Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH CÁC DỰ ÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.85 KB, 34 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH CÁC DỰ ÁN
I. KHÁI QUÁT VỀ DỰ ÁN
1. Khái niệm về dự án và các loại hình dự án
Để thực hiện tốt công việc của mình thì kiểm toán viên phải có hiểu biết cần
thiết, đầy đủ về lĩnh vực mà mình thực hiện kiểm toán. Theo điểm 03 Chuẩn mực
kiểm toán Việt Nam số 310 (VSA 310) - Hiểu biết về tình hình kinh doanh "Hiểu
biết cần thiết của kiểm toán viên để thực hiện một cuộc kiểm toán bao gồm những
hiểu biết tổng quát về nền kinh tế, lĩnh vực hoạt động của đơn vị, hiểu biết cụ thể
hơn về tổ chức và hoạt động của đơn vị được kiểm toán". Do đó khi tiến hành kiểm
toán đối với các dự án thì kiểm toán viên phải có những hiểu biết cơ bản về dự án
đó.
Danh từ dự án đã được dùng trong nhiều lĩnh vực và trong các hoạt động
khác nhau của nền kinh tế quốc dân. Từ trước tới nay có rất nhiều các nhà khoa
học kinh tế cũng như các nhà quản lý đã đưa ra các khái niệm rất khác nhau về dự
án. Mỗi một quan niệm nhấn mạnh về một số các khía cạnh của dự án cùng các đặc
điểm quan trọng của nó trong từng hoàn cảnh cụ thể.
Nếu xét về hình thức, dự án là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi
tiết và có hệ thống một dự kiến đầu tư trong tương lai.
Nếu xét ở góc độ nội dung, dự án được hiểu là một ý đồ tiến hành một công
việc cụ thể nào đó nhằm đạt mục tiêu nhất định trong khuôn khổ nguồn lực nhất
định và trong khoảng thời gian nhất định.
Nếu xét ở góc độ kế hoạch, dự án được hiểu là một kế hoạch chi tiết về đầu
tư phát triển, là đơn vị kế hoạch độc lập nhỏ nhất trong hệ thống kế hoạch hóa, làm
cơ sở cho việc ra quyết định về đầu tư phát triển.
Nếu từ giác độ quan sát các hoạt động cần thiết cho một dự án thì dự án
được hiểu là hàng loạt các hoạt động cần thiết nhằm xác định mục tiêu, tiến hành
các nghiên cứu khả thi, dự đoán chi phí, hoàn thiện các thủ tục và thiết kế cuối
cùng, như việc lắp đặt và hoàn thiện các điều kiện làm việc.
Như vậy có thể hiểu dự án theo một khái niệm chung nhất, dễ hiểu nhất như
sau: Dự án là tổng thể các chính sách, hoạt động và chi phí liên quan với nhau
được hoạch định nhằm đạt được các mục tiêu nhất định trong thời gian nhất định.


Hiện nay, khái niệm về dự án đã được dùng rất rộng rãi và phổ biến cho tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Với mỗi một lĩnh vực, dự án sẽ được cụ thể
hóa một cách chi tiết hơn cho phù hợp với đặc điểm riêng của lĩnh vực đó. Tuy
nhiên những tính chất, đặc điểm riêng vốn có của dự án thì vẫn tồn tại và được thể
hiện rất rõ nét ở tất cả các lĩnh vực. Dự án có các đặc điểm cơ bản sau:
+ Tính đơn chiếc: Mỗi dự án đều có nét riêng, không có dự án nào giống
nhau hoàn toàn. Nhưng từng dự án có tính thống nhất, dự án là một thực thể độc
lập trong một môi trường xác định với các giới hạn nhất định về quyền hạn và
trách nhiệm.
+ Tính chính xác tương đối: Dự án chứa đựng rất nhiều các dự toán như về
vốn, vật tư, lao động, do đó không thể tránh khỏi sự dao động giữa thực tế và dự
kiến do tác động của các yếu tố bất định khi lập dự án không lường hết được như
các điều kiện tự nhiên, môi trường, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ dự án,
nhà đầu tư... Mọi biến động của các yếu tố này đều sẽ tác động đến dự án, nó có
thể thúc đẩy, cản trở, thậm chí chấm dứt việc thực hiện dự án. Do đó để giảm rủi ro
cho dự án thì phải có sự điều chỉnh về nhiều mặt để đảm bảo mục đích, tiến độ
thực hiện dự án.
