Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH CƠ BẢN TRONG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.04 KB, 32 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH CƠ BẢN
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH CƠ BẢN
TRONG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
TRONG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
1.1. Tổng quan về chứng khoán và TTCK
1.1.1. Chứng khoán
Chứng khoán là hàng hoá của TTCK. Đó là những tài sản tài chính vì nó
mang lại thu nhập và khi cần người sở hữu nó có thể bán nó để thu tiền về. Theo
sự phát triển của thị trường, hàng hoá ngày càng phong phú và đa dạng, nhưng
tựu chung lại, người ta thường phân chia chứng khoán thành cổ phiếu, trái
phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, các công cụ chuyển đổi và các công cụ phái sinh.
1.1.1.1. Cổ phiếu
Cổ phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới dạng chứng chỉ
hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sở
hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần. Cổ phiếu là
công cụ không có thời hạn. Theo tính chất của các quyền lợi mà cổ phiếu mang
lại cho cổ đông, có hai loại cổ phiếu cơ bản là cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu
ưu đãi.
1.1.1.2. Trái phiếu
Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát
hành (người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay)
một khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải
hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn.
1.1.1.3. Chứng chỉ quỹ đầu tư
Quỹ ĐTCK là quỹ hình thành từ vốn góp của người đầu tư để đầu tư vào
các chứng khoán. Chứng chỉ quỹ đầu tư là loại chứng khoán xác nhận quyền sở
hữu của NĐT đối với một phần vốn góp của quỹ đại chúng.
1.1.1.4. Chứng khoán có thể chuyển đồi
Chứng khoán có thể chuyển đổi là những chứng khoán cho phép người
nắm giữ nó, tuỳ theo lựa chọn và trong những điều kiện nhất định, có thể đổi nó
lấy một chứng khoán khác


1.1.1.5. Các chứng khoán phái sinh
- Quyền mua cổ phần (hay quyền mua trước) là quyền ưu tiên mua trước
dành cho các cổ đông hiện hữu của một công ty cổ phần được mua một số
lượng cổ phần trong một đợt phát hành cổ phiếu phổ thông mới tương ứng với
tỷ lệ cổ phần hiện có của họ trong công ty, tại một mức giá xác định, thấp hơn
mức giá chào mời ra công chúng và trong một thời hạn nhất định, đôi khi chỉ
vài tuần.
- Chứng quyền là một loại chứng khoán trao cho người nắm giữ nó quyền
được mua một số lượng xác định một loại chứng khoán khác, thường là cổ
phiếu thường, với một mức giá xác định và trong một thời hạn nhất định. Quyền
này được phát hành khi tổ chức lại các công ty, hoặc khi công ty nhằm mục tiêu
khuyến khích các NĐT tiềm năng mua các trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi có
những điều kiện kém thuận lợi. Để chấp nhận những điều kiện đó, NĐT có
được một lựa chọn đối với sự lên giá có thể xảy ra của cổ phiếu thường.
- Hợp đồng kỳ hạn là một thoả thuận trong đó một người mua và một
người bán chấp thuận thực hiện một giao dịch hàng hoá với một khối lượng xác
định, tại một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá được ấn định
vào ngày hôm nay.
- Hợp đồng tương lai là một thoả thuận đòi hỏi một bên của hợp đồng sẽ
mua hoặc bán một hàng hoá nào đó tại một thời hạn xác định trong tương lai
theo một mức giá đã định trước. Chức năng kinh tế cơ bản của các thị trường
hợp đồng tương lai là cung cấp một cơ hội cho những người tham gia thị trường
để phòng ngừa rủi ro về những biến động giá bất lợi.
- Quyền lựa chọn là một hợp đồng cho phép người nắm giữ nó được mua
(nếu là quyền chọn mua) hoặc được bán (nếu là quyền chọn bán) một khối
lượng nhất định hàng hoá tại một mức giá xác định và trong một thời hạn nhất
định. Các hàng hoá cơ sở này có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, chỉ
số trái phiếu, thương phẩm, đồng tiền hay hợp đồng tương lai.
1.1.2. Những vấn đề chung của TTCK
1.1.2.1. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển TTCK

