Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Những lí luận cơ bản về hiệu quả cho vay đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng Thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.41 KB, 31 trang )

Những lí luận cơ bản về hiệu quả cho vay đối với các Doanh nghiệp vừa và
nhỏ của Ngân hàng Thương mại
1.1> Các vấn đề cơ bản về Doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1. Khái niệm Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Theo Luật Doanh Nghiệp 2005 số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm
2001, Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục
đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ
bé về mặt vốn, lao động hay doanh thu. DNVVN có thể chia thành ba loại căn
cứ vào quy mô đó là doanh nghiệp siêu nhỏ (micro), doanh nghiệp nhỏ và
doanh nghiệp vừa, theo tiêu chí của Ngân hàng Thế giới (World Bank).
Trong đó :
- Doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10
người (tổng tài sản có trị giá không quá 100.000 USD và tổng doanh thu hàng
năm không quá 100.000 USD)
- Doanh nghiệp nhỏ có số lượng lao động từ 10 đến dưới 50 người (tổng tài
sản có trị giá không quá 3.000.000 USD và tổng doanh thu hàng năm không quá
3.000.000 USD)
- Doanh nghiệp vừa có từ 50 đến 300 lao động (tổng tài sản có trị giá
không quá 15.000.000 USD và tổng doanh thu hàng năm không quá 15.000.000
USD)
Ở mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ, người ta có những tiêu chí riêng để phân loại,
xác định Doanh nghiệp vừa và nhỏ .
* Tại Thái Lan, Nhật Bản, Malaisia, việc đánh giá Doanh nghiệp vừa và
nhỏ phải gắn với đặc điểm của từng ngành, phải tính tới số lượng Vốn và Lao
động thu hút được trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ở Nhật Bản, tiêu chí xác định DNVVN được phân chia theo vốn và số lao
động, căn cứ vào lĩnh vực hoạt động cụ thể:
Bảng1.1: Tiêu chí xác định DNVVN ở Nhật Bản
Số lao động Vốn (triệu USD)


Lĩnh vực sản xuất Không quá 300 Không quá 3
Lĩnh vực buôn bán Không quá 100 Không quá 1
Lĩnh vực bán lẻ Không quá 50 Không quá 0,5
Nguồn: Trung tâm hợp tác nguồn nhân lực Việt Nam – Nhật Bản (VJCC)
Ở Thái Lan, theo qui định của Bộ Công nghiệp nước này, DNVVN được
xác định theo qui mô về số lao động và giá trị tài sản cố định, không kể đất đai.
Theo đó :
Bảng1.2: Tiêu chí xác dịnh DNVVN ở Thái Lan
Lĩnh vực
Công ty Nhỏ Công ty Vừa
Số lao động
(người)
Giá trị TSCĐ
(triệu bath)
Số lao
động
(người)
Giá trị TSCĐ
(triệu bath)
Sản xuất
Không quá
50
Không quá 50
(1,25 triệu
USD)
51 - 200
Từ 50 – 200
(1,25tr – 5tr USD)
Dịch vụ
Không quá

50
Không quá 50
(1,25 triệu
USD)
51 – 200
Từ 50 – 200
(1,25tr – 5tr USD)
Bán buôn
Không quá
25
Không quá 50
(1,25 triệu
USD)
26 – 50
Từ 50 – 100
(1,25tr – 2,5tr USD)
Bán lẻ Không quá
15
Không quá 30
(0,75 triệu
16 - 30 Từ 30 – 60
(0,75tr – 1,75tr
USD) USD)
Nguồn: Ngân hàng phát triển DNVVN – Thái Lan (SME Bank)
Ở Malaysia, công ty phát triển doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ
(SMIDEC) - một cơ quan trực thuộc Bộ công nghiệp và thương mại quốc tế đã
đưa ra một định nghĩa về DNVVN, dần dần được chấp nhận một cách rộng rãi.
Theo đó DNVVN được định nghĩa chung là một công ty, một xí nghiệp hay
một doanh nghiệp có doanh thu hàng năm vào khoảng 25 triệu Ringit (tương
đương 6,6 triệu USD) và không có quá 150 công nhân làm việc cả ngày.