+ Tính xác định: Dự án được xác định rõ ràng về mục tiêu phải đạt được,
thời hạn bắt đầu và kết thúc cũng như nguồn lực cần có với số lượng, cơ cấu, chất
lượng và thời điểm giao nhận.
+ Tính lôgíc: Thể hiện ở mối quan hệ biện chứng giữa các bộ phận cấu thành
dự án. Một dự án thường có bốn bộ phận cấu thành sau:
Mục tiêu của dự án: Một dự án thường có hai mục tiêu là mục tiêu phát
triển và mục tiêu trực tiếp. Mục tiêu phát triển là mục tiêu mà dự án góp phần thực
hiện, mục tiêu phát triển được xác định trong kế hoạch, chương trình kinh tế xã hội
của đất nước, của vùng, ngành, địa phương. Mục tiêu trực tiếp là mục tiêu cụ thể
mà dự án phải đạt được trong khuôn khổ nguồn lực nhất định và trong khoảng thời
gian nhất định.
Nguồn lực cho dự án: Là các đầu vào về vật chất, tài chính, sức lao động
cần thiết để tiến hành các hoạt động của dự án.

Các hoạt động của dự án: Là những công việc do dự án tiến hành nhằm
chuyển hóa các nguồn lực thành các kết quả của dự án. Mỗi hoạt động của dự án
đều đem lại kết quả tương ứng.
Kết quả của dự án: Là những đầu ra cụ thể của dự án, được tạo ra từ các
hoạt động của dự án. Kết quả là điều kiện cần thiết để đạt được mục tiêu trực tiếp
của dự án. Kết quả của dự án cũng mang tính đơn chiếc.
+ Dự án có chu kỳ sống riêng, tùy thuộc vào mục đích của dự án, có thể là
mục đích ngắn hạn hoặc dài hạn.
+ Dự án có liên quan đến nhiều bên như chủ đầu tư, nhà thầu, nhà tư vấn,
các cơ quan quản lý Nhà nước,...Các đối tượng này luôn tác động nhau, phối hợp
thực hiện dự án.
+ Tính kiểm tra: Dự án được sử dụng như một công cụ để kiểm tra quá trình
thực hiện các hoạt động nhằm đạt được những mục đích nhất định đã được dự kiến
trước.
+ Tính định hướng: Có thể coi dự án là kim chỉ nam cho các hoạt động nhất
định nhằm đạt được những mục tiêu đã xác định.
Một dự án có thể được xem như một chuỗi các công việc và các nhiệm vụ,
bao gồm:
+ Có mục tiêu cụ thể được hoàn thành trong những điều kiện nhất định.
+ Được xác định rõ thời gian bắt đầu và kết thúc.
+ Có giới hạn nhất định về tài chính.
+ Sử dụng các nguồn lực nhất định về phương tiện, thiết bị, con người,...
Xã hội càng phát triển càng có nhiều dự án được lập và thực hiện, các dự án
khác nhau về quy mô, thời gian, mục đích... Tùy theo mục đích nghiên cứu mà
người ta có thể phân loại dự án theo các tiêu thức khác nhau. Kiểm toán viên phải
có sự hiểu biết đầy đủ về lĩnh vực này để có thể lập kế hoạch kiểm toán một cách
tốt nhất. Nếu phân loại theo ngành kinh tế thì có các loại hình dự án đầu tư vào các
lĩnh vực dự án sau:
 Công nghiệp và các ngành khai thác.
 Nông - Lâm - Ngư nghiệp.

 Quản lý Nhà nước.
 Môi trường.
 Giao thông vận tải.
Thông tin liên lạc.
 Y tế.
 Giáo dục...
2. Các bước hình thành và triển khai dự án
Nếu tiếp cận từ góc độ đầu tư thì một dự án kể từ khi hình thành ý đồ cho
đến khi kết thúc phải trải qua các giai đoạn từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư, giai đoạn
tìm đối tác và ký hợp đồng, giai đoạn lập hồ sơ của dự án, giai đoạn thẩm định và
phê duyệt dự án, giai đoạn triển khai thực hiện dự án, giai đoạn cuối cùng là đánh
giá và kết thúc dự án.