Hình thức sơ khai của TTCK đã xuất hiện vào khoảng thế kỷ XV, ở các
thành phố trung tâm thương mại của các nước phương Tây, trong các chợ phiên
hay hội chợ, các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để thương lượng
mua bán, trao đổi hàng hoá. Đặc điểm của hoạt động này là các thương gia chỉ
trao đổi bằng lời nói với nhau về các hợp đồng mua bán mà không có sự xuất
hiện của bất cứ hàng hoá, giấy tờ nào. Đến cuối thế kỷ XV, khu chợ riêng đã trở
thành thị trường hoạt động thường xuyên với những quy ước xác định cho các
cuộc thương lượng. Những quy ước này dần trở thành các quy tắc có tính chất
bắt buộc đối với các thành viên tham gia.
Buổi họp đầu tiên diễn ra năm 1453 tại một lữ quán của gia đình Vanber
tại thành phố Bruges (Bỉ). Trước lữ quán có một bảng hiệu vẽ hình ba túi da và
chữ Bourse. Ba túi da tượng trưng cho ba nội dung của thị trường: Thị trường
hàng hoá; Thị trường ngoại tệ và TTCK động sản; còn chữ Bourse có nghĩa là
“mậu dịch thị trường” hay còn gọi là “nơi buôn bán chứng khoán”. Đến năm
1547, thị trường ở thành phố Bruges bị sụp đổ do cửa biển Evin – nơi dẫn các
tàu thuyền vào buôn bán tại thành phố, bị cát biển lấp mất.
Đến năm 1531, thị trường này đã được dời tới thành phố cảng Anvers
(Bỉ), từ đó, thị trường này phát triển nhanh chóng. Đến thế kỷ XVIII, một thị
trường như vậy cũng được thành lập ở London (Anh) và sau đó là một loạt thị
trường tại Pháp, Đức, Ý, một số nước Bắc Âu và Mỹ cũng được thành lập. Tuy
nhiên, sau một thời gian hoạt động, thị trường đã chứng tỏ khả năng không đáp
ứng được yêu cầu của cả ba giao dịch khác nhau. Vì thế, thị trường hàng hoá
được tách ra thành các khu thương mại, thị trường ngoại tệ được tách ra và phát
triển thành thị trường hối đoái. TTCK động sản trở thành TTCK. Như vậy,
TTCK được hình thành cùng với thị trường hàng hoá và thị trường hối đoái.
Quá trình phát triển của TTCK đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Lịch sử
đã ghi nhận hai đợt khủng hoảng lớn, đó là khi các TTCK lớn ở Mỹ, Tây Âu,
Bắc Âu, Nhật Bản bị sụp đổ trong vài giờ vào ngày 29/10/1929 và ngày
19/10/1987. Nhưng cuối cùng, TTCK lại được phục hồi và tiếp tục phát triển,
trở thành một thể chế tài chính không thể thiếu được trong nền kinh tế vận hành

theo cơ chế thị trường.
Hiện nay, do các biến động lớn trong nền kinh tế thế giới, do tác động của
tiến bộ khoa học kỹ thuật và với mong muốn của Chính phủ các nước trong việc
tăng cường vai trò của TTCK đối với đời sống kinh tế, TTCK đã được tạo mọi
điều kiện phát triển. Các chính sách của Chính phủ các nước đã góp phần thúc
đẩy sự hình thành và phát triển của TTCK.
1.1.2.2. Khái niệm và bản chất của TTCK
Theo quan niệm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung của
TTCK hiện nay, thì TTCK là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các
loại chứng khoán. Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay bút
toán ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của
tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có sự khác giữa
các loại chứng khoán, tùy theo tính chất sở hữu của chúng. Các quan hệ mua
bán, trao đổi trên TTCK làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán, và như vậy,
thực chất đây chính là quá trình vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu
sang tư bản kinh doanh.
Hàng hoá trên TTCK là một loại hàng hoá đặc biệt, là quyền sở hữu về tư
bản. Loại hàng hoá này cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Như vậy, bản chất của
TTCK là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở
đó, giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của
vốn đầu tư. TTCK là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông
hàng hoá.
Qua đó có thể thấy, TTCK đã cung cấp môi trường đầu tư cho công
chúng, huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế, tạo tính thanh khoản cho chứng
khoán, đánh giá hoạt động của DN, tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các
chính sách kinh tế vĩ mô.
Các chủ thể tham gia trên TTCK gồm có: chủ thể phát hành (bao gồm
Chính phủ, các DN, và một số tổ chức khác như: các Quỹ đầu tư, tổ chức tài
chính trung gian…); NĐT (là những người có tiền, thực hiện việc mua và bán
chứng khoán trên TTCK để tìm kiếm lợi nhuận, bao gồm NĐT cá nhân và NĐT

