì lập tức thành Phật, khơng cần khổ cơng tìm kiếm bên
ngồi”5.
Qua câu nói này có thể thấy những thành tựu tư tưởng Thiền Phật giáo thời
Lý đã có ảnh hưởng lớn đến các vị trụ trì trên núi Yên Tử, chịu ảnh hưởng của thiền
phái Vô Ngôn Thông, là phái thiền tập trung vào khái niệm tâm. Theo Thiền phái
Vơ Ngơn Thơng thì Phật tức tâm, tâm tức Phật, khi người tu tập khiến cho cái tâm
trở nên trong sạch, trở nên siêu việt trên mọi ý niệm, trở thành “tâm khơng” thì đó
chính là lúc tâm đồng nhất với Phật. Lời của Quốc sư đã chỉ ra những yếu chỉ cơ
bản của Thiền Vơ Ngơn: 1-Phật tại tâm (lịng), 2-tu tập đến độ giữ cho tâm yên tĩnh,
phẳng lặng , đạt tới “tâm không” mà thấu đạt mọi lẽ là đạt tới cảnh giới Phật, 3Giác ngộ được chân lý đó là thành Phật. Với những chỉ dẫn này của Quốc sư, Trần
Thái Tông đã trở về kinh thành và suy niệm, triển khai tư tưởng Thiền theo hai
hướng: 1-tiếp tục triển khai tư tưởng “tâm khơng” như là bản thể, diệu tính, chân
như của vạn vật và một số tư tưởng Thiền học khác mang tính lý luận siêu hình
un áo; 2-hướng dẫn phương pháp tu tập Thiền để thanh lọc thân tâm, hướng tới
giác ngộ. Tất thảy những tư tưởng đó đều có trong sách “Khố hư lục”- sách tập
hợp một số tác phẩm của ơng cịn lại đến ngày nay. Theo Việt sử tiêu án của Ngơ
Thì Sĩ thì Trần Thái Tông viết sách này sau khi nhường ngôi vào núi tu hành, trong

khoảng từ năm 1258 đến năm 1277.
“Khóa hư lục” gồm tất cả 3 quyển, trong đó “quyển Thượng” và “quyển
Trung” và “quyển hạ”.
Đầu tiên là Quyển thượng. Trong cuốn này nói về nghĩa “hư vơ” và chỉ ra
rằng, vì người ta khơng biết thân mình là hư vơ nên mới chìm đắm ở bến mê, trơi
dạt trong bể khổ và qua lại vòng luân hồi, lên xuống trong khoảng bốn núi, bốn núi
nói ở đây là sinh, lão, bệnh, tử. Trong quyển thượng, tác giả cho rằng thân người là
đáng trọng đáng q, và chính vì thế nên phải biết trân trọng và giữ gìn. Ngồi ra
ơng cũng chỉ ra cho chúng ta biết về ba điều khó gặp của thân, đó là: thứ nhất, trong
sáu đường (lục đạo) thì chỉ có con người là q nhất; thế mà không được làm người

5

Tổng tập văn học Việt Nam.Sđd. Tập 2. Tr. 30
13


mà rơi vào con đường khác - đó là điều khó gặp thứ nhất; điều khó gặp của thân thứ
hai là được làm người nhưng lại sinh ở nơi mọi rợ… khơng được giớ nhân, khơng
nhuần thánh hố; điều khó gặp cuối cùng là tuy sinh ra ở đất nước văn minh nhưng
sáu căn khơng đủ, bốn thể khơng tồn.
Theo Trần Thái Tông, tuy “thân mệnh” là đáng trọng, nhưng cũng còn chưa
trọng bằng cái đạo tối cao. Các bậc thánh nhân khinh thân mình mà trọng đạo.Muốn
vượt vịng ln hồi lục đạo thì chỉ cịn đường tắt nhất thừa (bồ tát). Nên tìm chính
kiến; chớ tin tà sư. Hiểu rồi mới có lối vào; tu được mới hay thốt tục.Đó là mục
đích của Trần Thái Tơng muốn mọi người tích cực đi vào con đường tu hành để
tránh sự mê lầm, để “trở về quê hương”, tức bản lai diện mục, kiến tính thành Phật.
Sau “Quyển hạ” là “Quyển trung” gồm các bài kệ và các bài văn chúc hương
buổi sáng, bài kệ dâng hương, bài kệ dâng hoa và bài văn khải bạch. Quyển hạ bắt
đầu bằng bài kệ răn chúng chập tối, bài văn chúc hương chập tối, bài kệ dâng

