39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển nhanh của các ngân hàng thì ngân hàng VPBank
cũng đã dần khẳng định được vị thế của mình trên thị trường trong nước.
Nước ta hiện nay có 63 ngân hàng cổ phần Vpbank được xếp vào một
trong 10 ngân hàng lớn nhất Việt Nam. Và góp vai trò không nhỏ đối với sự
phát triển trong nền kinh tế.
Khi mà nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn phát triển phần lớn
các doanh nghiệp trên toàn quốc là doanh nghiệp vừa và nhỏ.Quy mô tài
chính còn nhỏ vì vậy khó khăn trong việc vay vốn các ngan hàng nhà
nước.Tuy thế triển vọng phát triển của các ngân hàng nay là rất tốt.nhận định
điều nỳ Vpbank đã xác định mục tiêu chiến lược của mình là là ngân hàng bán
lẻ , cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ và cho vay tiêu dùng.Vì vậy
em chọn đề tài: “Mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ”làm đề tài thực tập tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Xem xét một cách tổng quát và có hệ thống thực trạng hoạt động sản xuất
kinh doanh của các DNV&N và việc đầu tư tín dụng của VPBank Thăng Long
cho các doanh nghiệp này. Đồng thời đề tài cũng đưa ra một số giải pháp nhằm
mở rộng hoạt động cho vay đối với các DNV&N trên phạm vi hoạt động của
VPBank. chi nhánh Thăng Long.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài chọn mở rộng hoạt động cho vay đối với các DNV&N tại VPBank
chi nhánh Thăng Long trong những năm gần đây làm đối tượng nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khoa học để phân tích lý luận giải thực tiễn : Phương pháp duy vật biện
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
1
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân tích hoạt động kinh
tế, phương pháp tổng hợp thống kê…
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, doanh mục
bảng biểu, doanh mục viết tắt đề tài chia thành ba chương:
Chương I : Lý luận chung về hoạt động cho vay đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng thương mại
Chương II : Thực trạng cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại ngân hàng thương mai cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
VPBank chi nhánh thăng long
Chương III : Giải pháp và kiến nghị về mở rộng hoạt động cho vay
đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mại cổ phần các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh VPBank chi nhánh thăng long
Em xin gửi lời biết ơn chân thành tới thầy giáo Th.S. Trần Tất Thành .
Nhờ sự giúp đỡ và hướng dẫn nhiệt tình của thầy em đã có được những kiến
thức quý báu về cách thức nghiên cứu vấn đề cũng như nội dung của đề tài, từ
đó em có thể hoàn thành tốt đề tài của mình.
Trong thời gian thực tập bốn thàng tại VPBank chi nhánh thăng long,
em đã nhận được sự giúp đỡ và tạo điều kiện của Ban lãnh đạo ngân hàng,
đặc biệt là sự hướng dẫn nhiệt tình của các anh chị phòng Tín dụng. Chính sự
giúp đỡ đó đã giúp em nắm bắt được những kiến thức thực tế về các nghiệp
vụ ngân hàng và công tác cho vay. Những kiến thức thực tế này sẽ là hành
trang ban đầu cho qúa trình công tác, làm việc của em sau này. Vì vậy, em xin
bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới Ban lãnh đạo, tới toàn thể cán bộ, nhân viên
của ngân hàng VPBank chi nhánh thăng long.
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
2
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY
ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1 Khái niệm ,đặc điểm,vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1 Khái niệm các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là bộ phận không thể thiếu được của nền kinh
tế ,có mối quan hệ tương hỗ không thể tách rời với các chủ thể khác.Việc
phân chia doanh nghiệp dựa vào tiêu thức quy mô doanh nghiệp .theo tiêu
thức này doanh nghiệp bao gồm: Doanh nghiệp lớn doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Có nhiều quan điểm về DNV&N nhưng khái niệm chung nhất về DNV&N có
nội dung như sau.
Doanh ngiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách
pháp nhân kinh doanh vì mục đích lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong
những giới hạn nhất định tính theo các tiêu thức vốn lao động doanh thu, giá
trị gia tăng thu được trong từng thời kỳ, theo quy định của từng quốc gia.
DNV&N là những doanh nghiêp có quy mô nhỏ bế về vốn, lao động,
doanh thu. DNV&N có thể chia làm 3 loại cũng căn cứ vào quy mô đó là
doanh nghệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa.
Theo luật doanh nghiệp Việt Nam 2005, doanh nghiệp siêu nhỏ là
doanh nghiệp có số lao động nhỏ hơn 10,doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp
có số lao động từ 10 đến 50, doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có số lao
động từ 50 đến 300 ngưới.
Mỗi nước đều có tiêu chí để xác định DNV&N ở nước mình. Ở Việt
Nam khái niệm DNV&N được đưa ra điều 3 ,nghị định 90/2001/ NĐ/CP-
12/03/2001 của chính phủ về trợ giúp phát triển DNV&N. “DNV&N là cơ sở
sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành,
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
3
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng, hoặc có số lao động hàng năm không
quá 300 người”.
1.1.2 Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với nền kinh tế quốc dân
1.1.2.1 Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trong nền kinh tế, chúng ta thường gặp khái niệm "doanh nghiệp" và
được hiểu một cách thông thường là những đơn vị kinh tế được thành lập bởi
một cá nhân hay bởi các tổ chức, được nhà nước cho hoạt động nhằm thực
hiện hoạt động kinh doanh trong những lĩnh vực nhất định vì mục đích công
ích hay lợi nhuận. Sự vận động của nền kinh tế nhất thiết phải có một yếu tố
quan trọng đó là doanh nghiệp, không có hoạt động của các doanh nghiệp thì
nền kinh tế không thể lưu thông và hoạt động.