* Ở Trung quốc, DNVVN không căn cứ vào số lao động mà dựa trên hoạt
động hàng năm của doanh nghiệp hoặc tổng tài sản của doanh nghiệp đó. Một
trong 2 chỉ tiêu này phải nhỏ hơn 500 triệu nhân dân tệ (6 triệu USD)
* Bên cạnh đó, DNVVN còn được phân chia dựa theo tiêu thức ngành nghề
kinh doanh và số lượng lao động. Theo quan điểm này, ngoài tính đặc thù của
ngành cần tính đến lượng lao động thu hút được. Đó là quan điểm của các nước
thuộc khối EC, Hàn Quốc, Hồng Kông..
* Ở Việt Nam, theo Nghị định số 90/2001/ NĐ - CP ngày 23/11/2001 của
Chính phủ, tiêu chí xác định Doanh nghiệp vừa và nhỏ được quy định: “Doanh
nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh
doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng kí không quá 10 tỷ đồng hoặc số
lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”.
Bảng 1.3. Tiêu chí xác định DN VVN ở Việt Nam
Tiêu chí
Công nghiệp Thương mại, dịch vụ
DNVVN DN nhỏ DNVVN DN nhỏ
Vốn sản xuất
(tỷ đồng)
<5 <1 <2 <1
Lao động
(người)
<300 <50 <200 <30
Nguồn : Đổi mới cơ chế chính sách hỗ trợ Doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.2. Đặc điểm của Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay có trên 370000 Doanh nghiệp, chiếm
tới trên 96% tổng số các Doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp 2005
và có đóng góp hàng năm vào GDP là trên 30%, 31% tổng giá trị công nghiệp.
DNVVN có những điểm khác biệt so với các loại hình khác trong nền kinh
tế
• Về cơ bản, DNVVN có qui mô Vốn và số lượng lao động nhỏ, không đòi

hỏi người lao động phải có trình độ quá cao, hoạt động sản xuất kinh doanh
trong hầu khắp các lĩnh vực của nền kinh tế.
• Các DNVVN thể hiện được mối quan hệ hợp tác lẫn nhau trong hoạt
động sản xuất, buôn bán, đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, đôi bên cùng có lợi.
• DNVVN là nơi thu hút được lao động với chi phí thấp, do không đòi hỏi
quá cao về trình độ, góp phần giải quyết việc làm cho những lao động thất
nghiệp tạm thời sau các mùa vụ.
• DNVVN đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các vùng miền, do số lượng
đông đảo, có cơ sở ở nhiều nơi, tham gia vào hầu khắp các lĩnh vực hoạt động
sản xuất kinh doanh, nhạy cảm cao với các hoạt động sản xuất kinh doanh.
• DNVVN luôn gặp khó khăn trong vấn đề Vốn và Công nghệ. Khả năng
tiếp cận các nguồn vốn bên ngoài của DNVVN chưa được cao, gặp nhiều trở
ngại, trình độ khoa học công nghệ trong DNVVN còn thấp.
Với những đặc điểm trên, DNVVN có các ưu, nhược điểm sau:
* Ưu điểm của các DN VVN
- Năng động, hoạt động sản xuất kinh doanh trên nhiều lĩnh vực và luôn
tỏ ra nhạy bén, thích ứng kịp thời với những diễn biến, thay đổi của thị
trường, của nền kinh tế.
- Luôn thu hút được một lực lượng đông đảo lao động, giúp giải quyết
vấn đề thất nghiệp tạm thời sau các mùa vụ ở các địa phương.
- DNVVN có thể nhanh chóng tiến hành đổi mới thiết bị công nghệ để có
thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp khác.
- Hệ thống, cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, năng động nên tiết kiệm được chi phí
quản lý của doanh nghiệp, góp phần làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- DNVVN hoạt động đa dạng trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Do
đó, việc mở rộng tín dụng cho các DN VVN sẽ giúp bôi trơn hoạt động sản xuất
kinh doanh của nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển.
* Nhược điểm của các DN VVN
- Nguồn tài chính của DNVVN còn hạn chế nên vốn kinh doanh của
doanh nghiệp còn hạn hẹp dẫn đến các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong

bước đầu hoạt động, trong việc sản xuất, làm cản trở sự mở rộng, phát triển của
doanh nghiệp.
- Năng lực quản lý, điều hành của những người lãnh đạo còn chưa thật cao nên
trình độ tổ chức, quản lý của doanh nghiệp còn có những bất cập và hạn chế nhất định.
- Cơ sở, vật chất kỹ thuật & trình độ công nghệ còn lạc hậu, trình độ lao
động còn tương đối hạn chế.
- Tính kế hoạch, tính chiến lược trong hoạt động sản xuất kinh doanh
thấp. Hoạt động kinh doanh chủ yếu theo mùa vụ và thương vụ, phát triển theo
phong trào nên dễ dẫn đến thua lỗ, mất phương hướng.
- Sức cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ còn thấp. Hàm lượng tri thức và
công nghệ trong sản phẩm không cao, chưa có nhiều tính độc đáo, mẫu mã, kiểu
dáng chưa phong phú, sáng tạo, giá trị gia tăng trong tổng giá trị sản phẩm nói
chung thấp.
1.1.3. Vai trò của Doanh nghiệp vừa và nhỏ
DNVVN chiếm đông đảo trong hệ thống các doanh nghiệp hoạt động theo
pháp luật. Và tại mỗi nền kinh tế, quốc gia hay vùng lãnh thổ, các DNVVN giữ
vai trò ở những mức độ khác nhau nhưng tựu chung lại đều có những vai trò
tương đồng sau :
• DNVVN giữ một vai trò quan trọng trong nền kinh tế
Giúp ổn định nền kinh tế, ổn định các vấn đề vĩ mô như: thất nghiệp, lạm
phát, đóng góp vào GDP, tăng trưởng kinh tế… DNVVN làm cho nền kinh tế
năng động hơn, do có quy mô nhỏ, nên dễ điều chỉnh (xét về mặt lý thuyết) hoạt
động. DNVVN thường thực hiện chuyên môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết
được dùng để lắp ráp thành một sản phẩm hoàn chỉnh, góp phần tạo nên ngành
công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng, tạo thêm nhiều hàng hóa, dịch vụ.
Việc tiến hành sản xuất như vậy sẽ khiến cho sự liên kết hợp tác giữa các
DNVVN với nhau, giữa DNVVN với các Doanh nghiệp khác sẽ được mở rộng,
do đó có tác dụng bôi trơn hoạt động của nền kinh tế. Sự phát triển của DNVVN
cũng sẽ đẩy nhanh được tốc độ phát triển của nền kinh tế.
• Góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành,

theo khu vực và thành phần kinh tế, để có thể tạo ra được một cơ cấu kinh tế
có tính đổi mới hơn và thích ứng cao hơn. Do DNVVN hoạt động trong nhiều
ngành nghề khác nhau, khi trao đổi buôn bán sẽ tạo ra được sự chuyển dịch về
vốn, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Giúp tăng tỷ
trọng đóng góp của các ngành thương mại, dịch vụ, chuyển dịch nền kinh tế
theo hướng công nghiệp phát triển. DNVVN đóng góp đáng kể vào việc duy trì
và phát triển các ngành nghề truyền thống, sản xuất ra được các sản phẩm mang
đậm bản sắc dân tộc. DNVVN có thể kịp thời đáp ứng được các nhu cầu tiêu
dùng, mua sắm ngày càng phong phú, đa dạng của người dân, của xã hội mà các
doanh nghiệp có quy mô hoạt động lớn hơn không thể đáp ứng ngay lập tức
được.
• Đóng vai trò quan trọng trong lưu thông hàng hoá và cung ứng dịch vụ.
DNVVN có mặt ở nhiều địa phương, là nơi sẵn có các nguồn nguyên liệu như :
nông sản, dược liệu, lợi thế về các ngành nghề thủ công truyền thống… đã tạo
ra được số lượng hàng hóa lớn, đa dạng, nhiều chủng loại, không những đáp
ứng được nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu được. DNVVN vừa trực tiếp
thu mua nguyên liệu, sản xuất, vừa liên kết với các doanh nghiệp khác, tạo nên
vòng lưu thông hàng hóa khép kín, vừa có đầu vào sản xuất, vừa có đầu ra tiêu
thụ.
• Phát triển gắn bó chặt chẽ với các Doanh nghiệp có quy mô hoạt động
lớn, tạo mối quan hệ khăng khít, hỗ trợ lẫn nhau.
Nền kinh tế của các nước trong khu vực cũng như trên thế giới hiện nay, sự
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đang chuyển dần từ cạnh tranh giá cả sang
cạnh tranh về chất lượng và công nghệ. Những loại hàng hóa có chất lượng cao,
mang tính sáng tạo, phong phú, đa dạng về kiểu dáng sẽ chiếm ưu thế trên thị
trường. Trong điều kiện này, lợi thế về qui mô giữa các doanh nghiệp sẽ bị hạn
chế một cách đáng kể. Theo đó, sự phát triển của hoạt động chuyên môn hoá và
hợp tác hoá đã cho thấy việc áp dụng mô hình sản xuất kiểu vệ tinh là phù hợp
với điều kiện và khả năng phát triển của mỗi nước. Trong nền kinh tế các
DNVVN sẽ là vệ tinh của các doanh nghiệp lớn để có thể gắn bó chặt chẽ và