hương, bài kệ dâng hoa, bài văn khải bạch, rồi đến mấy bài sám hối về các tội thiệt
căn, thân căn, ý căn, tương đương với ba buổi mặt trời lặn, nửa đêm và cuối đêm,
mỗi bài sám hối cũng đều kèm theo những câu và những bài như ở quyển trung.
Ông quan niệm bản thể là không, thế giới hiện tượng cũng là không, chẳng
qua là do vọng niệm, do cái tâm chấp cảnh mà thành khởi niệm. Một trong những
nét dặc thù của Trần Thái Tơng là việc ơng dùng hình ảnh “Q hương” để diễn tả
về cái Phật tính, Tự tính, nhằm khơi dậy tình cảm của con người trên con đường tu
hành giác ngộ.
Theo ông, con đường nhận thức được bản thể vốn khơng và đích cuối cùng là
giải thốt, là sự từ bỏ vọng niệm, vọng tâm để đến với trạng thái vơ niệm của tâm đó là con đường nhận thức luận. Con đường ấy trải qua các bước trì giới, thiền định
cuối cùng là giác ngộ. Tam học kết hợp với sám hối. Ông nhấn mạnh rằng, “muốn
rửa thân và tâm mà khơng dùng lễ sám hối thì khác gì muốn tiện đi lại mà không
dùng thuyền xe”. Sám hối là nhằm gột rửa sạch mọi nhơ bẩn để “khiến thân lịng
trong trẻo, trụi sạch như trước, gió tắt sóng lặng …”. Trần Thái Tông đã lấy sáu căn
chia sáu buổi, mỗi buổi làm lễ sám hối một căn. Gọi là lục thì sám hối.

14


Khi bàn về “giới định tuệ” ông cho rằng, con đường của chư Phật chỉ có kinh
Phật mà thơi. Những điều trong kinh khơng ngồi ba việc: Giới định tuệ. Giải thốt
luận nói rằng, giới định tuệ là nói về con đường giải thoát.Giới nghĩa là uy nghi;
định nghĩa là không loạn; tuệ nghĩa là hiểu biết. Giới là giai đoạn đầu; định là giai
đoạn giữa; tuệ là giai đoạn cuối của thiện… Ngồi giới định tuệ, Trần Thái Tơng
cịn bàn về niệm Phật. Mục đích của niệm Phật là nhằm khơi dậy nghiệp chính và
dập tắt ba nghiệp chướng do thân, miệng và ý gây ra.
Bài tựa Thiền tông chỉ nam với quan điểm “Phật không phân biệt Nam Bắc, ở
đâu cũng có thể tu cầu; tính có cả trí ngu, tính nào cũng có thể giác ngộ”. Lời của
Trúc Lâm đại sa môn đã làm cho ông thức tỉnh khi biết tâm trạng của ông muốn vào
núi cầu Phật: Trong núi vốn khơng có Phật, chỉ có trong lịng. Lịng lặng mà biết, ấy

là chân Phật. Ví bằng Bệ hạ giác ngộ lịng ấy, thì lập tức thành Phật, khơng cần phải
nhọc cầu ở ngồi. Thấm nhuần điều đó, lại đọc kinh Kim Cương có câu “Ưng vơ sở
trụ nhi sinh kỳ tâm” (Đừng bám vào gì mà để lịng vào, tức xem mọi vật đều là
khơng hết mà đối với mọi vật đều là vô tâm), Trần Thái Tơng bỗng nhiên giác ngộ.
Tác phẩm “Khóa Hư Lục” của Trần Thánh Tông đã khẳng định rõ ràng bản
thế của thế giới (Phật tính, chân như, v.v.) tất thảy đều là không. Đã vạch ra phương
pháp đạt đạo (đi đến giác ngộ thông qua tu hành sám hối,…). Đây là một Khóa tác
phẩm mang ý nghĩa lý luận sâu sắc cho thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, được Tuệ
Trung thượng sĩ (Trần Tung) và Trần Nhân Tông cũng như các thiền sư về sau phát
triển thành hệ thống giáo lý quan trọng.
Qua đây, ta có thể rút ra được một số tư tưởng Thiền học căn bản Thiền học
của Trần Thái Tơng đó là lấy tâm làm khái niệm căn bản để chỉ bản thể của thế giới.
Trần Thái Tông kế thừa quan niệm bản thể thế giới là không của Thiền học thời Lý:
“Nguyên lai, tứ đại vốn là khơng, ngũ uẩn cũng chẳng có. Từ khơng khởi ra hư
vọng, từ hư vọng thành ra sắc tướng mà sắc tướng là từ cái chân khơng” 6.
Bốn núi chót vót mn khóm xanh,
Hiểu ra thì tất cả là hư vô, vạn vật là không”7
Tổng tập văn học Việt Nam.Sđd. Nói rộng về bốn núi.Tập 2.Tr. 34.

