Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Pháp luật về giải quyết việc làm cho lao động nữ trên địa bàn tỉnh điện biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (810.23 KB, 97 trang )

LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Khoa Luật Trường Đại học Mở Hà Nội và sự
đồng ý của giáo viên hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Hữu Chí về đề tài luận văn:
“Pháp luật về giải quyết việc làm cho lao động nữ trên địa bàn tỉnh Điện
Biên” . Đến nay tơi đã thực hiện xong đề tài của mình. Để hồn thành được
luận văn này, tơi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, động viên, giúp đỡ của
quý thầy, cô giáo trong trường.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn tới các thầy, cô giáo của
Trường Đại học Mở Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt q
trình tơi học tập, nghiên cứu tại trường.
Chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn khoa học PGS.TS Nguyễn Hữu
Chí đã tận tình hướng dẫn tơi nghiên cứu thực hiện luận văn của mình.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Khoa Luật, phòng
Đào tạo Trường Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện cho tơi trong suốt q
trình học tập. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, cố gắng để thực hiện luận văn một
cách hồn chỉnh nhất, nhưng khơng thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định
mà tự bản thân khơng thể tự nhận thấy được. Tơi rất mong nhận được sự góp
ý của Q thầy, cơ giáo để luận văn được hồn chỉnh hơn.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2020

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trần Thị Tố Loan

ii



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................i
LỜI CẢM ƠN .......................................................................................................ii
MỤC LỤC ........................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ..................................................................vi
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ VIỆC LÀM, GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM VÀ
PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NỮ .................. 8
1.1. Một số khái niệm và các vấn đề có liên quan tới giải quyết việc làm cho
lao động nữ ............................................................................................................ 8
1.1.1.Khái niệm và đặc điểm lao động nữ ........................................................ 8
1.1.2. Việc làm, giải quyết việc làm .................................................................... 11
1.2. Khái niệm pháp luật về giải quyết việc làm cho lao động nữ ..................... 19
1.3. Sự điều chỉnh của pháp luật về giải quyết việc làm cho lao động nữ ........ 22
1.3.1. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về giải quyết việc làm cho lao động
nữ……………………………………………………………………………..22
1.3.2. Nội dung pháp luật giải quyết việc làm cho lao động nữ ........................ 26
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.................................................................................... 38
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM CHO LAO ĐỘNG NỮ TẠI ĐỊA BÀN TỈNH ĐIỆN BIÊN ................... 39
2.1. Các yếu tố tác động đến việc áp dụng pháp luật về giải quyết việc làm cho
lao động nữ tại tỉnh Điện Biên. ........................................................................... 39
2.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh Điện Biên........................................... 39
2.1.2. Tình hình lao động nữ tại tỉnh Điện Biên. ................................................ 41
2.2. Thực trạng áp dụng các quy định về giải quyết việc làm cho lao động nữ
trên địa bàn tỉnh Điện Biên.................................................................................. 43
2.2.1.Về trách nhiệm giải quyết việc làm của cơ quan nhà nước ...................... 44
2.2.2. Về trách nhiệm giải quyết việc làm của người sử dụng lao động............ 45
2.2.3.Thực trạng áp dụng quy định về Tổ chức dịch vụ việc làm trên địa bàn
Tỉnh…………………………………………………………………………...51

2.2.4. Về việc áp dụng các quy định liên quan tới quản lý, điều hành vốn vay từ
Quỹ quốc gia về giải quyết việc làm cho người lao động nói chung và lao động
nữ nói riêng trên địa bàn Tỉnh. ........................................................................... 53
iii


2.3. Đánh giá việc áp dụng pháp luật giải quyết việc làm cho lao động nữ tại
địa bàn tỉnh Điện Biên. ........................................................................................ 55
2.3.1. Những kết quả đạt được từ thực tiễn thực hiện pháp luật về giải quyết
việc làm cho lao động nữ tại địa bàn tỉnh Điện Biên. ........................................ 55
2.3.2. Những thuận lợi, khó khăn trong việc thực hiện pháp luật về giải quyết
việc làm cho lao động nữ tại địa bàn tỉnh Điện Biên. ........................................ 58
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.................................................................................... 66
Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
THI PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NỮ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐIỆN BIÊN ................................................................. 68
3.1. Quan điểm định hướng hoàn thiện pháp luật pháp luật về giải quyết việc
làm cho lao động nữ. ........................................................................................... 68
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về giải quyết
việc làm cho lao động nữ. ................................................................................... 69
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định về nghĩa vụ của người sử dụng lao động
trong giải quyết việc làm cho lao động nữ. ........................................................ 70
3.2.2. Bổ sung nội dung quy định về chính sách hỗ trợ NSDLĐ sử dụng nhiều
lao động nữ. ......................................................................................................... 72
3.2.3. Sửa đổi, bổ sung một số quy định về chế độ hỗ trợ cho lao động nữ. .......... 73
3.2.4.Bổ sung quy định về đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ ................. 74
3.2.5. Một số đề xuất khác ................................................................................... 75
3.3. Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật giải quyết việc
làm cho lao động nữ tại tỉnh Điện Biên. ............................................................. 76
3.3.1. Nghiêm túc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy phát triển

kinh tế địa phương, tạo động lực giải quyết việc làm cho lao động nữ ................ 76
3.3.2. Đẩy mạnh công tác giáo dục, đào tạo, chú trọng tới đào tạo nghề cho
lao động nữ nông thôn ......................................................................................... 78
3.3.3. Tiếp tục triển khai mạnh mẽ hơn nữa các công tác tuyên truyền, phổ biến
tới lao động nữ về chính sách, pháp luật của Nhà nước về giải quyết việc làm81
3.3.4. Phát triển thị trường lao động cho người lao động nói chung và lao động
nữ nói riêng thơng qua việc nâng cao hiệu quả của Trung tâm dịch vụ việc làm
tỉnh Điện Biên ...................................................................................................... 82
3.3.5. Các giải pháp khác .................................................................................... 84
iv


KẾT LUẬN CHƯƠNG 3.................................................................................... 85
KẾT LUẬN.......................................................................................................... 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... 88

v


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CEDAW

Cơng ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt
đối xử với phụ nữ

NSDLĐ

NSDLĐ


LĐN

LĐN

ILO

Tổ chức Lao động Quốc tế

UBND

Ủy ban nhân dân

vi


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong lịch sử loài người từ trước đến nay, phụ nữ bao giờ cũng là một
bộ phận quan trọng trong đội ngũ đông đảo những người lao động. Bằng sự
sáng tạo của mình, phụ nữ đã góp phần làm giàu cho xã hội, làm phong phú
cuộc sống con người, thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội nói chung, mỗi quốc gia
nói riêng. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, phụ nữ ln thể hiện vai trị khơng thể
thiếu của mình trong các lĩnh vực đời sống xã hội. C.Mác đã nói: Ai đã biết
lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà khơng có phụ nữ giúp vào, thì
chắc không làm nổi. Xem tư tưởng và việc làm của đàn bà con gái, thì biết xã
hội tiến bộ ra thế nào?
Ở Việt Nam hiện nay, phụ nữ Việt Nam đóng vai trị quan trọng, là
động lực thúc đẩy sự phát triển chung của đất nước, vai trị đó thể hiện ở số
phụ nữ chiếm tỷ lệ cao trong lực lượng lao động. Với hơn 50% dân số và gần