DNV&N có vai trò lớn trong sự tăng trưởng kinh tế của rất nhiều quốc
gia, kể cả các nước phát triển và đang phát triển. Trong bối cảnh Việt Nam
đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập với kinh tế khu vực
và thế giới, DNV&N đã và đang đóng vai trò quan trọng về nhiều mặt: Đảm
bảo nền tảng ổn định và bền vững của nền kinh tế; huy động tối đa các nguồn
lực cho đầu tư phát triển; đáp ứng một cách linh hoạt nhu cầu của các ngành
kinh tế quốc dân; cải thiện thu nhập và giải quyết việc làm cho một bộ phận
đông đảo dân cư; góp phần xoá đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống và thu
hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng đất nước. Các doanh nghiệp trong
quá trình hoạt động và sản xuất của mình đã cung cấp hàng hoá, tạo ra sự lưu
thông hàng hoá trong thị trường. Tuy nhiên để đảm bảo hoạt động sản xuất
kinh doanh một cách có hiệu quả thì các doanh nghiệp phải có một chiến lược
phát triển cụ thể trong quá trình kinh doanh của mình. Ở Việt Nam các
DNV&N chủ yếu tập trung vào các ngành thương mại, sửa chữa động cơ, xe
máy (chiếm 40,6% doanh nghiệp của cả nước), tiếp đến là các ngành chế biến
(20,9%), xây dựng (13,2%) và các ngành còn lại như kinh doanh tài sản, tư
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
4
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
vấn, khách sạn, nhà hàng (25,3%). Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
và Tổng cục Thống Kê, chỉ tính riêng năm 2005, số lượng doanh nghiệp đăng
ký mới (chủ yếu là DNV&N) đã là 45.162 doanh nghiệp, bằng tổng số doanh
nghiệp trước giai đoạn 2000.
Có nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau, nếu phân loại doanh nghiệp
theo hình thức sở hữu thì có doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước,
doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp cổ phần… Nếu phân loại theo quy mô
nguồn vốn thì có doanh nghiệp lớn và DNV&N. Trong đề tài này, tập trung
vào DNV&N vì đây là một bộ phận chiếm tỷ trọng lớn trong hệ thống các
doanh nghiệp Việt Nam và đây cũng là những doanh nghiệp đóng góp một vai
trò không nhỏ trong nền kinh tế. Nếu chúng ta có một định hướng đúng đắn
đối với các DNV&N thì sẽ có một sự thúc đẩy phát triển kinh tế to lớn, từ đó
làm điểm tựa vững chắc để đưa đất nước phát triển.
Từ khái niệm DNV&N “là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng
ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ
đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”, cho thấy,
tuyệt đại đa số doanh nghiệp của chúng ta nằm trong “bảng”.
Hiện nay, các DNV&N tập trung chủ yếu ở thành thị, chủ yếu ở các
thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng…
Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, số lượng DNV&N ngày
càng tăng mạnh. Như tên gọi của mình, DNV&N mang những đặc điểm riêng
rất khác biệt so với các doanh nghiệp lớn trên thị trường. Đồng thời, do đặc
điểm nền kinh tế nước ta đang trong thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa mà
DNV&N mang những đặc trưng cơ bản sau:
1.1.2.2 Đặc điểm của các DNV&N
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
5
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
a) Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm số lượng lớn trên thị trường, và tốc
độ gia tăng cao
Theo luật doanh nghiệp quy định, việc thành lập DNV&N yêu cầu số
vốn thành lập nhỏ, vì vậy số lượng DNV&N chiếm một tỷ trọng lớn trong nền
kinh tế. Với ưu điểm là vốn điều lệ thấp, điều này đã tạo một động lực to lớn
cho các tổ chức kinh tế tư nhân đứng ra thành lập doanh nghiệp của mình.
Mặt khác, từ trước đó đã tồn tại không ít các doanh nghiệp nhà nước có quy
mô vốn nhỏ, lao động ít như các hợp tác xã, các doanh nghiệp nhà nước mới
thành lập hoặc được tách ra…Với đặc điểm là vốn pháp định nhỏ như vậy, số
lượng các DNV&N đã chiếm phần lớn về số lượng trong nền kinh tế và có tốc
độ gia tăng cao.
Tính đến cuối năm 2007, số lượng DNV&N vào khoảng 190.000 doanh
nghiệp; 2,9 triệu hộ kinh doanh cá thể và hơn 20.000 hợp tác xã, nước ta phấn
đấu đến năm 2010, cả nước có 500.000 DNV&N. Con số này đã khẳng định
sự phát triển không ngừng về số lượng của các DNV&N. Với tỷ trọng lớn như
vậy trong nền kinh tế, đòi hỏi chính phủ phải có một chính sách hợp lý cho
các DNV&N, đảm bảo sự phát triển ổn định của kinh tế.
b) Các DNV&N có quy mô vốn nhỏ, lao động ít
Mặc dù tăng nhanh về số lượng nhưng nếu xét về quy mô vốn của các
DNV&N trong những năm gần đây thì lại rất thấp, mới ở mức trung bình trên
2 tỷ đồng/doanh nghiệp. Theo quy định của Luật doanh nghiệp, DNV&N là
các doanh nghiệp có số vốn pháp định không vượt quá 10 tỷ, và có số lao
động không vượt quá 300 lao động. Với số vốn nhỏ như vậy, các doanh
nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh và nhất là khó khăn trong việc cạnh tranh với các doanh
nghiệp lớn sản xuất cùng một loại sản phẩm trong thị trường. Nhất là khi nền
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
6
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
kinh tế có biến động lớn, ví dụ biến động về đầu vào, DNV&N khó có khả
năng chống đỡ và dễ bị dẫn đến phá sản. Đồng thời, với số lao động ít (< 300
người), các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ gặp nhiều cản trở trong quá trình sản
xuất kinh doanh và mở rộng sản xuất kinh doanh. Nhất là với tình trạng ít lao
động, doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ khó có được các lao động với tay nghề cao.