6

Nt. Bài kệ về bốn núi. Tr. 35

7

15


Bên cạnh khái niệm về tính khơng như trên, Trần Thái Tơng cịn đưa ra các
khái niệm “chân tể”, “bản tính”, “chân tâm”. “bản tâm” để chỉ bản thể của thế

giới: “Bản tính huyền ngưng, chân tâm trạm tịch, dứt tuyệt ý niệm về trịn khuyết,
nếu khơng phải là người trí thì khơng truy cứu đến giềng mối của nó. Nó khơng
hợp, khơng tan, khơng mất, khơng cịn… Vì nó không phải hữu cũng không phải vô,
không đạo cũng không tục, nó độc tồn, siêu nhiên, ngồi nó khơng có gì khác, vì
vậy nó là tự tính kim cương8.
Quan niệm chân tâm đồng nhất với tính khơng như trên của Trần Thái Tơng
có rất nhiều điểm đồng nhất với quan niệm về “đạo” của Lão Tử. Điều này cũng
được ông thừa nhận khi tiếp tục quan điểm Thiền học thời Lý cho rằng mọi người
đều có Phật tính, ai ai cũng có thể thành tựu được q trình tu tập, đạt tới giác ngộ
nếu nhận thức được Tâm không: “Nào biết bồ đề giác tính, ai nấy viên thành; hay
đâu trí tuệ thiện căn, người người đều đủ. Chẳng cứ đại ẩn tiểu ẩn; đâu nền tại gia
xuất gia.Chẳng nề tăng tục, chỉ cốt tỏ lòng; nào kể gái trai, cớ sao nề tướng?Người
chưa hiểu chia bừa thành tam giáo; giác ngộ rồi cùng thấu một chữ tâm”9.
Từ quan niệm tâm khơng đồng nhất với Phật tính, đồng nhất với bản thể của
vũ trụ, Trần Thái Tông đi tới những kiến giải nhận thức luận về thế giới sự vật hiện
tượng bên ngoài.
Lý giải sự xuất hiện của thế giới giả tượng, Trần Thái Tông cho rằng do niệm
khởi, duyên hội, ngũ uẩn hợp thành. Chân tâm vốn như gương, do vọng niệm mà
trở nên mờ tối, do đó mà có thế giới giả tượng: “Pháp tính như như, khơng vướng
mảy may niệm lự. Chân tâm lặng lặng xưa nay vốn dứt bụi nhơ.Chỉ vì bị che lấp
nên vọng duyên mới khởi, ảo thể hiện thành”10. Do vậy, cần phải làm cho chân tâm
trở lại tĩnh lặng, trong sáng để dập tắt vọng duyên, có vậy mới thấy được chân tính,
bản thể.
Trích theo Lịch sử Phật giáo Việt Nam. Nguyễn Tài Thư chủ biên.NXB KHXH.HÀ Nội. 1988.
Tr. 219-220.
8

Tổng tập văn học Việt Nam.Tập 2.Sđd. Rộng khuyên mọi người mở lòng bồ đề.Tr. 50.