50% lực lượng lao động xã hội, ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia vào hầu
hết các lĩnh vực của đời sống xã hội và giữ những chức vụ quan trọng trong
bộ máy nhà nước. Trong quan hệ lao động, xuất phát từ đặc điểm riêng về
giới tính, tâm sinh lý nên trong thực tế LĐN gặp nhiều khó khăn vì ngồi việc
thực hiện đầy đủ chức năng làm mẹ, làm vợ trong mỗi gia đình, họ cịn phải
vượt qua tư tưởng “trọng nam khinh nữ” - một trong các tư tưởng đã ăn sâu
vào tiềm thức con người từ hàng ngàn đời nay nhất là đối với các nước Á
Đơng…), điều này gây ra sự bất bình đẳng giữa lao động nam và LĐN, chẳng
hạn như: Học vấn, việc làm, cơ hội thăng tiến, trách nhiệm nặng nề của người
phụ nữ trong gia đình…Người phụ nữ thường tham gia vào các cơng việc
khơng chính thức và dễ bị tổn thương, họ khó khăn hơn so với nam giới khi
tìm việc làm; ngay cả khi có việc, họ phải nhận mức lương thấp hơn, ít phúc
lợi hơn so với nam giới cùng làm một việc. Nhiều khi vì vấn đề việc làm, thu
nhập, họ đã phải chấp nhận những điều kiện lao động mà bản thân họ không
mong muốn.
Giải quyết việc làm là một trong những vấn đề quan trọng đối với mỗi
cá nhân, xã hội và mỗi quốc gia trên thế giới, đặc biệt là đối với các nước
1


đang phát triển có lực lượng lao động dồi dào như Việt Nam. Đối với mỗi cá
nhân để tìm được cơng việc ổn định và phù hợp ln khó khăn, đặc biệt đối
với LĐN bởi họ ngoài chức năng lao động, LĐN cịn thực hiện thiên chức
sinh đẻ và ni con; cơ thể người phụ nữ khơng có cấu trúc để chịu đựng
những tác động lớn, mạnh mẽ và rất dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố độc hại,
nguy hiểm. Do có những đặc điểm riêng biệt này mà LĐN gặp khó khăn hơn
so với lao động nam về tìm kiếm việc làm, tính ổn định và bảo đảm thu nhập.
Hơn nữa, cũng do thực hiện thiên chức nên LĐN cần thiết phải được bảo vệ
khi tham gia quan hệ lao động, tránh những ảnh hưởng có hại từ môi trường
lao động đến chức năng sinh đẻ và nuôi con của họ, hay nói cách khác ảnh

hưởng đến quá trình tái sản xuất mở rộng lực lượng lao động.
Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã rất nỗ lực nội luật hóa các quy định
của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), các quy định, các điều ước quốc tế về
quyền con người vào các văn bản quy phạm pháp luật trong nước như Bộ luật
Lao động, Bộ luật Dân sự, Luật Bình đẳng giới, Luật Hơn nhân và gia đình…
nhưng thực tế tình trạng phân biệt đối xử đối với LĐN vẫn tồn tại và việc bảo
đảm, bảo vệ quyền của LĐN vẫn chưa hiệu quả. Thực tiễn thi hành pháp luật
lao động đã cho thấy, sự gia tăng nhu cầu sử dụng lao động và tăng thu nhập
cho người lao động không đồng nhất với với sự bảo đảm quyền lợi của người
lao động. Do những đặc điểm về tâm sinh lý, giới tính, LĐN thường gặp khó
khăn hơn so với lao động nam trong quan hệ lao động. Cùng với quan niệm
sai lệch về giới làm cho LĐN trở thành đối tượng dễ bị tổn thương hơn. Hơn
nữa, với đặc thù về giới và sự tồn tại của quan niệm “trọng nam khinh nữ”
vẫn còn hiện hữu, LĐN ở Việt Nam vẫn gặp nhiều thách thức, quyền và lợi
ích hợp pháp chưa được đảm bảo đầy đủ, không đồng đều giữa các địa bàn
trên cả nước.
Điện Biên là một tỉnh miền núi thuộc vùng Tây Bắc Bộ, Việt Nam.
Điện Biên giáp tỉnh Sơn La về phía đơng và đơng bắc, giáp tỉnh Lai Châu về
phía bắc, giáp tỉnh Vân Nam, Trung Quốc về phía tây bắc và giáp Lào về phía
tây và tây nam. Gồm 19 dân tộc, trong đó: Dân tộc Thái chiếm tỷ lệ cao nhất,
khoảng 37,99%, dân tộc Mông chiếm 34,8%, dân tộc Kinh chiếm 18,42%,
dân tộc Khơ Mú 3,3%, còn lại là các dân tộc khác như Dao, Hà Nhì, Hoa,
Kháng... Hơn nữa, do tập trung đông đồng bào dân tộc thiểu số với nhiều
2


quan niệm đã trở nên khơng cịn phù hợp, đánh giá thấp vị trí và vai trị của
người phụ nữ nên tỷ lệ thất nghiệp ở LĐN vẫn ở mức cao. Chính vì vậy, giải
quyết việc làm cho LĐN trên địa bàn tỉnh vẫn là vấn đề bức xúc. Mặc dù
chính quyền tỉnh Điện Biên đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm triển khai các

quy định của pháp luật về giải quyết việc làm cho LĐN song còn bộc lộ nhiều
tồn tại, hạn chế, chưa phát huy được hiệu quả và đảm bảo được quyền làm
việc bình đẳng của LĐN. Nhiều quy định mới về chính sách giải quyết việc
làm cho LĐN tại địa bàn tỉnh tuy đã được ban hành kịp thời nhưng chưa được
triển khai một cách hợp lý, thiếu tính khả thi, do đó chưa đi vào thực tiễn đời
sống.
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của việc giải quyết việc làm
cho LĐN đã có nhiều tác giả đề cập đến vấn đề này, nhưng hiện nay chưa có
cơng trình nghiên cứu khoa học nào khái lược một cách hệ thống, cơ bản về
pháp luật giải quyết việc làm cho LĐN trên địa bàn tỉnh Điện Biên nên tôi đã
chọn đề tài "Pháp luật về giải quyết việc làm cho lao động nữ trên địa bàn
tỉnh Điện Biên" để nghiên cứu trong luận văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Việc làm với LĐN là vấn đề được quan tâm nghiên cứu nhiều trong
thời gian gần đây. Đề cập về việc sử dụng LĐN nói chung và pháp luật về
việc làm LĐN nói riêng đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu, luận án, luận
văn, sách chuyên khảo bàn luận về vấn đề này. Có thể kể tới các cơng trình
nghiên cứu như:“Thực trạng đời sống, việc làm LĐN doanh nghiệp ngồi
quốc doanh và các giải pháp của Cơng đồn”- Đề tài cấp Bộ của Viện Cơng
nhân và Cơng đoàn, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, năm 2006. Đề tài
đã khái quát tình hình phát triển các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đặc
điểm LĐN, việc làm và điều kiện làm việc của LĐN; thực trạng đời sống vật
chất, tinh thần của LĐN; Báo cáo khảo sát “Đề xuất xây dựng Nghị định
hướng dẫn chi tiết Bộ Luật Lao động về chính sách đối với LĐN” do Bộ Lao
động - Thương binh xã hội thực hiện năm 2015. Báo cáo đánh giá việc thực
hiện Chương X Bộ Luật Lao động về quy định riêng đối với LĐN. Báo cáo đề
xuất các nội dung xây dựng Nghị định hướng dẫn chi tiết Bộ Luật Lao động
2012 về chính sách đối với LĐN; Luận án tiến sỹ luật học “Thực hiện pháp
luật bình đằng giới ở Việt Nam hiện nay” của TS. Trần Thị Quốc Khánh, Học
3



viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2012. Luận án đã đánh giá hệ
thống các văn bản pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay và việc
thực hiện các quy định. Từ đó, đề xuất các giải pháp hồn thiện pháp luật về
bình đẳng giới ở Việt Nam; Luận án tiến sỹ luật học “Quản lý nhà nước về
lao động trong các doanh nghiệp ở Việt Nam” của TS. Vũ Minh Tiến, tại
ĐHQG Hà Nội 2011. Luận án đã đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về lao
động trong các doanh nghiệp ở Việt Nam và giải pháp đảm bảo thực hiện tốt
quản lý nhà nước về lao động thời gian tới, đảm bảo quyền lợi cho người lao
động; Báo của UNDP năm 2012 về “Việc làm và thị trường lao động các nước
ASEAN”, trong đó đề cập đến thách thức việc thực hiện pháp luật LĐN thời
gian tới ở các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam; Nghiên cứu “Thu nhập và
điều kiện sống của LĐN di cư trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”
của Cơ quan Liên Hợp Quốc về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ - UN
Women, 2015. Nghiên cứu đã đánh giá thực trạng cuộc sống của LĐN di cư
trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; đề ra các kiến nghị, giải pháp
với chính quyền, các tổ chức liên quan; Báo cáo của ILO năm 2015 về “Thực
hiện chế độ thai sản ở Việt Nam”. Báo cáo ghi nhận những bước tiến của Việt
Nam trong việc thực hiện chế độ thai sản cho LĐN, nhưng cho rằng Việt Nam
vẫn tụt hậu về chế độ cho các ông bố giành cho lao động nam. Điều đó ảnh
hưởng đến chính việc làm của LĐN; Báo cáo của ILO năm 2015 về “Bình
đẳng giới trong thực tiễn tuyển dụng và thăng tiến ở Việt Nam”. Báo cáo đã
phân tích sự bất bình đẳng giới trong quan hệ lao động ở Việt Nam hiện nay,
những vấn đề nổi cộm, cả trong chính sách và định kiến xã hội. Trên cơ sở đó,
đề xuất những giải pháp cụ thể giảm thiểu tình trạng trên…
Một số nghiên cứu là luận văn thạc sĩ như: Đoàn Thị Hà (2014),“Giải
quyết việc làm cho LĐN ở tỉnh Quảng Bình” Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Đại
học Đà Nẵng; Lưu Thị Bích Ngọc (2011), “Giải quyết việc làm cho LĐN ở
tỉnh Quảng Nam” Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Đại học Đà Nẵng; Nghiêm Thị

Hồng Vân (2007), “Việc làm đối với LĐN trong các doanh nghiệp ở Việt
Nam” Luận văn Thạc sĩ luật kinh tế, Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội;
“Hoàn thiện pháp luật về quyền LĐN ở Việt Nam hiện nay” Luận văn Thạc
sỹ Luật học năm 2000 của Dương Thị Ngọc Lan, Khoa luật - Đại học Quốc
gia Hà Nội.
4


Nhìn chung, các bài viết và các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập
đến một số vấn đề liên quan đến Đề tài luận văn, tuy nhiên, cho tới nay vẫn
chưa có cơng trình chun biệt nào đề cập một cách cụ thể và đi sâu vào vấn
đề giải quyết việc làm đối với LĐN trên địa bàn tỉnh Điện Biên.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Trên cơ sở hệ thống hoá những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực tiễn
về giải quyết việc làm cho LĐN, Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng giải
quyết việc làm cho LĐN ở tỉnh Điện Biên. Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm
tăng cường giải quyết việc làm cho LĐN ở Điện Biên, góp phần phát triển
kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.
3.2. Mục tiêu cụ thể
Để thực hiện được mục tiêu trên, nhiệm vụ của luận văn là:
- Nghiên cứu những vấn đề tổng quan chung về giải quyết việc làm,
pháp luật về giải quyết việc làm đối với LĐN.
- Nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật về giải quyết việc làm cho LĐN
trên địa bàn tỉnh Điện Biên.
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần hồn thiện các quy định pháp
luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về giải quyết việc làm cho LĐN
trên địa bàn tỉnh Điện Biên.
4. Tính mới và ý nghĩa của luận văn
Luận văn nghiên cứu, đánh giá tồn diện về tình hình thực hiện pháp luật

về giải quyết việc làm cho LĐN trên địa bàn tỉnh Điện Biên. Cách tiếp cận và
hướng nghiên cứu của Luận văn theo định hướng ứng dụng có những đóng góp
nhất định vào việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về giải quyết việc
làm cho LĐN, nhất là LĐN trên địa bàn tỉnh Điện Biên.
Về mặt lý luận: Làm rõ hơn cơ sở lý luận và rút ra những bài học kinh
nghiệm thực tiễn về giải quyết việc làm cho LĐN.
Về mặt thực tiễn: Qua phân tích thực trạng của vấn đề pháp lý và thực
tiễn trong việc giải quyết việc làm cho LĐN trên địa bàn tỉnh Điện Biên, Luận
văn đưa ra các đề xuất kiến nghị để hồn thiện cơ sở chính sách pháp luật,
5


góp phần tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, đồng thời nâng cao hiệu quả
trong tổ chức triển khai hoạt động giải quyết việc làm cho LĐN trên địa bàn
tỉnh Điện Biên hiện nay. Hơn nữa kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài
liệu phục vụ và nghiên cứu cho sinh viên, học sinh. Kết quả nghiên cứu cũng
có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, những nhà
hoạch định chính sách và những ai quan tâm.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật lao động về
giải quyết việc làm cho LĐN trong các văn bản quy phạm pháp luật của nhà
nước Việt Nam và việc áp dụng các quy định này trên địa bàn tỉnh Điện Biên.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trong giới hạn phạm vi như sau:
- Về không gian: Nghiên cứu các quy định pháp luật về giải quyết
việc làm cho LĐN và việc áp dụng các quy định này trên địa bàn tỉnh Điện
Biên.
- Về thời gian: Thời gian nghiên cứu chủ yếu tại thời điểm sau khi ban
hành Bộ Luật lao động năm 2012.