Sơ đồ số 01: Các bước hình thành và triển khai dự án.
GĐ1: Chuẩn bị đầu tư
GĐ2: Tìm đối tác và ký hợp đồng
GĐ3: Lập hồ sơ của dự án
GĐ4: Thẩm định và phê duyệt dự án
GĐ5: Triển khai và thực hiện dự án
GĐ6: Đánh giá và kết thúc dự án
Ghi chú: Bước công việc kế tiếp
Giai đoạn 1: Chuẩn bị đầu tư, các nhà đầu tư cần tiến hành các công việc
như sau:
Tìm hiểu, đánh giá các cơ hội đầu tư nhiều hứa hẹn, mà các cơ hội đó được
hướng tới giải quyết các vấn đề cản trở việc đạt các mục tiêu phát triển mong
muốn, hoặc hướng tới việc khai thác một tiềm năng phát triển đang có. Công việc
này cần được tiến hành trong khuôn khổ chung về phân tích lĩnh vực và phân tích
không gian. Điều này đảm bảo rằng đó là những dự án có khả năng tốt nhất có thể
được thực hiện phù hợp với điều kiện hoàn cảnh.
Sau khi quyết định lựa chọn cơ hội đầu tư các nhà đầu tư tiến hành nghiên
cứu tiền khả thi, công việc này thường được thực hiện với các dự án lớn còn các dự

án nhỏ có thể bỏ qua. Mục đích việc nghiên cứu tiền khả thi là giúp cho chủ đầu tư
thấy rõ các điều kiện cơ bản của đầu tư để quyết định hoặc là tiếp tục nghiên cứu
dự án hoặc là từ bỏ dự án hoặc đặt vấn đề xác định lại dự án. Kết quả nghiên cứu
tiền khả thi là bản dự án tiền khả thi.
Sau khi bản dự án tiền khả thi được lập sẽ chuyển sang nghiên cứu khả thi,
dự án được nghiên cứu toàn diện, đầy đủ, sâu sắc trên tất cả các khía cạnh công
nghệ, tài chính, kinh tế, môi trường, quản trị, ... với nhiều phương án khác nhau.
Kết quả là một dự án khả thi với đầy đủ các nội dụng.
Giai đoạn 2: Tìm đối tác và ký hợp đồng. Sau khi nghiên cứu đánh giá, về
tính khả thi của dự án, để dự án có thể thực hiện được thì cần phải có nguồn vốn
đầu tư cho dự án, thông qua các nhà đầu tư có thể là chủ đầu tư trong nước, nước
ngoài, hoặc bằng Ngân sách Nhà nước. Khi chủ đầu tư đồng ý đầu tư cho dự án thì
phải lập hợp đồng ký kết giữa các bên.
Giai đoạn 3: Lập hồ sơ của dự án. Các bên tham gia dự án cùng soạn thảo
những văn bản, hồ sơ cần thiết để trình các cơ qua quản lý Nhà nước có thẩm
quyền xin giấy phép đầu tư.
Giai đoạn 4: Thẩm định và phê duyệt dự án. Thẩm định dự án là giai đoạn
đánh giá và lựa chọn dự án, xác định ảnh hưởng của dự án đến nền kinh tế quốc
dân góp phần đạt được mục tiêu của kế hoạch định hướng. Việc thẩm định dự án
được tiến hành theo sự phân cấp quản lý của Nhà nước. Kết quả thẩm định dự án
có thể là chấp nhận dự án hoặc sửa chữa, bổ sung hoặc loại bỏ dự án. Nếu dự án
được chấp nhận, cơ quan thẩm định sẽ gửi dự án lên cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền ra quyết định đầu tư và cấp giấy phép hoạt động. Nếu dự án được phê duyệt
thì công việc tiếp theo là vạch ra các kế hoạch tài trợ, khai thác các nguồn tài chính
sao cho phù hợp nhất với dự án. Giai đoạn 5: Triển khai và thực hiện
dự án. Giai đoạn này chiếm phần lớn thời gian của dự án, chất lượng và tiến độ
thực hiện dự án phụ thuộc rất nhiều vào giai đoạn đầu tư. Vì vậy, nâng cao chất
lượng công việc chuẩn bị đầu tư là tiền đề triển khai thực hiện dự án. Đến lượt
mình, việc thực hiện dự án đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng sẽ là tiền đề khai thác
có hiệu quả dự án nhằm đạt được mục tiêu dự án đề ra.