9


Trích theo Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nguyễn Tài Thư chủ biên, NXB KHXH. Hà Nội. 1988.
Tr. 220
10

16


Tuân thủ nguyên lý căn bản của Thiền học “kiến tính thành Phật”. Ơng cho
rằng: “Người học đạo chỉ cốt thấy được bản tính”11. Theo nguyên tắc Thiền học,
Trần Thái Tơng quan niệm, để kiến tính, thấy được bản tính Phật, thấy được chân
tể, phải “cố thủ nội khán” (quay đầu nhìn vào bên trong), hướng vào tu tập nội tâm
để thấy tính: “Nếu hay phản chiếu hồi quang, đều được rõ tính thành Phật”12.
Như vậy, Trần Thái Tơng tiếp tục xu hướng Thiền học Vô Ngôn Thông, chú
trọng việc chiêm nghiệm tính khơng là bản thể vũ trụ, là chân tể của vạn vật.Khi
quay đầu nhìn vào bên trong (nguyên tắc thanh lọc nội tâm), tu tập để cho tâm bình
lặng, đạt tới trạng thái Tâm Khơng (dứt mọi niệm), là khi đó đã đạt tới cảnh giới
Phật. Do vậy, Phật tại tâm, khơng cần tìm kiếm đâu xa. Càng tìm kiếm ở ngoại giới
thì càng xa rời “quê hương”- xa rời Phật tính- bởi q trình tìm kiếm ở ngoại giới
đó sẽ bị lục căn, lục tặc (các giác quan) làm cho mê lầm:
“Mũi quyện mùi thơm, lưỡi tham vị ngọt,
Mắt mờ vì sắc đẹp, tai mê tiếng hát hay.
Mãi mãi làm khách phong trần trôi dạt,
Ngày càng xa quê hương muôn vạn dặm đường”13.
Qua một số tư tưởng Thiền học căn bản của Trần Thái Tông nêu trong sách
“Khoá hư lục” như trên, chúng ta thấy những tư tưởng này cuả ông một mặt là sự
tiếp nối tư tưởng Thiền học của phái Vô Ngôn Thông dưới thời Lý, mặt khác là sự
lý giải cụ thể hơn và sâu sắc hơn các nguyên lý tư tưởng mang tính siêu hình của
Thiền học. Nhờ đó, người học đạo dễ dàng tiếp cận tới chân lý Thiền học hơn là
những bài kệ súc tích mang tính yếu chỉ Thiền dưới thời Lý. Cũng do vậy mà Thiền

học qua cách diễn giải của Trần Thái Tông trở nên gần gũi với nhận thức với người
tu thiền và dân chúng. Đó là đặc trưng tư tưởng Thiền học của Trần Thái Tông.

Tổng tập văn học Việt Nam.Tập 2.Sđd. Bàn về ngồi thiền. Tr.62.

11

Nt. Sđd. Rộng khuyên mọi người mở lòng bồ đề. Tr.48.

12

13

Nt. Sđd. Núi thứ nhất. Tr. 37.
17


Vậy tu tập Thiền như thế nào? Xuất phát từ các nguyên lý tư tưởng Thiền học
căn bản nêu trên và từ các luận thuyết Phật giáo căn bản về Tứ diệu đế, Bát chính
đạo, Nghiệp, Thập nhị nhân duyên… Trần Thái Tông đưa ra những phương pháp tu
tập Thiền để người tu hành không bị mê lầm trên con đường chứng ngộ Phật tính.
Dựa trên lý lẽ của cả Nho, Phật, Đạo, Trần Thái Tông cho rằng: con đường tu
tập, thanh lọc thân tâm trước nhất phải là thực hành ngũ giới: không sát sinh, không
trộm cắp, không mê nữ sắc, khơng nói càn và khơng uống rượu. Như vậy, trên con
đường tu tập thì giới là bước khởi đầu. Đây chính là giai đoạn chế định ham muốn,
kiểm soát bản thân khỏi sự quyến rũ của các giác quan. Tuân thủ triết học Phật giáo
về giải thoát, Trần Thái Tơng dẫn giải q trình đi tới giác ngộ là con đường thiện
và chia con đường giải thoát thành 3 giai đoạn: giới, định, tuệ. Người tu hành thực
hành tốt cả ba giai đoạn thì mới có thể hồn toàn giác ngộ.
Giai đoạn đầu, nếu thành tựu được, người tu tập sẽ vui mừng khiến thân