6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu bao gồm:
- Thu thập tài liệu để nghiên cứu, phân tích và tham khảo thơng tin, trên
cơ sở kế thừa các thành quả nghiên cứu trước đây;
- Sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, đối chiếu để
làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu;
- Bên cạnh đó, đề tài cũng được nghiên cứu thơng qua phương pháp
bình luận, tổng hợp và so sánh khi
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về việc làm, giải quyết việc làm và pháp luật về
giải quyết việc làm cho lao động nữ.
6


Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật về giải quyết việc làm cho lao
động nữ trên địa bàn tỉnh Điện Biên.
Chương 3: Một số đề xuất nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật về giải quyết việc làm cho lao động nữ trên địa bàn tỉnh Điện Biên.

7


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VIỆC LÀM, GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM VÀ PHÁP
LUẬT GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NỮ
1.1. Một số khái niệm và các vấn đề có liên quan tới giải quyết việc làm
cho lao động nữ
1.1.1.Khái niệm và đặc điểm lao động nữ

1.1.1.1. Khái niệm lao động nữ
Lao động là hoạt động có mục đích của con người nhằm biến đổi các
vật chất tự nhiên thành của cải vật chất cần thiết cho đời sống của mình.
Trong q trình sản xuất, con người sử dụng cơng cụ lao động tác động lên
đối tượng lao động nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ cho lợi ích của con người.
Lao động là điều kiện chủ yếu cho tồn tại của xã hội loài người, là cơ sở của
sự tiến bộ về kinh tế, văn hố và xã hội. Nó là nhân tố quyết định của bất cứ
quá trình sản xuất nào. Lực lượng chính tham gia lao động được gọi là nguồn
lao động, bao gồm toàn bộ những người trong độ tuổi lao động có khả năng
lao động. Lực lượng lao động tùy thuộc quy định của mỗi nước và mỗi thời
kỳ có thể được quy định khác nhau về giới hạn độ tuổi, tình trạng sức khỏe
hay mong muốn làm việc… Từng cá nhân người lao động được sử dụng
thống nhất với thuật ngữ người lao động. “Người lao động là người sử dụng
tư liệu sản xuất của chính mình hoặc của người khác một cách hợp pháp để
sản xuất ra sản phẩm có giá trị sử dụng”.
Nữ giới là một khái niệm chung để chỉ một người, một nhóm người hay
tồn bộ những người trong xã hội mà một cách tự nhiên, mang những đặc
điểm giới tính được xã hội thừa nhận về khả năng mang thai và sinh nở khi cơ
thể họ hoàn thiện và chức năng giới tính hoạt động bình thường. Trong ngơn
ngữ Việt Nam, có nhiều từ gần nghĩa với "nữ giới", đều chỉ một nhóm đối
tượng thuộc nữ giới nhưng mang tính phân loại cao hơn. Một số từ tiêu biểu
hay gặp là đàn bà, phụ nữ, con gái... Cách hiểu những từ này còn rất khác
nhau.
Giới là cách để xã hội chia con người thành các phạm trù, các loại và
chỉ định cho mỗi loại một kiểu hành vi riêng, những trách nhiệm và quyền lợi
8


riêng. Sự phân công lao động theo giới là sự phân chia công việc giữa nam và
nữ1. Thông thường giới tính được hiểu là các đặc điểm sinh học của nam và

nữ. Các đặc điểm giới tính chủ yếu gắn với quá trình tái sản xuất ra con
người, nhất là các đặc điểm của hệ thống sinh sản của nam và nữ. Đặc điểm
sinh học của nam và nữ khó thay đổi do chúng là sản phẩm của quá trình di
truyền, tiến hóa sinh học lâu dài.
Trong lĩnh vực lao động, người lao động mang giới tính nữ được sử
dụng với tên gọi “LĐN”. Cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa chính xác
và thống nhất về “LĐN”, mặc dù vậy, chúng ta vẫn có cách hiểu thống nhất
về khái niệm “LĐN”. Theo đó, LĐN được hiểu là người lao động có giới tính
nữ. Dưới góc độ pháp lý, LĐN thoả mãn các điều kiện sau:
Một là, điều kiện chủ thể về phía người lao động. Năng lực chủ thể về
phía NLĐ được pháp luật các nước xây dựng trên cơ sở vừa bảo vệ NLĐ, vừa
đảm bảo chất lượng quan hệ lao động đồng thời cũng tính đến lợi ích tồn xã
hội.
Theo quy định của BLLĐ 2012, “Người lao động là người từ đủ 15 tuổi
trở lên có khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng lao động, được trả
lương và chịu sự quản lý, điều hành của NSDLĐ" (Khoản 1 Điều 3). Như
vậy, năng lực chủ thể về phía NLĐ gồm ba yếu tố: Từ đủ tuổi 15, có khả năng
lao động, có khả năng giao kết hợp đồng.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, có những trường hợp tuy NLĐ
có khả năng lao động nhưng pháp luật không cho phép họ giao kết HĐLĐ vì lý
do bảo vệ trật tự an tồn xã hội. Ví dụ, nếu NLĐ đồng thời là cán bộ, cơng chức
thì khơng được làm những việc mà Luật cán bộ, cơng chức 2008 cấm.
Tóm lại, để trở thành NLĐ trong HĐLĐ thì NLĐ khơng chỉ phải đủ
tuổi, có khả năng sức khỏe, có khả năng chun mơn đáp ứng mà cịn phải có
khả năng giao kết HĐLĐ (khơng bị pháp luật cấm).
Từ những sự phân tích trên, trên cơ sở quy định của pháp luật về lao
động, có thể đưa ra khái niệm chung về LĐN như sau: “LĐN là lao động có
giới tính nữ, từ đủ 15 tuổi trở lên, có giao kết hợp đồng với NSDLĐ, được
đảm bảo đầy đủ quyền lợi, nghĩa vụ, cũng như các điều kiện khác của người
Võ Thị Mai (2013), Đánh giá chính sách bình đẳng giới dựa trên bằng chứng, Nxb Chính trị Quốc gia-sự

thật, Hà Nội, Tr 13
1

9


lao động theo quy định của pháp luật Việt Nam”. Trong một số trường hợp
pháp luật cho phép thì LĐN có thể dưới 15 tuổi.
1.1.1.2.Đặc điểm về lao động nữ
LĐN có những đặc điểm đặc thù riêng giúp cho việc phân biệt với lao
động nam. Sự khác biệt về đặc điểm đã làm ảnh hưởng rất nhiều đến việc làm,
học vấn, cơ hội thăng tiến, trách nhiệm của phụ nữ cả ở cơng việc lẫn gia
đình.
Ngồi những đặc điểm chung của NLĐ, thì LĐN cịn có những đặc
điểm đặc thù như sau:
Thứ nhất là về mặt sinh lý, nét đặc thù cơ bản để phân biệt LĐN với lao
động khác chính là việc họ phải thực hiện “thiên chức làm mẹ”, hay nói rõ
hơn là họ trải qua thời kỳ kinh nguyệt rồi mang thai, sinh con và nuôi con,
bên cạnh việc tham gia vào các hoạt động lao động chun mơn. Vì vậy, khi
xem xét các điều kiện, yếu tố ảnh hưởng đến LĐN, không thể bỏ qua đặc
điểm này, đây có thể coi là điểm đặc thù nhất của LĐN.
Thứ hai là về thể trạng, sức khỏe của LĐN. Có thể thấy, hầu hết người
LĐN đều có sức khỏe yếu hơn so với nam giới, nhưng ngược lại, LĐN
thường lại đa năng, sáng tạo, khéo léo, bền bỉ, dẻo dai trong việc thực hiện
cơng việc. Bình thường, những cơng việc địi hỏi về sức khỏe, tầm vóc lại
thường chỉ định cho nam giới, cịn những cơng việc địi hỏi sự tỉ mỉ, cẩn thận
lại dành cho phái nữ đảm nhận như may mặc, thủ công mỹ nghệ, lắp rắp điện
tử....
Thứ ba là mặt tâm lý. Tư tưởng từ xưa đến nay tuy đã được xóa bỏ
phần nào, nhưng vẫn cịn ăn vào tiềm thức con người ta chính là tư tưởng:

“trọng nam khinh nữ”, “tam tòng tứ đức”... Ngồi các hoạt động chun mơn,
LĐN cịn phải qn xuyến việc nhà, chăm sóc gia đình bởi theo quan niệm từ
xưa thì LĐN được sinh ra để thực hiện cơng việc này, chỉ có họ mới làm tốt
được việc này. Có thể nói, đặc điểm này bắt nguồn từ tính vị tha, nhân hậu,
bao dung từ một người mẹ, một người phụ nữ.
Dưới góc độ kinh tế, việc đặt ra những quy định đối với LĐN nhằm tạo
điều kiện cho họ tham gia vào các quan hệ lao động, tận dụng mọi tiềm năng
để phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động và gia đình của
10


họ. Tỉ lệ LĐN hiện nay nhiều hơn lao động nam sẽ kéo dài trong nhiều năm tới
khi xu hướng phụ nữ tham gia vào quá trình sản xuất xã hội ngày càng tăng cả
về số lượng và chất lượng. Điều đó cho thấy sự cần thiết của việc bảo vệ quyền
lợi LĐN trong luật lao động.
Dưới góc độ xã hội, việc bảo vệ quyền lợi của LĐN thể hiện sự quan
tâm của Đảng và Nhà nước đối với LĐN, giúp họ hồ nhập vào cộng đồng và
có cơ hội được làm việc, cải thiện đời sống và xây dựng đất nước. Với những
chế độ ưu đãi riêng được quy định trong luật lao động, phụ nữ Việt Nam vừa
được làm việc, vừa có điều kiện để thực hiện chức năng làm mẹ, chăm sóc và
ni dạy con cái.
Dưới góc độ pháp lí, những quy định có tính hệ thống về LĐN trong
các văn bản pháp luật lao động đã tạo thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật.
LĐN là vấn đề được quan tâm khơng chỉ vì lợi ích của đối tượng này mà cịn
vì lợi ích chung của xã hội. Lợi ích này thể hiện ở việc sử dụng một cách có
hiệu quả số lượng LĐN đơng đảo, có văn hố và trình độ nghề nghiệp. Đồng
thời tạo điều kiện cho LĐN thực hiện tốt nhất chức năng làm mẹ.
1.1.2. Việc làm, giải quyết việc làm
1.1.2.1. Việc làm
* Khái niệm

Có thể nói, việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình
kinh tế, xã hội và nhân khẩu, là một trong những vấn đề chủ yếu nhất của toàn
bộ đời sống xã hội. Quan niệm về việc làm khơng cố định mà nó được xét
trên nền tảng của một chế độ chính trị, gắn với trình độ phát triển kinh tế,
chính trị, văn hố xã hội của mỗi quốc gia, mỗi thời đại2. Ví dụ: Việc làm là
sự tham gia của người có khả năng lao động vào một hoạt động xã hội có ích
trong công việc nội trợ, hay trong kinh tế phụ của các nơng trang viên (theo
Tiến sỹ Sơnhin và phó tiến sỹ Grin- xốp); hay việc làm có thể được định
nghĩa như một tình trạng trong đó có sự trả cơng bằng tiền hoặc hiện vật, do
có một sự tham gia tích cực có tính chất cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản
Bùi Thanh Thủy (2005), Việc làm và chính sách tạo việc làm ở Hải Dương hiện nay, Luận văn thạc sĩ kinh
tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr7
2

11


xuất (Giăng - Mu - Li, Phó cố vấn kinh tế của văn phòng lao động quốc tế).
Tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13 năm 1983, Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO) tuy chưa đưa ra được khái niệm cụ thể về việc làm nhưng đã đưa ra
quan niệm về người có việc làm như sau:
Người có việc làm là những người làm một việc gì đó, có được trả tiền
cơng, lợi nhuận hoặc được thanh tốn bằng hiện vật hoặc những người tham
gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu
nhập gia đình, khơng nhận được tiền cơng hay hiện vật3.
Gần đây nhất, năm 2005, Tổ chức Lao động quốc tế đã đưa vào Từ
điển chuyên ngành khái niệm “việc làm”. Theo đó, “việc làm là một cơng việc
được trả công. Việc làm cũng đề cập đến số người tự tạo việc làm và tham gia
làm việc để được trả công”4. Đây là khái niệm ngắn gọn, chỉ chung chung đến
những công việc do cá nhân thực hiện cho chính bản thân hoặc cho chủ thể

khác để được trả cơng.
Như vậy, người có việc làm bao gồm những người lao động ở tất cả các
khu vực (công và tư) có thu nhập đem lại nguồn sống cho bản thân, gia đình
và xã hội. Đây là một khái niệm mềm dẻo phù hợp với nền kinh tế thị trường,
phù hợp với nền kinh tế nhiều thành phần. Do đó, khái niệm này đã được áp
dụng ở nhiều nước trên thế giới.
Ở nước ta, thời kỳ trước đổi mới, khái niệm "việc làm" chưa được hiểu
đúng. Khái niệm việc làm chỉ bó hẹp trong phạm vi những gì mà pháp luật
cho phép. Trong giai đoạn này, chỉ những người trong biên chế Nhà nước
hoặc là xã viên hợp tác xã mới được coi là có việc làm nghiêm chỉnh. Do đó,
tạo ra sự phát triển không đồng đều giữa kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân, tác
động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, làm mai một khá
nhiều nguồn công việc làm trong xã hội, đưa vấn đề giải quyết việc làm đến
chỗ khó khăn, bế tắc.
Kể từ khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, theo đó quan
niệm về việc làm và vấn đề liên quan như thất nghiệp, chính sách giải quyết
việc làm đã có những thay đổi cơ bản. Điều 55 Hiến Pháp năm 1992 quy
Bùi Thanh Thủy (2005), Việc làm và chính sách tạo việc làm ở Hải Dương hiện nay, Luận văn thạc sĩ kinh
tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr45
4
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2012), Công ước của Tổ chức Lao động, Hà Nội
3