Giai đoạn 6: Đánh giá và kết thúc dự án. Khi kết thúc thời gian hoạt động
của dự án, cần đánh giá dự án trên các nét cơ bản sau:
+ Dự án có đạt được mục tiêu trực tiếp đề ra hay không?
+ Dự án có góp phần phát triển kinh tế - xã hội hay không?
+ Hiệu quả của việc đạt được các mục tiêu đó ra sao?
+ Những bài học cần rút ra.
Mỗi giai đoạn, mỗi công việc là một mắt xích trong một chuỗi mắt xích. Để
chuỗi mắt xích đó được chắc chắn thì phải đảm bảo sự chắc chắn của mỗi mắt xích
và các mắt xích liên kết hợp lý với nhau. Kết quả của giai đoạn trước là tiền đề cho
giai đoạn kế tiếp và chất lượng của dự án phụ thuộc vào toàn bộ quá trình từ giai
đoạn chuẩn bị cho đến giai đoạn kết thúc dự án.
3. Các yếu tố cơ bản của một dự án
Trên góc độ quan sát là một kiểm toán viên cần tìm hiểu, xem xét các yếu tố
cơ bản của dự án về chủ đầu tư cho dự án, đơn vị thực hiện dự án, sự chuẩn bị cho
quá trình thực hiện dự án, nguồn thu của dự án, đơn vị thực hiện dự án, việc mua
sắm hàng hóa phục vụ cho dự án, vấn đề giải ngân của dự án, môi trường kiểm soát
của dự án, hệ thống kế toán của dự án.
* Đơn vị chủ đầu tư cho dự án
Hiện nay, các dự án ở Việt Nam được tài trợ nguồn vốn hoạt động từ: nguồn
vốn Ngân sách Nhà nước, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), nguồn
vốn từ chính phủ các nước, các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ (NGO), đầu
tư vào các lĩnh vực khác nhau ở Việt Nam như kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế...
Nguồn vốn từ chính phủ các nước, các tổ chức xã hội, các tổ chức phi chính
phủ (NGO) tuy khá hạn hẹp nhưng là một nguồn quan trọng đối với một số loại dự
án phát triển nhất định, như các chương trình tín dụng nhỏ cho các cộng đồng
nghèo. Các tổ chức phi chính phủ có xu hướng chuyên về các dự án rất ít nhằm
mục tiêu lợi nhuận, mà những dự án này có lợi cho người nghèo và những khu vực
có nhiều lợi thế khác trong xã hội.
* Đơn vị thực hiện dự án
Tùy theo từng hình thức tổ chức quản lý dự án, có thể theo hình thức chủ

đầu tư trực tiếp quản lý dự án hặc theo hình thức chủ nhiệm điều hành dự án hoặc
theo hình thức chìa khóa trao tay hoặc theo hình thức tự thực hiện.
Riêng đối với các dự án được tài trợ bởi các tổ chức xã hội, tổ chức phi
chính phủ (NGO) đó là mối quan hệ giữa đối tác nước ngoài và chính phủ Việt
Nam. Do đó hầu hết các dự án do các cơ quan hoặc các doanh nghiệp Nhà nước
thực hiện. Những đơn vị này phải phù hợp với yêu cầu của chính quyền địa
phương. Hầu hết các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước đều áp dụng hệ thống kế
toán công và sử dụng Ngân sách Nhà nước. Các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước
mang những nét đặc thù riêng về phong cách quản lý. Do đó để thực hiện tốt công
tác kiểm toán thì kiểm toán viên phải tìm hiểu về chế độ kế toán áp dụng tại bên
nhận tài trợ bao gồm cả những thay đổi dưới ảnh hưởng của các chuẩn mực quốc
tế, xác định các công việc liên quan đến dự án, sự tham gia vào dự án của các cơ
quan quản lý Nhà nước.