Với số lao động ít như vậy, sẽ khó mở các lớp đào tạo nâng cao tay nghề
nghiệp vụ cho các nhân viên. Và vì đa số người lao động, nhất là người lao
động có tay nghề nghiệp vụ, trình độ chuyên môn giỏi, khi tìm kiếm việc làm
đều có xu hướng muốn vào các doanh nghiệp lớn trên thị trường, điều này
khiến các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp khó khăn trong quá trình tuyển mộ và
phải đầu tư nhiều hơn cho công tác marketing tuyển mộ lao động.
c) Đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ là các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là các doanh nghiệp tư nhân
(chiếm khoảng 80%) do đặc điểm về quy mô vốn và số lượng lao động. Điều
này tạo khó khăn cho việc quản lý các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhất là đối
với các doanh nghiệp tư nhân hoạt động linh hoạt nhưng kém hiệu quả. Các
doanh nghiệp tư nhân thường khi thành lập và trong quá trình hoạt động chưa
có một tầm nhìn chiến lược cho doanh nghiệp của mình. Và trong khi vận
hành sản xuất kinh doanh, khi có một biến cố xảy ra thì không có kinh
nghiệm chống đỡ hoặc không đủ khả năng chống đỡ, dẫn đến thua lỗ hoặc
nặng hơn là phá sản. Việc quản lý các doanh nghiệp tư nhân cũng rất khó
khăn. Nhiều doanh nghiệp còn cố tình làm ăn phi pháp, cố tình trốn thuế và
không thực hiện đúng chế độ kế toán thống kê. Để quản lý tốt các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, đòi hỏi một sự theo dõi sát sao và thực sự có hiệu quả.
Như vậy mới có thể mới kiểm soát được hoạt động của loại hình doanh
nghiệp này.
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
7
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
d) Kinh nghiệm hoạt động còn chưa nhiều
Không kể các doanh nghiệp nhà nước vừa và nhỏ đã thành lập lâu đời và
hoạt động ổn định, đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều là các doanh
nghiệp tư nhân được thành lập trong hoặc sau thời kỳ mở cửa nền kinh tế
hoặc là các doanh nghiệp Nhà nước vừa được tách ra. Với những doanh
nghiệp vừa và nhỏ thành lập khá lâu mà hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, có
hiệu quả, họ sẽ dần dần mở rộng nguồn vốn của mình và đứng vào hàng ngũ
những doanh nghiệp lớn. Như vậy, kinh nghiệm hoạt động của loại hình
doanh nghiệp này chưa nhiều. Với số vốn ít và bề dày kinh nghiệm hạn chế,
các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp khó khăn trong việc duy trì hoạt động sản
xuất kinh doanh, chống đỡ với những thay đổi trong quá trình hoạt động của
mình.
e)Trình độ công nghệ và phương pháp quản lý lạc hậu
Đây là vấn đề nổi cộm đối với tổng thể các doanh nghiệp của nước ta do đặc
điểm nền kinh tế chưa thực sự phát triển.Ở doanh nghiệp Việt Nam hiện nay,
một thực trạng phổ biến trong các DNV&N là hệ thống máy móc, thiết bị lạc
hậu, khoảng 15-20 năm trong ngành điện tử, 20 năm đối với ngành cơ khí,
70% công nghệ ngành dệt may đã sử dụng được 20 năm. Tỷ lệ đổi mới trang
thiết bị trung bình hàng năm của Việt Nam chỉ ở mức 5-7% so với 20% của
thế giới. Công nghệ lạc hậu làm tăng chi phí tiêu hao 1,5 lần so với định mức
tiêu chuẩn của thế giới. Thực trạng này dẫn đến tăng chi phí đầu vào, cao hơn
từ 30 - 50% so với các nước ASEAN, đồng thời dẫn đến chất lượng sản phẩm
giảm, giá thành cao và năng suất thấp (Nguồn t ừ Vietnamnet).
Nhiều DNV&N rất yếu kém trong tiếp cận thông tin và các dịch vụ hỗ
trợ kinh doanh. Một phần là do chất lượng nguồn nhân lực thấp, hạn chế về
trình độ chuyên môn, tin học, ngoại ngữ của giám đốc và đội ngũ quản lý
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
8
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
doanh nghiệp, một phần là do đầu tư cho hệ thống thông tin thấp, chưa có
phương tiện kỹ thuật nên chưa theo kịp diễn biến của thị trường.
Vì thế, nhiều quyết định kinh doanh được đưa ra chỉ dựa vào kinh
nghiệm và phán đoán cảm tính, đây là điểm yếu nhất các DNV&N của Việt
Nam trước áp lực cạnh tranh quốc tế.
f) Các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động linh hoạt, năng động
Trong nền kinh tế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ là những thành phần
hoạt động linh hoạt nhất. Với mỗi thay đổi nhỏ nhất của nền kinh tế, các
doanh nghiệp vừa và nhỏ đều chịu tác động và phải điều chỉnh hoạt động của
mình để phù hợp với mỗi biến đổi đó. Với tính năng động như vậy, các doanh
nghiệp vừa và nhỏ đã đạt được hiệu quả trong hoạt động của mình và đóng
góp không nhỏ vào nền kinh tế. Sự đa dạng về loại hình hoạt động, phương
thức quản lý, sản phẩm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ giúp cho họ đứng
vững được trong thị trường.