12


định: “Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có
kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động”5. Từ quan niệm
này đã mở ra bước chuyển căn bản trong nhận thức về việc làm. Điều 33 Hiến
pháp năm 2013 quy định kế thừa và làm rõ hơn nội dung: "1.Công dân có

quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc" đồng thời
"Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho
người lao động"6.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, các Bộ Luật chuyên ngành đã đưa
ra những quy định nhằm cụ thể hóa trong từng lĩnh vực. Bộ luật Lao động
Việt Nam năm 1994 lần đầu tiên đã đưa ra khái niệm việc làm “Mọi hoạt
động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa
nhận là việc làm" 7. Cùng nội dung như vậy nhưng Bộ luật Lao động năm
2012 đã có cách quy định rõ ràng hơn thể hiện sự tiến bộ trong kỹ thuật lập
pháp: "Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật
cấm" 8.
Như vậy, dưới góc độ pháp lý, việc làm trước hết phải là “hoạt động
lao động”, thể hiện sự tác động của sức lao động vào tư liệu sản xuất để tạo ra
sản phẩm hoặc dịch vụ. Yếu tố lao động trong việc làm phải có tính hệ thống,
tính thường xuyên và tính nghề nghiệp.
Đồng thời, một hoạt động được coi là "việc làm" phải đáp ứng hai điều
kiện sau:
- Tạo ra thu nhập: Hoạt động phải có ích và tạo ra thu nhập trực tiếp
cho người lao động.
- Hoạt động này phải hợp pháp: Đây là dấu hiệu thể hiện đặc trưng tính
pháp lí của việc làm. Người lao động hợp pháp ngày nay được đặt vào vị trí
chủ thể, có quyền tự do tìm kiếm việc làm, hoặc tạo ra việc làm cho người
khác trong khuôn khổ pháp luật, không bị phân biệt đối xử trong các thành
phần kinh tế.
Tuy nhiên, khái niệm "việc làm" còn tùy thuộc vào quy định của luật
5

Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội.

Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội, Điều 57, khoản 1

Quốc hội (1994), Bộ luật Lao động, Hà Nội, Điều 13
8
Quốc hội (2012), Bộ luật Lao động, Hà Nội Điều 9, Khoản 1
6
7

13


pháp và từng thời kỳ. Có hoạt động được thừa nhận là việc làm ở quốc gia
này nhưng lại không được thừa nhận là việc làm ở quốc gia khác (Ví dụ: Hoạt
động mại dâm được coi là việc làm hợp pháp ở Thái Lan, Philippines nhưng ở
Việt Nam lại không được thừa nhận, bị xử phạt vi phạm hành chính và có thể bị
truy cứu trách nhiệm hình sự).
1.1.2.2. Giải quyết việc làm
* Khái niệm
Cùng với việc làm, giải quyết việc làm là vấn đề quan trọng, liên quan
tới nhiều bình diện chính trị - pháp lý, kinh tế - xã hội và là nhiệm vụ chiến
lược lâu dài của mỗi quốc gia. Ở phạm vi khái quát nhất, giải quyết việc làm
cho người lao động có thể hiểu là: Giải quyết việc làm cho người lao động là
tổng thể những chính sách, biện pháp nhằm tạo ra việc làm phù hợp và nâng
cao hiệu quả lao động cho người lao động. Từ đó, có thể thấy khái niệm giải
quyết việc làm bao gồm những nội hàm sau:
- Giải quyết việc làm được thực hiện bằng tổng thể các chính sách, biện
pháp kinh tế - văn hóa - xã hội được đề ra phù hợp với tình hình phát triển của
đất nước trong từng thời kỳ. Hay nói cách khác, tại mỗi thời kỳ, Nhà nước căn
cứ vào các điều kiện khách quan và chủ quan để đề ra chính sách việc làm
đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động có việc làm. Đó là sự tác động
giữa chủ thể xã hội và người lao động nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng
lao động, đem lại việc làm đầy đủ và hợp lý nhằm nâng cao đời sống vật chất

và tinh thần cho người lao động.
Quán triệt sâu sắc tầm quan trọng của công tác giải quyết việc làm,
Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định "Giải quyết việc làm là một trong những
chính sách cơ bản của quốc gia". Vấn đề giải quyết việc làm luôn được Đảng
và Nhà nước xác định là nhiệm vụ chủ yếu phát triển đất nước trong các giai
đoạn. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại
hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI của Đảng đã quy định: "Tập trung giải
quyết vấn đề việc làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân"9; Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm vụ
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khố X tại Đại
hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI của Đảng, Hà Nội.
9

14


phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 tiếp tục quy định: “Tập trung
làm tốt công tác nâng cao dân trí, chăm sóc sức khoẻ, giải quyết việc làm,
giảm nghèo bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh, trật tự và bảo vệ môi
trường”10. Trên cơ sở đó, Bộ luật Lao động năm 2012 đã thể chế hóa chủ
trương đó của Đảng trong quy định: "Nhà nước, NSDLĐ và xã hội có trách
nhiệm tham gia giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao
động đều có cơ hội việc làm" (Điều 9 Bộ luật Lao động năm 2012)11 ; Hơn
nữa, để chính sách việc làm đi vào thực tiễn cần sự giúp sức và vào cuộc của
tổ chức xã hội và quan trọng hơn hết là nhận thức và quyết tâm của người lao
động.
Chính sách việc làm có mối quan hệ biện chứng với các chính sách kinh
tế và các chính sách xã hội khác, đặc biệt là mối quan hệ chặt chẽ với các chính
sách như: Chính sách dân số; chính sách giáo dục - đào tạo, chính sách cơ cấu

kinh tế, chính sách cơng nghệ. Có thể đưa ra một số ví dụ như sau: Giáo dục
đào tạo tốt thì cơ hội việc làm tăng; giảm tốc độ tăng dân số sẽ khắc phục được
tình trạng thất nghiệp về lâu dài. Việc phát triển các ngành nghề sản xuất, các
lĩnh vực, các doanh nghiệp quy mô nhỏ sử dụng nhiều lao động ở cả nông thôn
lẫn thành thị là một vấn đề được tính tốn đến khi xây dựng chính sách cơ cấu
kinh tế (theo ngành, theo vùng lãnh thổ hoặc theo thành phần kinh tế). Việc lựa
chọn các công nghệ sản xuất phù hợp sử dụng nhiều lao động đơi khi có hiệu
quả kinh tế - xã hội hơn là nhập những công nghệ quá hiện đại (sử dụng ít lao
động và sử dụng lao động trình độ cao).
- Đối tượng của chính sách việc làm hướng tới những người lao động
thất nghiệp, chưa có việc làm;
- Giải quyết việc làm cho người lao động có hai mục đích chính: Một là
tạo ra việc làm cho người lao động, có thu nhập nhằm đảm bảo cho cuộc sống
của bản thân, gia đình và góp phần đảm bảo an sinh xã hội; phát huy mọi tiềm
năng lao động dồi dào trong mỗi người lao động để đạt được mức việc làm
hợp lý và có hiệu quả, tạo cơ hội cho người lao động thực hiện được quyền và
nghĩa vụ của mình, đồng thời duy trì tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp nhất; Hai
là, nâng cao hiệu quả làm việc, tăng thu nhập, đảm bảo giải quyết việc làm
Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5
năm 2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 – 2020, Hà Nội.
11
Quốc hội (2012), Bộ luật Lao động, Hà Nội.
10