* Sự chuẩn bị cho quá trình thực hiện dự án
Đây chính là khâu thẩm định dự án về tính hiệu quả và khả năng thực thi của
dự án. Cần phải tiến hành đánh giá toàn diện tất cả các mặt.
Về kỹ thuật - công nghệ, mục đích nghiên cứu là lựa chọn được công nghệ,
kỹ thuật phù hợp với yêu cầu của dự án, xác định địa điểm bố trí dự án, xác định
các điều kiện phục vụ dự án phù hợp với các điều kiện hiện có trong nước nhằm
đáp ứng yêu cầu đặt ra của dự án.
Về mặt tài chính của dự án bao gồm các vấn đề sau: Xác định tổng vốn đầu
tư ban đầu cho dự án, xác định các lợi ích do dự án đem lại, lợi ích ở đây có thể
được tính bằng tiền hoặc không tính bằng tiền, các lợi ích đó chính là lãi mà xã hội
thu được từ dự án.
Về tính kinh tế của dự án, thực chất là đánh giá các lợi ích và chi phí của dự
án trên góc độ kinh tế để quyết định nên chấp nhận dự án hay loại bỏ dự án, nhằm
đạt được mục tiêu đề ra trong các chương trình và kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội. Nói cách khác cần phải cân nhắc lựa chọn dự án sao cho đạt hiệu quả kinh tế
quốc dân cao nhất.
Về tổ chức quản lý, đánh giá xem chủ đâu tư quản lý dự án như thế nào, đơn

vị thực hiện dự án có được tổ chức chặt chẽ, cơ cấu quản lý có đồng bộ, hoạt động
có hiệu quả không, ảnh hưởng của các chính sách hoặc những thay đổi về mặt tổ
chức từ bên ngoài đơn vị có thể điều chỉnh được không, để đạt mục tiêu của dự án.
* Nguồn thu của dự án
Chủ yếu là do chủ đầu tư của dự án cấp thông qua một ngân hàng do chủ đầu
tư lựa chọn, ngoài ra có thể huy động từ các đơn vị, tổ chức trong nước. Trước hết
phải xác định được quy mô đầu tư, tổng nguồn vốn đầu tư cho dự án bao gồm vốn
cố định và vốn lưu động.
Vốn cố định như chi phí chuẩn bị là những chi phí trước khi thực thi dự án,
bao gồm chi phí thành lập, nghiên cứu dự án, lập hồ sơ, trình duyệt, chi phí quản lý
ban đầu, những chi phí này cần có sự nhất trí thông qua thỏa thuận của các bên
tham gia đầu tư. Chi phí xây dựng các công trình, chi phí về máy móc, thiết bị,
dụng cụ, chi phí về chuyển giao công nghệ, chi phí đào tạo, chi phí khác. Các chi
phí này sẽ được giải ngân theo tiến độ phù hợp với nhu cầu của dự án.
Vốn lưu động như vốn bằng tiền, chi phí phải trả cho các chuyên gia. Để
khắc phục khó khăn về tiền mặt, đẩy nhanh tiến độ giải ngân, cần phải thiết lập hệ
thống tài khoản đặc biệt, đây là các tài khoản quay vòng được cấp vốn bằng tiền
ứng trước từ tài khoản của chủ đầu tư mở tại ngân hàng, được dùng để trang trải
các khoản chi tiêu hợp lý, hợp lệ bằng cả nội tệ và ngoại tệ.
* Việc mua sắm hàng hóa, dịch vụ phục vụ cho dự án
Việc mua sắm hàng hóa, dịch vụ cho dự án cần tuân thủ theo thỏa thuận giữa
chủ đầu tư và đơn vị thực hiện dự án, đảm bảo các hàng hóa dịch vụ mua sử dụng
đúng mục đích, đạt hiệu quả kinh tế. Việc lựa chọn hàng hóa, dịch vụ phụ thuộc
chặt chẽ vào công nghệ đã được chọn, cần phân ra hàng hóa dịch vụ mua trong
nước và nhập khẩu. Đối với thiết bị nhập khẩu, cần tính đủ và nêu lịch trình cung
cấp phụ tùng thay thế. Danh mục hàng hóa nhập khẩu phải được lập riêng.