1.2 Hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHTM
1.2.1. Các hình thức cho vay của NHTM đối với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ
Hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng, chiếm tỷ
trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất. Ở các nước trên
thế giới thì hoạt động tín dụng chiếm 50-60% lợi nhuận, còn ở Việt Nam thì
chiếm tới 60-70%. Song song với hoạt động huy động vốn, tín dụng tạo ra
nguồn lợi nhuận chính duy trì hoạt động của ngân hàng. Hoạt động tín dụng
ngân hàng được dựa trên quyết định của thống đốc ngân hàng nhà nước số
1627/2001/QĐ/NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 về việc ban hành quy chế
cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Theo đó quan hệ tín dụng
giữa khách hàng và ngân hàng có thể hiểu như sau:
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
9
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
- Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn gốc và lãi với thời gian xác định. Các
khoản cho vay của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của
khách hàng và các khoản vay mượn khác. Bản thân ngân hàng cũng có trách
nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi cho các khoản mượn nói trên. Ngân hàng thu lợi
nhuận là nhờ thu chênh lệch lãi suất cho vay và đi vay, đồng thời sử dụng vốn
vay để thực hiện hoạt động khác như đầu tư, tài trợ… Như vậy, để duy trì sự
tồn tại và phát triển của mình, ngân hàng phải yêu cầu khách hàng thực hiện
đúng cam kết này .
- Khách hàng phải cam kết sử dụng món vay theo mục đích được thoả thuận với
ngân hàng, không trái với quy định của pháp luật và các quy định khác của
ngân hàng cấp trên. Luật pháp quy định phạm vi hoạt động cho các ngân
hàng, và mỗi ngân hàng đều có mục đích và phạm vi hoạt động riêng. Do vậy,
khi cho giải ngân trong phạm vi hoạt động của mình, ngân hàng yêu cầu
khách hàng phải sử dụng vốn đúng mục đích như đã thoả thuận với ngân
hàng.
- Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án có hiệu quả. Phương án hoạt động của
người đi vay đảm bảo khả năng thu hồi vốn và lãi của ngân hàng. Mặt khác,
để đảm bảo đòi được nợ, các ngân hàng thường yêu cầu tài sản đảm bảo với
mỗi khoản vay.
Các hoạt động tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng ngân hàng được phân loại theo nhiều tiêu thức khác
nhau. Ngân hàng tiến hành phân loại tín dụng để dễ quản lý các khoản tín
dụng và nhằm đa dạng hoá tín dụng thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Phân
loại cho vay của ngân hàng quyết định lãi suất cho vay, cũng như loại hình
cho vay thích hợp với mỗi loại tín dụng khác nhau.
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
10
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Việc xác định phương thức cho vay có một ý nghĩa rất quan trọng của
quá trình cấp tín dụng cho khách hàng. Nếu xác định đúng phương thức cho
vay cho từng doanh nghiệp từ đó sẽ tạo ra yếu tố tích cực giúp cho khách
hàng thuận lợi trong quá trình giao dịch và chủ động về tài chính trong quá
trình sản xuất kinh doanh và thuận lợi để thực hiện phương án sản xuất kinh
doanh, khuyến khích được khách hàng về quan hệ vay vốn với ngân hàng,
Ngân hàng chủ động trong việc cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn. Nếu
xác định sai phương thức cho vay sẽ dẫn đến Ngân hàng không kiểm soát chặt
chẽ được số vốn cho vay làm tăng rủi ro tín dụng, không khuyến khích được
khách hàng vay vốn.
Hiện nay các ngân hàng thường áp dụng các phương thức cho vay sau:
1.2.1.1 Cho vay thấu chi
Cho vay thấu chi là nghiệp vu cho vay qua đó ngân hàng cho phép
người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới
hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là
hạn mức thấu chi.
Để được thấu chi, khách hàng làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi
và thời gian thấu chi (có thể phải trả phí cam kết cho ngân hàng). Trong quá
trình hoạt động, khách hàng có thể ký séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ… vượt
số dư tiền gửi để chi trả (song trong hạn mức thấu chi). Khi khách hàng có
tiền nhập về tài khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà
khách hàng phải trả là:
Số lãi phải trả= Lãi suất thấu chi x Thời gian thấu chi x Số tiền thấu chi.
Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ
sử dụng hình thức này. Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng
không phù hợp về thời gian và quy mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
11
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
đoán dựa vào dự đoán ngân quỹ song không chính xác. Do vậy, hình thức
cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh
toán, chủ động, kịp thời.
Thấu chi là hình thức cho vay ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản,
phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân
vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm, dùng để trả lương, chi các khoản
phải nộp, mua hàng… Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với khách
hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
1.2.1.2 Cho vay trực tiếp từng lần
Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến của
ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên,
không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử
dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu
thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân
hàng chỉ tham gia vào một giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh
doanh.
Mỗi lần vay, khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử
dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay,
xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu
cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ (khế
ước nhận nợ) khác nhau.
Số lượng cho vay= Nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh - vốn chủ
sở hữu tham gia - Các nguồn vốn khác tham gia.
Trong đó:
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
12
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh = Nhu cầu vốn đầu tư cho
TSLĐ và TSCĐ - Giá trị tài sản và chi phí không thuộc đối tượng tài trợ
của ngân hàng.
Nếu cho vay dự trên giá trị tài sản đảm bảo:
Số lượng cho vay= Giá trị tài sản đảm bảo x Tỷ lệ cho vay trên giá
trị tài sản đảm bảo.
Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong
quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và
hiệu quả sử dụng, nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu
nợ trước hạn, hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi
theo thời điểm tính lãi.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm
soát từng món vay tách biệt. Tiền cho vay dựa trên giá trị tài sản đảm bảo.
1.2.1.3 Cho vay theo hạn mức
Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách
hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ.
Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính.
Mỗi lần vay, khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay,
nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay.
Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ phát
tiền cho khách hàng.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn
thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh
doanh. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ.
Khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lý
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
13
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên, do các lần vay không tách biệt thành
các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần
vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài
chính, hoặc dư nợ lâu không giảm sút.
1.2.1.4 Cho vay luân chuyển
Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của
hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho
vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc đầu
quý, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng
thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung
cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thoả thuận
trong 1năm hoặc vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn
ngân hàng xem xét lại mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng cũng như
tình hình tài chính của khách hàng.
Việc cho vay dựa trên luân chuyển hàng hoá nên cả ngân hàng và doanh
nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá để dự đoán dòng
ngân quỹ trong thời gian tới.
Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hoá đơn
nhập hàng và số tiền cần vay. Ngân hàng cho vay và trả tiền cho người bán.
Theo hình thức này, giá trị hàng hoá mua vào (có hoá đơn, hợp pháp, hợp lệ,
đúng đối tượng) đều là đối tượng được ngân hàng cho vay; thu nhập bán hàng
đều là nguồn để chi trả cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất
định tuỳ theo khối lượng và chất lượng quan hệ nợ nần của người vay. Các
khoản phải thu và cả hàng hoá trong kho trở thành vật đảm bảo cho khoản cho
vay. Cho vay luân chuyển thường được áp dụng đối với các doanh nghiệp
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
14
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có
quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng.
Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho khách hàng. Thủ tục cho vay chỉ
cần thực hiện 1 lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn
kịp thời , vì vậy việc thanh toán cho người cung ứng sẽ nhanh gọn.
Nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ thì ngân hàng sẽ gặp khó
khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được quy định
rõ ràng.
1.2.1.5 Cho vay trả góp
Cho vay trả góp là hình thức cho vay, theo đó ngân hàng cho phép khách
hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã theo thoả thuận. Cho
vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài
trợ cho tài sản cố định và tài sản lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán
sao cho phù hợp với khả năng trả nợ (thường là từ khấu hao và thu nhập sau
thuế cuả dự án, hoặc từ thu nhập hàng kỳ của người tiêu dùng).
Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua
hạn mức nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho ngưòi bán lẻ về số hàng hoá
mà khách hàng đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận tiền ngay sau khi
bán hàng từ phía ngân hàng và làm đại lý thu tiền cho ngân hàng, hoặc khách
hàng trả trực tiếp cho ngân hàng. Đây là hình thức cho vay tài trợ người mua
(qua đó đến người bán) nhằm khuyến khích tiêu thụ hàng hoá.
Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá
mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay.
Nếu người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ của
ngân hàng cũng bị ảnh hưởng. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp
thường là lãi suất cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
15
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
1.2.1.6 Cho vay gián tiếp
Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp. Bên cạnh đó ngân
hàng cũng phát triển các hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho
vay thông qua các tổ chức trung gian.
Ngân hàng cho vay qua các tổ, đội, hội, nhóm như nhóm sản xuất, Hội
Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Hội phụ nữ…Các tổ chức này thường liên kết
các thành viên theo một mục đích riêng, song chủ yếu đều hỗ trợ lẫn nhau,
bảo vệ quyền lợi cho mỗi thành viên. Vì vậy, việc phát triển kinh tế, làm giàu,
xoá đói giảm nghèo luôn được các tổ chức này rất quan tâm.
Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các
tổ chức trung gian, như thu nợ, phát tiền vay… Tổ chức trung gian cũng có
thể đứng ra bảo đảm cho các thành viên vay, hoặc các thành viên trong nhóm
bảo lãnh cho một thành viên vay. Điều này rất thuận tiện khi người vay không
có hoặc không đủ tài sản thế chấp.
Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm
đầu vào của quá trình sản xuất. Việc cho vay theo cách này sẽ hạn chế người
vay sử dụng tiền sai mục đích.
Cho vay gián tiếp thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món
vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Trong trường hợp như vậy,
cho vay qua trung gian có thể tiết kiệm chi phí cho vay.
Cho vay qua trung gian đều nhằm giảm bớt rủi ro, chi phí của ngân hàng.
Tuy nhiên nó cũng bộc lộ các khiếm khuyết. Nhiều trung gian đã lợi dụng vị
thế của mình, để tăng lãi suất cho vay lại, hoặc giữ lấy số tiền của các thành
viên khác cho riêng mình. Các nhà bán lẻ có thể lợi dụng để bán hàng kém
chất lượng hoặc với giá đắt cho người vay vốn.
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
16
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
1.2.2 Mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng
thương mại
Mở rộng tín dụng ngân hàng được hiểu là sự gia tăng về khối lượng cho
vay của ngân hàng đối với đối tượng cho vay cả về chiều rộng và chiều sâu.
Mở rộng tín dụng ngân hàng đối với DNV&N là sự gia tăng về khối
lượng tín dụng đối với các DNV&N về cả chiều rộng và chiều sâu.
Mở rộng theo chiều rộng là sự tăng lên về quy mô của khối lượng các
khoản vay, của đối tượng khách hàng như số dư nợ tăng lên, số khách hàng
tăng…
Mở rộng theo chiều sâu là sự thay đổi về tính chất, cơ cấu theo hướng
hợp lý của các khoản vay như: cơ cấu các khoản vay, tỷ trọng dự nợ của các
DNV&N so với các loại hình doanh nghiệp khác…
Các chỉ tiêu đánh giá việc mở rộng tín dụng
Các chỉ tiêu về mở rộng tín dụng là các chỉ tiêu về dư nợ: số lượng dư
nợ, tỷ trọng dư nợ, chỉ tiêu về nợ quá hạn; các chỉ tiêu về số doanh nghiệp có
quan hệ vay vốn với ngân hàng, sự đa dạng các hình thức cho vay, sự đa dạng
các hình thức bảo đảm.