15


bền vững cho người lao động. Như vậy, giải quyết việc làm không chỉ là việc
thực hiện các biện pháp tạo cơ hội việc làm cho người lao động, mà cịn là
việc cải thiện và duy trì mơi trường làm việc, các điều kiện cần thiết để người

lao động thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình làm việc.
Việc làm và giải quyết việc làm có một ý nghĩa vô cùng to lớn đối với
sự phát triển của một nền kinh tế, bởi sự phát triển kinh tế phụ thuộc vào vấn
đề sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực và
nguồn vốn. Trong đó, việc sử dụng nguồn nhân lực có vai trị quan trọng và
quyết định sự phát triển đó.
* Nhân tố tác động tới giải quyết việc làm
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới chính sách việc làm của quốc gia, có
thể kể tới một số yếu tố sau:
Thứ nhất, yếu tố chủ quan xuất phát từ chủ trương, đường lối của
Đảng và Nhà nước đối với việc làm và việc thể chế hóa các nội dung vào quy
định của luật chuyên ngành. Như đã phân tích ở nội dung trên, Đảng và Nhà
nước ta luôn nhận thức sâu sắc vai trò quan trọng của việc làm, coi giải quyết
việc làm là một trong những nhiệm vụ chủ yếu để phát triển kinh tế, xã hội
của đất nước. Việc ngày càng hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo hành lang
pháp lý phù hợp với các điều kiện của đất nước đã thúc đẩy các yếu tố của thị
trường, trong đó, thị trường lao động được hình thành, mở ra tiềm năng mới
giải phóng các tiềm năng lao động và tạo việc làm.
Thứ hai, nhóm yếu tố khách quan ảnh hưởng tới chính sách việc làm
của quốc gia bao gồm:
- Tài nguyên đất đai: Tài nguyên đất đai và tốc độ đơ thị hóa tăng
nhanh dẫn đến sự phân hóa trong cơ cấu lao động nông thôn và thành thị. Một
thực trạng hiện nay là diện tích đất nơng nghiệp đang ngày càng bị thu hẹp,
việc mở rộng đô thị hóa nơng thơn nhưng chính sách tạo việc làm chưa tương
xứng khiến số lượng lao động nông thôn dư thừa và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.
- Sự phát triển cơng nghiệp hóa: Việt Nam đang hướng tới cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0, bên cạnh nhiều thời cơ cũng phải đối mặt với nhiều
thách thức, trong đó có vấn đề về nhân lực. Sự phát triển của công nghiệp tự
động sẽ dần thay thế vị trí của người lao động trong nhà máy, do đó nâng cao
16



chất lượng nguồn nhân lực là giải pháp cơ bản để hạn chế thất nghiệp
- Cơ cấu dân số và tỷ lệ gia tăng dân số: Tính tới ngày 05 tháng 6 năm
2020, dân số Việt Nam hiện tại là 97.233.821 người, đứng thứ 15 trên thế
giới12 . Độ tuổi trung bình của dân số nước ta là 32.5. Hiện nay được đánh giá
là thời điểm cơ cấu "dân số vàng" là cơ hội nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều
thách thức đối với công tác giải quyết việc làm. Cơ cấu "dân số vàng" là cơ
hội để tích lũy nguồn lực để tăng đầu tư cho an sinh xã hội, y tế, giáo dục,
việc làm trong tương lai. Đồng thời, dân số trong độ tuổi lao động lớn, cùng
với sự phát triển của khu vực công nghiệp và dịch vụ tạo nhu cầu lớn về đào
tạo nghề. Lực lượng lao động trẻ, dồi dào và tiếp tục tăng sẽ là nguồn lực
quan trọng cho việc phát triển kinh tế trong điều kiện đảm bảo việc làm và cải
thiện được năng suất lao động. Tuy nhiên, điều này cũng sẽ sẽ trở thành gánh
nặng nếu quốc gia đó có tỷ lệ thất nghiệp cao và năng suất lao động thấp, địi
hỏi chính sách lao động về việc làm phải có sự điều chỉnh phù hợp để tận
dụng lợi thế và giảm thiểu rủi ro, thách thức.
- Thị trường lao động: Sự chênh lệch trong quan hệ cung - cầu tiếp tục
tác động tiêu cực, địi hỏi chính sách việc làm phải có sự điều chỉnh phù hợp.
1.1.2.3. Giải quyết việc làm cho lao động nữ
* Khái niệm
Cùng với giải quyết việc làm cho người lao động nói chung, giải quyết
việc làm cho LĐN luôn được Đảng và Nhà nước ra rất quan tâm. Bộ luật lao
động năm 2012 đã quy định về chính sách của Nhà nước đối với LĐN như
sau:
Có biện pháp tạo việc làm, cải thiện điều kiện lao động, nâng cao trình
độ nghề nghiệp, chăm sóc sức khỏe, tăng cường phúc lợi về vật chất và tinh
thần của LĐN nhằm giúp LĐN phát huy có hiệu quả năng lực nghề nghiệp,
kết hợp hài hòa cuộc sống lao động và cuộc sống gia đình 13.
LĐN được xếp vào nhóm lao động yếu thế, do đó cần được sự quan

tâm của Nhà nước và xã hội để tạo mọi điều kiện bảo đảm việc làm để cải
thiện tình trạng bất bình đẳng giới. Việc thực hiện tốt chính sách việc làm cho
12
13

Dân số Việt Nam, truy cập ngày 06/6/2020 tại />Quốc hội (2012), Bộ luật Lao động, Hà Nội, Điều 153, Khoản 3

17


LĐN góp phần rút ngắn sự bất bình đẳng giữa nam và nữ trên phương diện
lao động - việc làm (thu nhập, chế độ đãi ngộ, tính chất cơng việc…); sử dụng
hiệu quả tiềm năng to lớn về sức lao động của phụ nữ; giải phóng phụ nữ
cũng như khẳng định vai trò và vị thế của LĐN trong gia đình và ngồi xã
hội.
Từ khái niệm giải quyết việc làm và những đặc điểm của LĐN, có thể
hiểu giải quyết việc làm cho LĐN như sau: Giải quyết việc làm cho LĐN là
tổng thể những chính sách, biện pháp phù hợp để tạo ra việc làm phù hợp và
nâng cao hiệu quả lao động cho LĐN.
* Sự cần thiết phải giải quyết việc làm cho LĐN tại Việt Nam
Giải quyết việc làm cho LĐN luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt
quan tâm. Một mặt, đáp ứng nhu cầu việc làm tỷ lệ thuận với tốc độ gia tăng
dân số, mặt khác, đạt được nhiều mục tiêu về kinh tế - văn hóa - xã hội. Tuy
nhiên hiện nay, bất bình đẳng giới trong thu nhập và việc làm ở Việt Nam vẫn
còn tồn tại khá nhức nhối. Cũng theo Báo cáo "Triển vọng việc làm và xã hội
thế giới - Xu hướng cho phụ nữ" của ILO công bố cho thấy Việt Nam thuộc
nhóm quốc gia có tỷ lệ phụ nữ tham gia lực lượng lao động cao nhất thế giới,
đóng góp rất lớn vào sự phát triển kinh tế đất nước. Tính tới tháng 03/2018, tỷ
lệ tham gia lực lượng lao động của phụ nữ Việt Nam là 72%, cao hơn mức
trung bình thế giới (49%), mức trung bình của châu Á và nhóm các nước thu