Chi phí mua sắm hàng hóa, dịch vụ phục vụ cho dự án thường chiếm một
khoản lớn trong chi phí dự án, nếu cần cân nhắc và tính toán tỷ mỉ, cụ thể. Đặc biệt
cần quan tâm đầy đủ đến việc xác định chất lượng và đơn giá của các loại hàng
hóa, dịch vụ nhập khẩu.

Dịch vụ tư vấn về kinh tế, quản lý, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, kiến
trúc, nghiên cứu và kỹ thuật được bên vay chi trả bằng khoản tài chính nhận từ chủ
đầu tư. Dịch vụ tư vấn phải phù hợp với quy mô công nghệ và chi phí của dự án.
* Vấn đề giải ngân của dự án
Việc giải ngân được thực hiện trong suốt quá trình của dự án phải phù hợp
với nhu cầu tiền mặt của dự án. Việc giải ngân có thể được thực hiện theo một
trong hai cách, thứ nhất bên thực hiện dự án định kỳ yêu cầu chủ đầu tư giải ngân
khoản tiền hợp lệ dựa trên nhu cầu thực tế của dự án thông qua yêu cầu giải ngân,
chủ đầu tư xem xét và quyết định cấp vốn thông qua tài khoản mở tại ngân hàng đã
lựa chọn, thứ hai có thể tiến hành giải ngân theo tỷ lệ % yêu cầu hợp lệ đã thỏa
thuận trong hợp đồng của dự án. Khi vốn được giải ngân, chúng được chuyển tới
một tài khoản đặc biệt trong ngân hàng, tài khoản này được lập riêng cho dự án,
đóng vai trò như một tài khoản tạm ứng và được sử dụng để giải quyết những khó
khăn về tài chính mà đơn vị thực hiện dự án gặp phải trong qúa trình thực hiện dự
án. Kiểm toán viên phải thu thập tất cả các báo cáo chi tiêu trong kỳ kiểm toán.
* Môi trường kiểm soát của dự án
Công việc kiểm soát dự án được thực hiện thông qua ban quản lý dự án.
Quản lý dự án là việc áp dụng các hiểu biết, kỹ năng, công cụ, kỹ thuật vào dự án
nhằm đạt được các yêu cầu và mong muốn từ dự án. Quản lý dự án là quá trình lập
kế hoạch tổng thể, điều phối và kiểm soát một dự án từ khi bắt đầu đến khi kết thúc
nhằm đạt được những mục tiêu về thời gian, chi phí, kỹ thuật, chất lượng. Ban
quản lý dự án bao gồm giám đốc dự án, phó giám đốc dự án, giám đốc chuyên môn
dự án, giám đốc kỹ thuật dự án, tổng kiểm soát dự án. Môi trường kiểm soát là thái
độ, nhận thức và hoạt động của Ban quản lý dự án, cơ cấu kiểm soát đối với dự án,
thể hiện như sau:
+ Sự liêm chính, đạo đức và năng lực của các nhà quản lý.
+ Sự đầy đủ của các hệ thống được sử dụng nhằm xác định và giải quyết các
mâu thuẫn với lợi ích liên quan tới các bên.
+ Sự thích hợp của dự án và cơ cấu tổ chức của đơn vị thực hiện dự án.
+ Phương pháp quản lý về ủy quyền và trách nhiệm.

+ Chức năng kiểm soát nội bộ đối với dự án.
+ Sự thích hợp của hoạt động và chính sách nhân sự trong đơn vị thực hiện
dự án, sự phân công phân nhiệm.
Kiểm toán viên phải có sự hiểu biết đầy đủ, rõ ràng về hệ thống kiểm soát
nội bộ của dự án, đây là bước đi đầu tiên quan trọng của quá trình kiểm toán.
Không phải tất cả các hoạt động tại đơn vị thực hiện dự án đều liên quan đến dự
án, môi trường dự án có thể bao gồm cả những hoạt động bên ngoài đơn vị.