nghiêng ngả nên vẫn chưa kiểm soát được cái tâm.
Giai đoạn hai của thiện, giúp cho thân dừng lại, giúp tâm đứng vững. “Vì tâm
đứng vững nên nhận biết được sự chân thực. Do vậy gọi là giai đoạn giữa của
thiện”14. Để đạt được giai đoạn hai của thiện là định, ông tập trung vào một số
phương pháp tu tập cơ bản cho người hành thiền: thụ giới, niệm Phật, ngồi thiền.
Thụ giới là việc tiếp nhận giới luật của Phật giáo. Người tu hành như người qua
sông phải dùng bè mảng tiếp nhận giới luật của Phật giáo giống như việc dùng bè
để qua sông vậy. “Giới như thuyền bè vượt qua bể khổ. Giới như chuỗi ngọc làm
cho pháp thân trang nghiêm”15.Thực hành giới luật Phật giáo chính là để chấm dứt
nghiệp thân.Cùng với phương pháp thụ giới là phương pháp niệm Phật. Ai cũng có
điều nghĩ, ai cũng có điều nảy sinh.Nghĩ, nảy sinh điều thiện thì nghiệp thiện
khởi.Nghĩ, nảy sinh điều ác thì nghiệp ác khởi. Tất cả đều do tâm động khởi mà
thành ý. Để khơi dậy ý nghĩa chân chính khơng gì bằng niệm Phật. Cuối cùng là
phương pháp Ngồi thiền, mục đích cuối cùng của thiền giả là chứng nghiệm Tâm
Tổng tập văn học Việt Nam.Tập 2.Sđd. Bàn về giới định tuệ.Tr. 58.

14

Nt. Sđd. Bàn về thụ giới.Tr. 59.

15

18


khơng, thấy được bản tính, giác ngộ. Trần Thái Tơng nhấn mạnh mục đích và tầm
quan trọng của phương pháp ngồi thiền là: “Người học đạo chỉ cốt thấy được bản
tính. Tuy chịu tất cả mọi tịnh giới mà khơng ngồi thiền thì định lực khơng sinh.định
lực khơng sinh thì ý nghĩ sai lầm không diệt được, thế mà lại muốn thấy bản tính,
chẳng cũng khó sao!”16.Ơng cho rằng cả đi, đứng, nằm, ngồi đều có thể thiền

nhưng chỉ có ngồi thiền mới là phương pháp hiệu quả nhất để dập tắt ý nghĩ, không
để “tâm vượn” trỗi dậy.Tuy nhiên, cũng có người ngồi thiền mà khơng tắt mọi ý
nghĩ thì đó là giả thiền và nguy hiểm như “ngồi dưới núi hắc Sơn trong hang
quỷ”17.Ông cũng chia ngồi thiền làm bốn loại để người tu hành tự kiểm nghiệm xếp
loại hành thiền của mình đang ở mức độ nào.Loại dùng kế lạ làm vui người trên,
chán kẻ dưới mà tu hành gọi là ngoại đạo thiền.Loại hết lòng tin ở nhân quả nhưng
cũng lấy việc làm vui, gây chán mà tu gọi là phàm phu thiền.Loại hiểu rõ lẽ cuộc
sống là khơng, chứng riêng được đạo chân chính mà tu hành, là tiểu giáo thiền.Loại
hiểu rõ người và pháp đều không mà tu hành là đại giáo thiền. Và Trần Thái Tơng
khuyến khích mọi người tu theo đại giáo thiền18.
Giai đoạn tuệ là giai đoạn cuối cùng của Giác ngộ. Theo Trần Thái Tông, “Tuệ
sinh ra từ định lực. Nếu như tâm định thì gương tuệ sinh; nếu tâm loạn thì gương
tuệ mất”19. Nhưng ơng cũng cho rằng định và tuệ có quan hệ tương hỗ lẫn nhau:
“Cho nên biết rằng tuệ xuất hiện từ định; định nảy sinh từ tuệ. Định và tuệ nương
dựa nhau, khơng bỏ sót một bên nào”20.nếu ngồi thiền mà tâm khơng định thì
gương tuệ khơng thể sinh, nếu có tuệ tính mà khơng tập ngồi thiền thì cũng khơng
thể đạt được gương tuệ “vắng lặng mà thường chiếu, thường chiếu mà vắng lặng”21.
Giai đoạn tuệ là giai đoạn lý tưởng của thiền giả. Đạt được trạng thái tuệ là thiền giả

Tổng tập văn học Việt Nam.Sđd. Tập 2.Bàn về ngồi thiền.Tr. 62.

16

17

Nt. Tr. 63.

18

Nt. Tr. 63.


Tổng tập Văn học Việt Nam.Sđd. Bàn về gương tuệ.Tr. 63.

19

Tổng tập văn học Việt nam.Sđd. Tập 2.Bàn về gương tuệ. Tr.63.