Việc mở rộng tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp vơa và nhỏ
là một công việc cần được nghiên cứu cụ thể và phải được hoạch định một
cách chi tiết. Ngân hàng cần xem xét các kết quả đạt được trong từng năm,
tiến hành phân tích các chỉ tiêu để đưa ra kết luận việc mở rộng tín dụng đã
thực sự hiệu quả hay chưa. Để làm được điều này, ngân hàng không chỉ dùng
một chỉ tiêu để phân tích mà phải tiến hành phân tích nhiều chỉ tiêu khác nhau
để đưa ra một kết luận chính xác nhất.
1.2.2.1 Sự cần thiết mở rộng cho vay
Mở rộng hoạt động cho vay của ngân hàng là việc thông qua các cơ chế,
chính sách của mình mà ngân hàng thực hiện tốt chức năng là trung gian tài
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
17
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
chính quan trọng trong nền kinh tế dẫn vốn từ người có vốn đến người có nhu
cầu, nhằm tạo ra lợi nhuận từ hoạt động cho vay mà vẫn đảm bảo nguyên tắc
an toàn. Mở rộng hoạt động cho vay của ngân hàng cũng có nghĩa là ngân hàng
phải làm sao phấn đấu cho ngày càng nhiều khách hàng thuộc mọi thành phần
kinh tế, kinh doanh trong nhiều lĩnh vực khác nhau khi có nhu cầu về vốn sẽ
tìm ngay đến với ngân hàng để vay vốn cho nhu cầu hoạt động của mình.
Hoạt động cho vay của ngân hàng có liên quan đến toàn bộ đời sống kinh tế
- xã hội của mỗi quốc gia, hoạt động này rất nhạy cảm với những thay đổi của
môi trường kinh tế và pháp luật. Không thể làm kinh tế mà không có vốn, khi
ngân hàng mở rộng cho vay đã đáp ứng một phần nhu cầu vốn cho nền kinh tế.
Khách hàng được sử dụng vốn vay ngân hàng có điều kiện thúc đẩy mở rộng sản
xuất kinh doanh, cải tiến công nghệ, nâng cao năng suất lao động, làm ra những
sản phẩm mới. Từ đó đem lại thu nhập cao hơn cho chính khách hàng vay vốn,
giải quyết việc làm, nâng cao mức sống cho người lao động. Vì vậy bên cạnh
việc mang lại lợi nhuận cao hơn cho ngân hàng, mở rộng cho vay còn góp phần
đưa nền kinh tế của địa phương, của đất nước phát triển.
1.2.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh mở rộng cho vay của NHTM đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ
Mở rộng cho vay có thể hiểu là việc ngân hàng thực hiện những biện
pháp nhằm đáp ứng được nhu cầu vay vốn ngày càng gia tăng của khách
hàng. Đó là sự tăng lên của tỷ trọng cho vay trong tổng tài sản của ngân hàng,
tăng lên cả về qui mô cũng như chất lượng, cơ cấu của khoản mục cho vay.
Để có thể đánh giá việc mở rộng cho vay cần thông qua một số các chỉ
tiêu cơ bản.
a) Các chỉ tiêu của ngân hàng
Dư nợ cho vay và doanh số cho vay
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
18
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Cho vay thường được định lượng theo hai chỉ tiêu: doanh số cho vay
trong kỳ và dư nợ cuối kỳ.
Dư nợ kỳ trước + Doanh số cho vay trong kỳ - Doanh số thu nợ trong
kỳ = Dư nợ kỳ này.
Dư nợ cho vay là số tiền mà ngân hàng hiện đang cho vay tính đến
một thời điểm cụ thể. Đây là chỉ tiêu tích lũy qua các thời kỳ, ngân hàng
tính lãi cho vay dựa trên dư nợ cho vay đến thời điểm tính lãi, tức là lợi
nhuận của ngân hàng có được từ hoạt động cho vay trong kỳ phụ thuộc vào
dư nợ chứ không phải là doanh số cho vay trong kì đó. Vì vậy số dư nợ
càng lớn và dư nợ kỳ sau tăng hơn so với kỳ trước là chỉ tiêu đúng nhất
phản ánh mức độ mở rộng cho vay càng cao.
Doanh số cho vay trong kỳ là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho vay
thực tế trong kỳ.
Doanh số thu nợ trong kỳ là tổng các khoản thu nợ phát sinh trong kỳ.
Nếu doanh số cho vay trong kỳ này tăng lên so với kỳ trước và lớn hơn
doanh số thu nợ trong kỳ thì ta có được sự mở rộng cho vay cả dư nợ và
doanh số.
Nếu doanh số cho vay trong kỳ này không tăng thậm chí còn nhỏ hơn
doanh số cho vay trong kỳ trước, nhưng trong kỳ này doanh số thu nợ giảm
do có nhiều món nợ không thu hồi được hoặc chưa đến hạn thu hồi nợ, thì
kết quả là dư nợ kỳ này vẫn có thể lớn hơn dư nợ kỳ trước. Nghĩa là trong
khi doanh số cho vay trong kỳ giảm thì dư nợ cho vay kỳ này vẫn tăng so
với kỳ trước, trường hợp này vẫn là mở rộng cho vay.