thúc đẩy sự phát triển của từng loại hình doanh nghiệp này. Do vậy trong một
nền kinh tế hiện đại, DNVVN không những không thể hòa tan trong các tập
đoàn lớn mà khả năng phát triển, hoạt động hợp tác để mở rộng ngày càng tăng
lên.

DNVVN giúp khai thác tiềm năng phong phú về vốn trong dân cư để
đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Việc ngày càng xuất hiện nhiều DNVVN, với
khả năng hoạt động tốt, lành mạnh đã tạo dần nếp suy nghĩ cho người dân nên
đầu tư vào sản xuất kinh doanh thay vì trước đây tiền nhàn rỗi chỉ biết giữ, gửi
tiết kiệm hoặc mua vàng cất trữ. DNVVN là trụ cột của kinh tế địa phương, do
các doanh nghiệp lớn thường đặt tại các trung tâm kinh tế, còn DNVVN có mặt
ở hầu hết các địa bàn, giúp giải quyết nhanh chóng việc làm cho lao động địa
phương, yếu tố sản xuất tại cơ sở.
Khi nền kinh tế gặp khó khăn, khủng hoảng, DNVVN có vai trò kích cầu nền
kinh tế 1 cách mạnh mẽ (vì các doanh nghiệp này thông thường ít bị ảnh hưởng
mạnh khi nền kinh tế biến động), bằng những đóng góp vào GDP, chi tiêu cho
sản xuất kinh doanh, kích thích tiêu dùng trong nước và xuất khẩu thông qua
việc bán các sản phẩm của mình.
1.1.4. Vấn đề đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ
* Nhu cầu vốn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Vốn là một bài toán nan giải mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải đối mặt,
giải quyết trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Nhu cầu về vốn để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao năng
lực cạnh tranh và chủ động trong việc hội nhập kinh tế toàn cầu đang là vấn đề
cấp thiết cho các doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nếu không có vốn để đầu tư mua máy móc, thiết bị mới, đổi mới công nghệ,
đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao hơn thì sẽ không thể giảm chi phí sản
xuất, đa dạng hóa chủng loại, mẫu mã sản phẩm, nâng cao chất lượng và tăng
sức cạnh tranh trên thị trường hiện nay. Thiếu vốn sản xuất, không thực hiện
được mở rộng sản xuất, tìm kiếm các thị trường, nguồn vốn mới sẽ gây ảnh