Mục đích của kiểm toán viên khi xem xét hệ thống kiểm soát nội bộ của dự
án là để xác định, kiểm tra, đánh giá tính đúng đắn, thích hợp về cách thức tổ chức
của hệ thống này. Qúa trình đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ bắt đầu bằng việc
xác định các yếu tố của hệ thống này. Đây là những yếu tố đảm bảo cho nghiệp vụ
kinh tế phát sinh được ghi nhận, tập hợp vào báo cáo. Các yếu tố của hệ thống
kiểm soát nội bộ cũng cần phải xem xét, trên khía cạnh an toàn của tài sản và trách
nhiệm pháp lý. Để đánh giá các yếu tố kiểm soát hay bất kỳ một sự yếu kém tiềm
tàng nào, kiểm toán viên phải xác định mức độ ảnh hưởng của việc kiểm soát tới
báo cáo và quản lý tài chính của dự án. Trong khi tìm hiểu về hệ thống kiểm soát
nội bộ, kiểm toán viên nên tập trung vào các yếu tố liên quan đến chức năng kiểm
soát tài chính và kế toán.
* Hệ thống kế toán của dự án
Hệ thống kế toán phải phù hợp với hệ thống quản lý tài chính của dự án,
đảm bảo việc cung cấp các thông tin tài chính chính xác, kịp thời, đầy đủ cho việc
ra quyết định.
Thông qua hệ thống kế toán để kiểm soát chi phí của dự án, đối chiếu giữa
chi phí thực tế và dự toán. Chi phí và thu nhập của dự án cần phải được tập hợp để
khớp đúng với việc thu chi của dự án. Hệ thống kế toán của dự án phải tuân thủ các
chuẩn mực kế toán đã ban hành tại Việt Nam. Việc giải ngân của dự án cần phải
được ghi chép chính xác, rõ ràng.
Sản phẩm của hệ thống kế toán thể hiện ở các Báo cáo tài chính của dự án.
Báo cáo tài chính của dự án trình bày về nguồn vốn và việc sử dụng nguồn vốn kể
từ khi bắt đầu thực hiện dự án. Báo cáo tài chính của dự án bao gồm:

Báo cáo thu chi dự án, đơn vị thực hiện dự án phải lập báo cáo thu chi cho
tất cả các khoản thu chi của dự án.
Bảng cân đối kế toán là bảng tổng hợp phản ánh tình hình tài chính của một
đơn vị tại một thời điểm nhất định. Bảng cân đối kế toán thường được lập vào cuối
kỳ kế toán, báo cáo cung cấp các thông tin về nguồn vốn, số dư tài khoản tiền gửi
ngân hàng, các tài sản của dự án, công nợ,...
Báo cáo chi tiêu của dự án, phương pháp sao kê chi tiêu được sử dụng để
hoàn lại tiền cho đơn vị thực hiện dự án khi các chứng từ quá nhiều và cồng kềnh.
Theo thủ tục sao kê chi tiêu, định kỳ đơn vị thực hiện dự án yêu cầu rút vốn thông
qua việc đưa ra một bản sao kê các khoản chi phí cho các khoản mục hợp lệ trong
hợp đồng. Báo cáo chi tiêu chỉ phản ánh các chi phí phát sinh phục vụ cho các hoạt
động của dự án và được rút ra từ tài khoản đặc biệt của dự án. Báo cáo chi tiêu
được lập theo đồng đôla hoặc theo đồng tiền thỏa thuận trong hợp đồng. Khi tiến
hành kiểm toán, kiểm toán viên tiến hành kiểm tra các sao kê chi tiêu, kiểm toán
viên có thể sử dụng phương pháp kiểm tra mẫu, kiểm soát nếu thấy cần thiết trong
mỗi trường hợp cụ thể.
Báo cáo tài khoản đặc biệt, tài khoản đặc biệt là tài khoản cấp vốn bằng tiền
ứng trước để trang trải cho các chi tiêu hợp lệ bằng cả nội và ngoại tệ. Tài khoản
đặc biệt được lập sao cho việc thực hiện dự án có hiệu quả hơn, khắc phục vấn đề
về lưu chuyển tiền tệ. Thông thường Bộ tài chính hay đơn vị thực hiện dự án quản
lý tài khoản đặc biệt trên sổ sách kế toán thích hợp để kiểm tra và xác định các
thay đổi trên tài khoản đặc biệt, đồng thời hàng tháng phải đệ trình một bản báo

×