nhập trung bình thấp14.
Các số liệu khác được đưa ra trong Báo cáo cũng cho thấy LĐN bị đối
xử bất bình đẳng, khơng bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp trong việc làm.
Ví dụ: LĐN phải làm việc trong điều kiện chất lượng thấp hơn lao động nam.
Chỉ có 49,8% LĐN trong nhóm lao động làm cơng ăn lương có ký hợp đồng
lao động với NSDLĐ, trong khi ở nam giới là 58,8%. Ngoài ra trong khu vực
doanh nghiệp đầu tư nước ngồi, lao động nam có tỷ lệ ký hợp đồng lao động
không xác định thời hạn lên tới 73,91% trong khi với LĐN chỉ là 67,67%15.
Bất bình đẳng về giới không chỉ gây tổn thương, thiệt hại về sức khỏe,
tinh thần và vật chất cho bản thân LĐN mà cịn có thể ảnh hưởng tới gia
14

Vietnam Law & Legal Forum (2018), Vietnamese women still facenumerous barriers to employment,
available at , access on 19/04/2018.
15
Vietnam Law & Legal Forum (2018), Vietnamese women still facenumerous barriers to employment,
available at , access on 19/04/2018.

18


đình họ và tồn xã hội. Ví dụ một khảo sát năm 2017 trong ngành lắp ráp
điện tử Bắc Ninh nơi LĐN chiếm 90% lực lượng lao động thì thu nhập từ
làm thêm giờ chiếm tới 32% tổng thu nhập và hơn 50% lương cơ bản trung
bình của lao động trong ngành điện tử. Hay nói cách khác, nếu khơng làm
thêm giờ thì LĐN khơng thể trang trải được các nhu cầu sinh hoạt thiết yếu.
Điều kiện kinh tế khó khăn, quỹ thời gian eo hẹp trực tiếp ảnh hưởng tới con
cái của họ. Theo một nghiên cứu năm 2015 của Oxfam Việt Nam - tổ chức
phi chính phủ quốc tế hàng đầu hoạt động trong các lĩnh vực phát triển nơng
thơn, giảm thiểu rủi ro và ứng phó với biến đổi khí hậu và thảm họa, phát

triển xã hội dân sự và cộng đồng thiểu số, nâng cao vị thế phụ nữ, các LĐN
đang làm việc tại các khu công nghiệp và khu chế xuất chủ yếu là lao động
di cư. Không sinh sống cố định ở một nơi cùng với tâm lý "lười" thực hiện
các thủ tục cư trú (xin cấp giấy chứng nhận tạm vắng, tạm trú) đã khiến con
cái họ khó tiếp cận các dịch vụ an ninh xã hội cơ bản. Cụ thể có tới 21, 2%
trẻ trong độ tuổi từ 6 đến 14 tuổi theo cha mẹ sinh sống tại nơi đến không đi
học. Đây là con số thực sự đáng báo động về tình trạng trẻ em khơng được
tiếp cận hệ thống giáo dục. Chỉ có 7.7% trẻ em di cư đi nhà trẻ công lập và
12% trẻ em di cư đi học trường mẫu giáo cơng lập, cịn lại chủ yếu là giữ trẻ
tại gia16.
Chính vì những lý do trên, giải quyết việc làm cho LĐN tại thời điểm
hiện tại là vấn đề hết sức cấp thiết, không chỉ đối với bản thân LĐN, mà cịn
có tác động tích cực và ý nghĩa to lớn tới gia đình và xã hội.
1.2. Khái niệm pháp luật về giải quyết việc làm cho lao động nữ
Khái niệm pháp luật về giải quyết việc làm cho LĐN được xây dựng
trên hai nền tảng: Khái niệm “pháp luật” và quyền có việc làm của LĐN. Có
rất nhiều định nghĩa về pháp luật, tuy nhiên, theo cách hiểu chung nhất và được
thừa nhận thì pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc
chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý
chí của giai cấp thống trị và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội pháp triển
phù hợp với lợi ích của giai cấp mình17. Trên cơ sở đó, pháp luật nhìn chung có
16

Vietnam Law & Legal Forum (2018), Vietnamese women still facenumerous barriers to employment,
available at , access on 19/04/2018.
17
Nguyễn Minh Đoan (Chủ biên) (2010), Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, trường Đại học Luật Hà
Nội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

19



những đặc trưng cơ bản sau: Tính quy phạm phổ biến; tính xác định chặt chẽ
về mặt hình thức và tính đảm bảo bằng nhà nước.
Khác với các quy phạm xã hội khác pháp luật do nhà nước ban hành
hoặc thừa nhận và được nhà nước bảo đảm thực hiện. Sự bảo đảm bằng nhà
nước là thuộc tính của pháp luật. Pháp luật không chỉ do nhà nước ban hành mà
nhà nước còn bảo đảm cho pháp luật được thực hiện, có nghĩa là nhà nước trao
cho các quy phạm pháp luật có tính quyền lực bắt buộc đối với mọi cơ quan, tổ
chức và cá nhân. Pháp luật trở thành quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung nhờ
vào sức mạnh quyền lực của nhà nước. Tuỳ theo mức độ khác nhau mà nhà
nước áp dụng các biện pháp về tư tưởng, tổ chức, khuyến khích... kể cả biện
pháp cưỡng chế cần thiết để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện.
Như vậy, tính được bảo đảm bằng nhà nước của pháp luật được hiểu
dưới hai khía cạnh. Một mặt nhà nước tổ chức thực hiện pháp luật bằng cả hai
phương pháp thuyết phục và cưỡng chế, mặt khác nhà nước là người bảo đảm
tính hợp lý và uy tín của pháp luật, nhờ đó pháp luật được thực hiện thuận lợi
trong đời sống xã hội.
Trên bình diện quốc tế, Cơng ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối
xử với phụ nữ (Convention on the Elimination of all forms of Discrimination
against Women - CEDAW) được Đại hội đồng Liên hợp quốc phê chuẩn vào
ngày 18/12/1979 là văn kiện quốc tế đầu tiên tổng hợp nhất về quyền con
người của phụ nữ. Tinh thần của Công ước được xây dựng trên cơ sở các mục
tiêu của Liên hợp quốc nhằm bảo đảm nhân cách, phẩm giá và các quyền cơ
bản của con người, quyền bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới, trong đó có
quyền bình đẳng trong lĩnh vực việc làm. Cụ thể, Điều 11 CEDAW quy định:
1. Các quốc gia thành viên Công ước phải áp dụng tất cả
những biện pháp thích hợp để xố bỏ sự phân biệt đối xử chống lại
phụ nữ trong lĩnh vực việc làm, nhằm đảm bảo những quyền như
nhau trên cơ sở bình đẳng nam nữ, cụ thể là:

a) Quyền được làm việc, một quyền không thể chuyển
nhượng của tất cả mọi người;
b) Quyền được hưởng các cơ hội có việc làm như nhau, kể cả
việc áp dụng những tiêu chuẩn như nhau khi tuyển dụng;
20


×