Một chỉ tiêu không thể bao quát được toàn bộ, vì thế cần xem xét kết
hợp nhiều chỉ tiêu nhằm bổ sung cho chỉ tiêu dư nợ để đánh giá được đúng
nhất việc mở rộng cho vay của ngân hàng.
Cơ cấu dư nợ
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
19
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Nếu phân chia các khoản cho vay của ngân hàng theo thời hạn cho
vay ta có cơ cấu dư nợ theo kỳ hạn, bao gồm:
- Cho vay ngắn hạn
- Cho vay trung hạn
- Cho vay dài hạn
Nếu dư nợ ngắn hạn tăng còn dư nợ trung và dài hạn giảm hoặc ngược
lại, nhưng kết quả là tổng dư nợ cuối kỳ này vẫn tăng so với kỳ trước thì
đây là mở rộng cho vay. Không thể có được kết luận cơ cấu dư nợ theo kỳ
hạn như thế nào mới là mở rộng cho vay. Tỷ trọng dư nợ ngắn hạn, trung
hạn hay dài hạn tăng lên đều thể hiện nhu cầu vay vốn của khách hàng
ngày càng cao. Tùy từng điều kiện, tùy từng thời điểm mà sự chuyển dịch
giữa dư nợ ngắn, trung, dài hạn theo hướng hợp lý, phù hợp với sự thay đổi
của thị trường, thay đổi nhu cầu khách hàng mà tổng dư nợ kỳ này tăng so
với kỳ trước là mở rộng cho vay.
Số lượng khách hàng
Dư nợ = Số lượng khách hàng * Dư nợ từng khách hàng
Dư nợ kỳ này tăng lên so với kỳ trước là do: Số lượng khách hàng kỳ
này cao hơn số lượng khách hàng kỳ trước hoặc dư nợ của từng khách hàng
tăng lên.
Số lượng khách hàng là chỉ tiêu đánh giá mở rộng cho vay về qui mô, số
lượng khách hàng càng nhiều nghĩa là ngân hàng đã đáp ứng được nhu cầu
vốn của nhiều người hơn; Dư nợ từng khách hàng vay tăng lên nghĩa là số
lượng khách hàng có những món vay giá trị lớn ngày càng nhiều.
Nếu số lượng khách hàng và dư nợ từng khách hàng cùng tăng, dư nợ
tăng thì ta có được sự mở rộng cho vay cả về số lượng khách và số tiền của
mỗi món vay.
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
20
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Tốc độ tăng trưởng dư nợ
Tốc độ tăng trưởng dư nợ
═
Dư nợ kỳ này – Dư nợ kỳ trước
x 100%
Dư nợ kỳ trước
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ mở rộng cho vay nhanh hay chậm
Nếu tốc độ tăng trưởng dư nợ < 0: Dư nợ kỳ sau < Dư nợ kỳ trước
ngân hàng đã thu hẹp cho vay.
Nếu tốc độ tăng trưởng dư nợ > 0: Dư nợ kỳ sau > Dư nợ kỳ trước.
Tốc độ tăng trưởng kỳ sau lớn hơn tốc độ tăng trưởng kỳ trước phản ánh
việc mở rộng cho vay ngày càng nhanh.
Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ quá hạn: Toàn bộ số dư nợ cả gốc và lãi của khách hàng vay vốn
đã đến hạn thanh toán với ngân hàng nhưng các khách hàng này không
thanh toán được mà vẫn chưa được ngân hàng xử lý cho điều chỉnh kỳ hạn
nợ, gia hạn nợ, xóa nợ...sẽ bị chuyển thành nợ quá hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn
═
Dư nợ quá hạn
x 100%
Tổng dư nợ
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
21
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Chỉ tiêu nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn là chỉ tiêu quan trọng để đánh
giá chất lượng mở rộng hoạt động cho vay của ngân hàng. Nợ quá hạn là
điều không thể tránh khỏi trong hoạt động của ngân hàng, song nếu một
ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn cao sẽ gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh
vì nguy cơ mất khả năng thanh toán, do vậy ngân hàng nào có tỷ lệ nợ quá
hạn cao sẽ bị đánh giá là chất lượng tín dụng thấp. Hoạt động cho vay của
ngân hàng phải đảm bảo mục tiêu an toàn và hiệu quả. (Tỷ lệ nợ quá hạn của
ngân hàng được coi là bình thường nếu nằm trong phạm vi từ 1 – 3% hoặc
cao hơn một chút).
Lợi nhuận
Mở rộng cho vay không phải là chỉ cần gia tăng dư nợ, gia tăng số lượng
khách hàng vay vốn...Mà quan trọng là phải đảm bảo khoản cho vay mang lại
lợi nhuận cho ngân hàng.
b) Các chỉ tiêu của khách hàng
Nhờ nguồn vốn vay ngân hàng, khách hàng có vốn để đưa vào hoạt động
sản xuất kinh doanh, do đó có thể đánh giá được việc mở rộng cho vay qua
một số chỉ tiêu của khách hàng:
Tăng thu nhập: Mở rộng cho vay tức là cung cấp nhiều vốn hơn cho nền
kinh tế. Người vay có điều kiện ứng dụng công nghệ hiện đại, tăng năng suất
lao động, phát triển sản phẩm mới... Từ đó dự án, phương án sử dụng vốn vay
của người vay đạt được hiệu quả tài chính, đem lại thu nhập cao hơn cho
chính họ. Thu nhập của người lao động cũng được tăng lên. Khả năng tài
chính của người vay được đảm bảo, do đó đảm bảo khả năng trả nợ cho ngân
hàng, tăng thu nhập từ cho vay của ngân hàng.