hưởng đến sự phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do đó các
phương thức huy động vốn của DNVVN cần được đa dạng hoá và các DNVVN
cần nhạy bén hơn trong việc tiếp cận các nguồn vốn bên ngoài để có thể khai
thác được mọi nguồn lực trong nền kinh tế.
* Các nguồn cung cấp vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ
DNVVN ở nước ta chiếm 96% trong tổng số trên 370.000 doanh nghiệp
hoạt động theo Luật doanh nghiệp 2005, đóng góp hàng năm trên 30% GDP, tạo
ra khoảng 53% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn và 30% lực lượng lao
động trong cả nước. Mặc dù thể hiện được vai trò quan trọng của mình đối với
nền kinh tế nhưng các DNVVN gặp rất nhiều khó khăn trong vay vốn sản xuất
kinh doanh. Đây là vấn đề cần giải quyết nhanh chóng, bởi nguồn cung cấp vốn
từ bên ngoài không thiếu. Các nguồn cung cấp vốn cho DNVVN bao gồm:
• Nguồn vốn tín dụng từ các Ngân hàng và các tổ chức tài chính khác
Các DNVVN hiện nay vẫn thực hiện huy động vốn từ tín dụng Ngân hàng
là chủ yếu. Theo đó, ước tính có đến trên 82% lượng vốn cung ứng cho
DNVVN là từ kênh Ngân hàng. Nhưng theo một điều tra mới đây của Cục Phát
triển doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch - Đầu tư), chỉ có 34,48% DNNVV có khả
năng tiếp cận được các nguồn vốn của các Ngân hàng; 37,54% khó tiếp cận và
33,86% không tiếp cận được. Nguồn vốn này khó tiếp cận do các DNVVN
không đáp ứng đầy đủ thủ tục cấp tín dụng của Ngân hàng và quy trình cho vay
tại các Ngân hàng vẫn còn quá rườm rà.
• Nguồn vốn từ tín dụng thương mại
Đây là nguồn vốn mà doanh nghiệp chiếm dụng được từ các bên thứ 3 (trừ
Ngân hàng), ví dụ như : trả chậm lương cho công nhân, mua chịu vật tư hàng
hoá, nộp chậm lại thuế phải nộp… Phần vốn chiếm dụng này không bị mất phí,
giúp Doanh nghiệp tiệt kiệm được thuế thu nhập doanh nghiệp, nhưng nếu chậm
trễ trong việc trả nợ sẽ gây ra khó khăn cho doanh nghiệp.

Nguồn vốn trên thị trường tự do
Nguồn vốn này do doanh nghiệp huy động từ các doanh nghiệp, tổ chức,

công ty có vốn nhàn rỗi khác, hay từ gia đình, bạn bè, các thành viên trong
doanh nghiệp. Phương thức huy động này không đòi hỏi phải có thế chấp, thủ
tục không phức tạp nhưng lãi suất thì thường cao, số lượng vốn vay thường hạn
chế về mặt lượng. Vì vậy, nguồn vốn huy động từ thị trường tự do thường tỏ ra
phù hợp với những doanh nghiệp có nhu cầu vốn gấp.

Nguồn vốn từ hỗ trợ của Chính Phủ và các tổ chức quốc tế
Nguồn vốn này được hình thành từ Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN,
Quỹ hỗ trợ phát triển DNVVN, 1 số Quỹ khác, và từ sự hỗ trợ rất đáng kể (lãi
suất thấp, thời gian trả nợ dài..) của các tổ chức quốc tế như IMF (quỹ tiền tệ thế
giới), World Bank, ADB... Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng đều
nhận được sự hỗ trợ đó mà chỉ có những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, hoạt
động trong lĩnh vực ưu đãi đầu tư, đáp ứng được những yêu cầu hỗ trợ.. mới
tiếp cận được nguồn vốn này.
Có thể thấy, mặc dù Chính phủ luôn có sự quan tâm đầu tư, hỗ trợ vốn, tạo
môi trường bình đẳng để dễ tiếp nhận và cạnh tranh cho DNVVN nhưng vấn đề
về vốn của các DNVVN hiện nay vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc, chưa thể
giải quyết nhanh chóng được.
1.2.> Hoạt động cho vay đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1. Khái niệm cho vay
Theo mục 1 Điều 3 quyết định 1627/QĐ- NHNN về quy chế cho vay của tổ
chức tín dụng với khách hàng :
Cho vay là sự chuyển nhượng từ người cho vay sang người đi vay một lượng
tài sản trong một thời gian nhất định và phải hoàn trả cả gốc và lãi vô điều kiện
khi đến hạn.
Trong các nghiệp vụ chính của Ngân hàng thì cho vay là nghiệp vụ mang lại
nhiều lợi nhuận, là nguồn thu chủ yếu cho Ngân hàng. Mặc dù vậy, khi tiến
hàng cho vay, vấn đề rủi ro, khó đòi của các khoản vay là luôn tồn tại, đòi hỏi
Ngân hàng phải thực hiện tốt quy trình cho vay, giám sát hiệu quả các khoản
vay, có như vậy mới nâng cao được hiệu quả cho vay.