20

Nt. Sđd. Tr. 64.

21

19


đã đạt được trạng thái tâm không, chứng ngộ được bản tính, giác ngộ được chân lý
Phật tại tâm.
Như vậy, con đường tu tập của thiền giả bắt buộc phải trải qua ba giai đoạn
giới, định, tuệ nói trên. Đó cũng là con đường thiện, thanh lọc thân tâm, quay đầu
nhìn vào bên trong tâm thức, khiến cho thân được trong sạch, kiềm chế được lục
tặc, định được tâm, từ đó mở ra huệ nhãn giác ngộ chân lý nhà Phật. Trì giới, niệm
Phật, ngồi thiền là ba phương pháp căn bản mà thiền giả phải luôn luôn thực hành
trên con đường thiện để đạt được chân lý Phật tại tâm nói trên của Thiền phái.
Trần Thái Tơng được coi là người khơi nguồn Thiền học thời Trần. Bộ sách
“Khoá hư lục” là bộ sách mà Trần Thái Tông đã thâu tóm tồn bộ những yếu chỉ
căn bản về tư tưởng và phương pháp tu thiền của Thiền học Vô Ngôn Thông, diễn
giải chúng hết sức dễ hiểu và đầy đủ trong như trên đã phân tích. Sự tổng hợp và hệ
thống những yếu chỉ Thiền học đó của Trần Thái Tơng khơng chỉ có ý nghĩa xây
dựng những nền tảng cơ bản cho Thiền học thời Trần phát triển, giúp cho người tu

thiền đương thời và hậu thế tránh được những mê lầm trong nhận thức và thực hành
thiền, mà còn giúp phổ biến Thiền học và thu hút quảng đại dân chúng hướng tới tu
Thiền bởi sự giản dị, khúc triết trong cách dẫn giải tư tưởng và phương pháp tu
thiền đó.
Trần Thánh Tơng là cha của Trần Nhân Tơng, vậy nên tư tưởng của ơng có
ảnh hưởng rất lớn tới Trần Nhân Tông.
Vua Trần Thánh Tông tên là Trần Hoảng, là con thứ hai của Trần Thái Tông,
thân mẫu là Thuận Thiên thái hậu, người họ Lý. Thực ra, vua là con trưởng. Nhân
vua Thái Tông mơ thấy trời trao cho một gươm báu, Hoàng hậu liền có mang. Giờ
ngọ ngày 25 tháng 9 năm Canh Tý (1240 ) tại kinh thành Thăng Long, vua sinh ra
liền lập làm Hồng thái tử. Lên ngơi ngày 24 tháng 2 năm Mậu Ngọ (1258 ) đổi
niên hiệu Thiệu Long. Bản chất thiên tài, vẻ tốt ra ngồi sáng ngời, mang sẵn
những điều khác thường, xử sự dứt khoát, vừa xem rộng mọi sách vở, lại rất tinh
thông nội điển. Vua ở ngôi hai mươi năm, rồi nhường ngôi cho con là Thái tử Khâm
(Trần Nhân Tông) để lên làm Thái thượng hồng 12 năm. Sau đó xuất gia ở chùa
20


Tư Phúc, thờ quốc sư Đại Đăng làm thầy. Hằng ngày vua thường bàn luận với các
thiền khách, được truyền sâu ý nghĩa thiền, tự là Vô Nhị Thượng Nhân. Vua mất
ngày 25 tháng 5 năm Canh Dần (1290), thọ 50 tuổi.
Trong thời Ngài làm vua thì đất nứớc thạnh trị thái bình. Lúc Trần Thái Tơng
cịn ở ngơi vua thì giặc Nguyên sang đánh lần thứ nhất. Thời gian Ngài làm vua thì
khơng có giặc. Khi Ngài truyền ngơi cho Nhân Tơng lên làm Thái thượng hồng thì
giặc Ngun sang đánh lần thứ hai. Nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc đã
được bảo vệ và củng cố một phần lớn là nhờ vua Trần Thánh Tơng cùng với con
mình là vua Trần Nhân Tơng lãnh đạo thành công hai cuộc chiến tranh vệ quốc năm
1258 và 1278. Qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc ấy, vua Trần Thánh Tông thể hiện
là một vị anh hùng dân tộc. Trong giai đoạn nắm quyền từ năm 1258 cho đến 1278,
vua Trần Thái Tông đã tiến hành một đường lối ngoại giao mềm dẻo nhưng kiên