Tăng hiệu quả kinh doanh cho người vay: Khi đến vay ngân hàng
khách hàng phải hạch toán đầy đủ, chính xác, chứng minh được khả năng tài
chính của mình. Do đó mở rộng cho vay tác động gián tiếp đến khả năng quản
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
22
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
lý, hạch toán kinh doanh của người vay. Sử dụng vốn ngân hàng bắt buộc phải
thanh toán gốc và lãi đúng hạn tạo áp lực cần thiết cho người vay tìm mọi
cách nâng cao hiệu quả chất lượng kinh doanh để có lãi, đảm bảo thu nhập
cho bản thân doanh nghiệp và trả nợ ngân hàng.
Tăng việc làm: Do dự án sản xuất kinh doanh của người vay được đưa
vào thực hiện nên giải quyết được vấn đề việc làm cho người lao động. Với
những dự án mới khi đi vào hoạt động; tạo việc làm cho những lao động mới,
giải quyết vấn đề thất nghiệp. Đối với những dự án nhằm mở rộng, duy trì
hoạt động sản xuất kinh doanh sẵn có để tạo thêm việc làm cho công nhân
viên, giải quyết vấn đề dư thừa lao động.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ của NHTM
1.3.1 Nhân tố chủ quan
1.3.1.1 Quy mô hoạt động, phạm vi, địa bàn hoạt động
Đây là những nhân tố thuộc về bản thân của ngân hàng, ngân hàng có thể
trực tiếp tác động để phục vụ cho công việc mở rộng tín dụng với các doanh
nghiệp vừa và .
a ) Quy mô
Quy mô hoạt động của ngân hàng là độ rộng về mạng lưới của ngân
hàng, về số vốn của ngân hàng …Quy mô hoạt động càng lớn chứng tỏ khả
năng tiếp cận doanh nghiệp cao, nhu cầu vốn cao đồng thời khả năng cung
cấp vốn cũng được tăng cường. Đồng thời, quy mô rộng làm khả năng huy
động vốn cũng được tăng cường, tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong
việc mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
23
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Theo pháp luật quy định, ngân hàng không được cho vay quá 15% vốn
tự có của mình để đảm bảo an toàn cho ngân hàng. Vì vậy, nhiều ngân hàng
có nhu cầu cho vay doanh nghiệp lớn nhưng không thể thực hiện cho vay
được do có quy mô vốn thấp. Để khắc phục điều này, ngân hàng phải nâng
cao nguồn vốn tự có của mình hoặc tiơn hành đồng tài trợ. Vì vậy, quy mô
hoạt động của ngân hàng có quyết định rất to lớn đến việc mở rộng hoạt động
tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
b) Phạm vi, địa bàn hoạt động
Phạm vi, địa bàn hoạt động là địa điểm mà ngân hàng có trụ sở và các
chi nhánh. Phạm vi địa bàn hoạt động càng rộng thì ngân hàng có nhiều khả
năng tiếp xúc với nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đặc biệt, ngân hàng phải
hoạt động ở địa điểm tập trung nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ thì sẽ tiếp xúc
được với nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đồng thời lại giảm được chi phí mở
rộng địa bàn, phạm vi hoạt động.
1.3.1.2 Công nghệ ngân hàng
Với sự phát triển với tốc độ ngày càng tăng của công nghệ kỹ thuật nói
chung, công nghệ ngân hàng đã có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của
ngân hàng, và hoạt động mở rộng tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ cũng không nằm ngoài xu thế đó. Nếu ngân hàng áp dụng công
nghệ hiện đại vào hoạt động của mình, hiệu quả sẽ được tăng cường, tốc độ
mở rộng sẽ được tăng lên.Công nghệ còn góp phần vào đa dạng hoá loại hình
sản phẩm, tăng cường tính cạnh tranh trên thị trường. Để bắt kịp xu thế chung
và giữ được vị thế trên thị trường, cải tiến công nghệ là điều vô cùng cần thiết
đối với mỗi ngân hàng.
1.3.1.3 Trình độ quản lý
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
24
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Song song với việc phát triển đầu tư công nghệ, ngân hàng đồng thời
phải tăng cường trình độ quản lý. Trình độ quản lý có được nâng cao thì hoạt
động của ngân hàng mới có thể được duy trì một cách liên tục, có hiệu quả.
Một ngân hàng có trình độ quản lý tiên tiến sẽ có một quy trình hoạt động
hiệu quả cao, chi phí thấp, từ đó đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng. Trình
độ quản lý cũng tác động đến việc mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Nếu trình độ quản lý tốt sẽ giảm thời gian, tăng tốc độ mở rộng
tín dụng ngân hàng đối với các DNV&N.
1.3.1.4 Trình độ chuyên môn của cán bộ nhân viên
Đây cũng là yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động chung của ngân hàng. Có
một đội ngũ cán bộ công nhiên viên có trình độ chuyên môn cao giúp ngân
hàng tiết kiệm được chi phí hoạt động, tăng hiệu suất làm việc. Với việc mở
rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng đem lại kết quả tốt.
1.3.2 Nhân tố khách quan
1.3.2.1 Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế là nơi mà cả ngân hàng và doanh nghiệp cùng là một
bộ phận của nó. Ngân hàng và doanh nghiệp tồn tại trên môi trường kinh tế
với tư cách là các tổ chức kinh tế, hoạt động vì mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
Do vậy, những thay đổi về môi trường kinh tế tác động trực tiếp đến hoạt
động của cả doanh nghiệp và ngân hàng.
Một môi trường kinh tế ổn định thể hiện ở các chỉ tiêu sau:
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và đều đặn.
- Các chỉ tiêu phát triển kinh tế ổn định: GDP, chỉ số giá cả, lạm phát, tỷ
giá, lãi suất.
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
25