1.2.2. Các hình thức cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ
- Căn cứ vào thời hạn vay có các hình thức : Cho vay ngắn hạn, Cho vay
Trung và dài hạn
- Căn cứ vào hình thức cấp tín dụng có : Cho vay Thấu chi, Cho vay từng lần,
Cho vay theo hạn mức, Cho vay luân chuyển..
- Căn cứ vào Tài Sản Đảm bảo có : Cho vay có TSĐB, Cho vay không có
TSĐB
- Các hình thức cho vay khác..
1.2.2.1. Cho vay từng lần
• Khái niệm :
Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách
hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn
mức thấu chi. Khách hàng chỉ khi có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất kinh
doanh đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào
một số giai đoạn nhất định của chu kì sản xuất kinh doanh.
• Việc xét duyệt cho vay, Ngân hàng sẽ dựa trên cơ sở hợp đồng kinh tế 2 bên,
đơn đặt hàng, thư tín dụng, các hóa đơn bán hàng, bảng kê bán thành phẩm hoặc
thành phẩm.
• Ngân hàng áp dụng phương thức cho vay từng lần khi khách hàng vay có
nhu cầu vay vốn không thường xuyên. Mỗi lần có nhu cầu vay vốn, khách hàng
phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích
khách hàng và kí hợp đồng cho vay.
• Mức cho vay được xác định trên cơ sở:
- Nhu cầu vay vốn cho từng phương án sản xuất kinh doanh.
- Khả năng nguồn vốn của Ngân hàng.
- Giá trị của bảo đảm tín dụng của khách hàng.
Nhu cầu vay = ∑ Nhu cầu thực hiện dự án – Vốn tự có – Vốn khác
• Thời hạn cho vay:
- Thời hạn cho vay được xác định cho mỗi lần vay cụ thể, và được xác định theo
chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng vay.

- Ngân hàng xác định thời hạn cho vay dựa vào: dự báo lưu chuyển tiền tệ,
chu kỳ sản xuất kinh doanh, hạng rủi ro tín dụng của khách hàng. Theo từng kì
hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi.
1.2.2.2. Cho vay Hạn mức tín dụng
• Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó Ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách
hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì. Đó
là số dư tối đa tại thời điểm tính.
• Đặc điểm :
- Khách hàng: hoạt động kinh doanh ổn định; lập được kế hoạch sản xuất
kinh doanh cho từng kỳ; có nhu cầu vay và trả nợ Ngân hàng thường xuyên; là
khách hàng truyền thống và có tín nhiệm cao đối với Ngân hàng.
- Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh,
nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.
- Định kỳ hạn nợ và thời hạn tín dụng Ngân hàng không xác định trước,
tùy theo thỏa thuận, hợp đồng với khách hàng. Khi khách hàng có thu nhập,
ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lí ngân quỹ cho khách hàng.
• Xác định hạn mức tín dụng:
Hạn mức tín dụng = ∑ Nhu cầu VLĐ kỳ kế hoạch –Vốn tự có –Vốn khác
- Nhu cầu vay vốn kỳ kế hoạch.
- Giới hạn cho vay theo tài sản đảm bảo của khách hàng.
- Khả năng nguồn vốn của Ngân hàng.
Các giới hạn quy định khác của nhà nước.
1.2.2.3. Cho vay Thấu chi
• Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay
được chi trội (vượt) trên số dư tài khoản thanh toán của mình đến một giới hạn
nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức
thấu chi.
• Đặc điểm thấu chi:
- Đối tượng khách hàng: là khách hàng truyền thống, có tình hình tài chính
cực kỳ lành mạnh, đáng tin cậy, có thu – chi thường xuyên, giao dịch thường

xuyên qua ngân hàng.
- Giải ngân theo tài khoản vãng lai, có thể dư nợ, có thể dư có.
- Quản lý của Ngân hàng tiến hành sau cho vay.
- Hạn mức thấu chi được xác định xuất phát từ cả phía người vay và Ngân
hàng. Nó có thể là thoả thuận chính thức giữa Ngân hàng và người vay liên

×