quyết với mục đích giúp dân tộc có đủ thời gian bồi dưỡng tiềm lực nhằm đối phó
với cuộc chiến tranh xâm lược, mà kẻ thù đang tìm cách áp đặt lên nước ta. Chính
nhờ đường lối ngoại giao mềm dẻo ấy, đất nước Đại Việt có hịa bình để chuẩn bị
và xây dựng lực lượng làm cơ sở cho những chiến thắng vang dội trong hai cuộc
chiến tranh vệ quốc năm 1258 và 1278.
Về mặt tư tưởng thì trong học lý Thiền Tơng, vua Trần Thánh Tơng có hai
đóng góp lớn. Thứ nhất, nhà vua tiếp thu ảnh hưởng xu thế chung của Phật giáo thời
đại mình cùng với tư tưởng thiền thuộc trường phái Dược Sơn Duy Nghiễm (751 841). Chính dưới thời vua Trần Thánh Tông tại ngôi, mà chùa Phổ Minh lịch sử
hiện còn tới ngày nay đã được xây dựng. Thứ hai, vua Trần Thánh Tông đã công
khai chấp nhận trường phái thiền Đại Huệ. Trường phái này do Đại Huệ Tông Cảo
(1089 - 1163) thành lập. Đại Huệ Tông Cảo là một nhân vật lớn của trường phái
Lâm Tế thuộc chi phái Dương Kỳ Phần Hội. Trường phái thiền này ảnh hưởng đến
tư tưởng thiền của vua Trần Thánh Tơng, vì nó phù hợp với xu thế tư tưởng chung
của thời đại nhà vua và đất nước Đại Việt lúc bấy giờ.
Vua Trần Thánh Tông là một ông vua tu ngộ đạo, những tác phẩm của ngài để
lại cho chúng ta thấy ngài là người thấu lý đạo tường tận sâu xa. Cuộc sống thiền
mà vua Trần Thánh Tông muốn đạt đến hết sức đơn giản và bình dị. Nền Phật giáo
21


của giai đoạn này là nền Phật giáo thế sự, kêu gọi mọi người cùng đóng góp tuỳ
theo khả năng của mình để xây dựng một thế giới an lạc cho bản thân, gia đình và
cộng đồng.
Ta có thể dễ dàng bắt gặp tư tưởng của Lý Cao trong thơ văn Trần Thánh
Tông. Chẳng hạn bài thơ đầu tiên do Thánh đăng ngữ lục tờ 12a8 - b3 chép lại của
vua Trần Thánh Tông đọc thế này:
Bốn chục năm hơn một tấm lịng
Mn trùng cửa ngục vượt ra xong
Động như hang trống gào vang gió
Tĩnh tựa hồ yên trăng sáng trong

Câu nọ năm huyền mình hiểu hết
Đường kia mười chữ mặc xáo xơng
Có người hỏi tớ tin gì mới
Mây tại trời xanh nước ở thùng.
Câu cuối nguyên văn chữ Hán là:
Vân tại thanh thiên, thủy tại bình.
Câu thơ gốc nằm trong bài tứ tuyệt do Lý Cao (772 - 841) viết để tặng
cho thiền sư Dược Sơn Duy Nghiễm (751 - 834):
Luyện đắc thân hình tợ hạc hình,
Thiên chu tùng hạ lưỡng hàm kinh.
Ngã lai vấn đạo vô dư thuyết,
Vân tại thanh thiên, thủy tại bình.
Vậy Lý Cao là ai? Và ơng có những tư tưởng nổi bật nào? Lý Cao, tuy là
một Phật tử, nhưng đã có những bài viết lên án việc độ tăng và làm chùa to đúc Phật
lớn. Ơng cho rằng những việc làm đó chẳng có cơng đức gì mà chỉ là những việc
làm hút máu mỡ của dân. Đối với việc độ tăng, Lý Cao cho rằng: “Những môn
đồ đạo Phật không chăn tằm mà quần áo đầy đủ, không cày bừa mà ăn uống sung
túc, ngồi rỗi mà kẻ phục dịch có đến mấy nghìn trăm vạn người. Suy ra đủ biết tất
có bao nhiêu người đói rét”. Đối với việc làm chùa, đúc tượng, ông lý luận
22


×