có tổ chức) các tổ chức có liên quan đến TTCK (như cơ quan quản lý và giám
sát hoạt động TTCK, SGD chứng khoán, hiệp hội các nhà kinh doanh chứng
khoán, tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán, các tổ chức hỗ trợ, các
công ty đánh giá hệ số tín nhiệm).
TTCK hoạt động dựa trên một số các nguyên tắc cơ bản đó là nguyên tắc
công khai (nguyên tắc này phải thoả mãn yêu cầu về thông tin chính xác, kịp
thời, dễ tiếp cận), nguyên tắc trung gian (trên TTCK các giao dịch được thực
hiện thông qua các tổ chức trung gian là các CTCK), nguyên tắc đấu giá (mọi
việc mua bán chứng khoán trên TTCK đều hoạt động trên nguyên tắc đấu giá,
và do mối cung cầu trên thị trường quyết định).
1.1.2.3. Vị trí của TTCK trong thị trường tài chính
TTCK là một bộ phận của thị trường tài chính. Vị trí của TTCK trong
tổng thể thị trường tài chính thể hiện:
Một là: TTCK là hình ảnh đặc trưng của thị trường vốn
Thời gian đáo hạn 1 năm t
Như vậy, trên TTCK giao dịch 2 loại công cụ tài chính: công cụ tài chính
TTCK
…Thị trường vốn……..
……………………………
……………………………
……………
……………………………
……………………………
……………
Thị trường tiền tệ
trên thị trường vốn và công cụ tài chính trên thị trường tiền tệ.
Hai là, TTCK là hạt nhân trung tâm của thị trường tài chính, nơi diễn ra
quá trình phát hành, mua bán các công cụ Nợ và công cụ Vốn (các công cụ sở
hữu)
1.1.2.4. Cấu trúc của TTCK

Tuỳ vào mục đích nghiên cứu, cấu trúc của TTCK có thể được phân loại
theo nhiều tiêu thức khác nhau. Tuy nhiên, thông thường, ba cách thức cơ bản
để phân loại TTCK đó là: phân loại theo hàng hoá, phân loại theo hình thức tổ
chức của thị trường và phân loại theo quá trình luân chuyển vốn.
- Phân loại theo hàng hoá: theo các loại hàng hoá được mua bán trên thị
trường, người ta có thể phân TTCK thành thị trường trái phiếu, thị trường cổ
phiếu và thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh.
Thị trường cổ phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu,
bao gồm cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
Thị trường trái phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các trái phiếu đã
được phát hành, bao gồm trái phiếu Chính phủ, trái phiếu đô thị và trái phiếu
công ty.
Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh: là thị trường phát hành và
Thị trường nợ ………...
………………………
………………………
………………………
………………………
………………………
………………………
Thị trường vốn cổ phần
TTCK
mua đi bán lại các chứng khoán phái sinh đã phát hành như: quyền mua cổ
phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn…
- Theo quá trình luân chuyển vốn: TTCK được phân thành thị trường sơ
cấp và thị trường thứ cấp.
Thị trường sơ cấp: là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành.
Trên thị trường này, vốn từ NĐT sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua
việc NĐT mua các chứng khoán mới phát hành.
Thị trường thứ cấp: là nơi giao dịch các chứng khoán đã phát hành trên

thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng
khoán đã phát hành.
- Theo hình thức tổ chức của thị trường, TTCK được phân thành: thị
trường tập trung (SGD chứng khoán) và thị trường phi tập trung (thị trường
OTC).
Tại SGD chứng khoán, người mua và người bán (hoặc đại lý, môi giới của
họ) gặp nhau tại một địa điểm nhất định để tiến hành giao dịch mua bán, trao
đổi chứng khoán. SGD chứng khoán được quản lý chặt chẽ bởi Uỷ ban chứng
khoán quốc gia, các giao dịch chịu sự điều chỉnh của Luật chứng khoán và
TTCK.
Thị trường giao dịch qua quầy hay thị trường giao dịch phi tập trung
(OTC) là thị trường của các nhà buôn, những người tạo thị trường. Các nhà
buôn có một danh mục chứng khoán và họ sẵn sàng mua và bán với các nhà
buôn khác cũng như các NĐT khi những người này chấp nhận giá cả của họ. Ở
thị trường này không có địa điểm giao dịch chính thức mà có thể diễn ra ở tất cả
các quầy, sàn giao dịch của các thành viên thông qua điện thoại hay mạng máy
tính diện rộng.
Ngoài hai loại thị trường nêu trên, người ta còn nói đến thị trường thứ ba,
thị trường tự do dành cho các chứng khoán không đủ tiêu chuẩn để giao dịch
trên thị trường tập trung và thị trường OTC. Ngoải ra, người ta còn phân loại
TTCK thành thị trường đàm phán và thị trường mở, thị trường giao ngay và thị
trường kỳ hạn.
1.2. Đầu tư chứng khoán
1.2.1. Khái quát chung về đầu tư
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các
hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các
nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi công
cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực
mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư. Nguồn lực phải hy sinh có
thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả sẽ

đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật
chất (nhà máy, đường sá, bệnh viện, trường học…), tài sản trí tuệ (trình độ văn
hoá, chuyên môn, quản lý, khoa học kỹ thuật…) và nguồn nhân lực có đủ điều
kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Căn cứ
vào bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại chúng ta có thể chia đầu tư
thành đầu tư thương mại, đầu tư tài sản vật chất và sức lao động, và đầu tư tài
chính.
Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua
hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá
khi mua và khi bán.
Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động trong đó người có tiền bỏ tiền ra
để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng
tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu
để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội, đó chính là
việc xâ;y dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị,
lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các
chi phí thường xuyên, gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy
trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền
kinh tế xã hội. Loại đầu tư này gọi chung là đầu tư phát triển.
Đầu tư tài chính (Đầu tư tài sản tài chính) là loại đầu tư trong đó người có
tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định
trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành (mua cổ phiếu). Đầu tư tài sản
tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến quan hệ
quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức,
cá nhân đầu tư (trong khuôn khổ quy định của pháp luật). Với sự hoạt động của
hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần
có thể rút ra một cách nhanh chóng (rút tiết kiệm, chuyển nhượng cố phiếu, trái
phiếu cho người khác), điều đó khuyến khích người có tiền bỏ tiền ra để đầu tư.
1.2.2. Khái niệm và mục đích của ĐTCK

Chứng khoán là các tài sản tài chính, vì vậy ĐTCK là một loại hình đầu
tư tài chính. Trong hoạt động này, các NĐT mua các chứng khoán theo một
danh mục đầu tư rất đa dạng, bao gồm cả các công cụ trên thị trường tiền tệ và
các công cụ trên thị trường vốn.
Mục đích của ĐTCK trước hết là nhằm thu được lợi nhuận từ số tiền đầu
tư đã bỏ ra. Tiếp đến mục đích của ĐTCK là để phân tán rủi ro có thể gặp trong
tương lai nhờ đa dạng hoá các hình thức đầu tư, và để thực hiện quyền kiểm
soát hoặc tham gia quản trị DN với tư cách người nắm cổ phần, vốn góp chi
phối. Các mục đích có thể khác nhau tuỳ theo ý định của từng NĐT, song cũng
có thể là tổng hợp các mục tiêu trên trong những tình huống cụ thể.
1.2.3. Phân loại ĐTCK
Tuỳ theo mục đích quản lý, hoạt động ĐTCK có thể được phân loại theo
nhiều cách khác nhau.
Căn cứ vào loại công cụ đầu tư, có thể phân loại ĐTCK thành đầu tư trái
phiếu Chính phủ, đầu tư trái phiếu DN và đầu tư cổ phiếu. Việc phân loại này
có thể giúp các nhà quản lý xây dựng danh mục đầu tư với mức độ rủi ro phù
hợp, trên cơ sở đó, dễ dàng thay đổi kết cấu danh mục đầu tư.
Nếu phân loại theo mục đích đầu tư, có thể phân loại ĐTCK thành đầu tư
nhằm hưởng lợi tức và đầu tư nhằm nắm quyền quản lý, kiểm soát tổ chức phát
hành. Trong hoạt động đầu tư nhằm hưởng lợi tức, NĐT có thể mua trái phiếu
Chính phủ, trái phiếu và cổ phiếu do DN phát hành. Khi ĐTCK với mục đích
nắm quyền sở hữu, NĐT có thể vừa đa dạng hoá tài sản, vừa phát triển lĩnh vực
kinh doanh mới thông qua thâu tóm và sáp nhập. Việc phân loại này giúp nhà
quản lý có thể kiểm soát được hoạt động đầu tư theo các mục đích đã được xác
định.
Căn cứ theo phương thức đầu tư, ĐTCK được phân thành đầu tư trực tiếp
và đầu tư gián tiếp. Đầu tư trực tiếp là hình thức NĐT trực tiếp mua chứng
khoán cho mình thông qua các nhà môi giới chứng khoán trên thị trường. Đầu
tư gián tiếp là hình thức các NĐT chứng khoán thông qua các định chế, tổ chức
đầu tư chuyên nghiệp như Quỹ ĐTCK, Quỹ tín thác đầu tư…để thực hiện hoạt

động đầu tư cho mình.
1.2.4. Mức sinh lời và rủi ro trong ĐTCK
Giống như các hình thức đầu tư khác, ĐTCK cũng gắn liền với rủi ro. Lý
luận và thực tiễn ĐTCK cũng chỉ ra rằng khả năng sinh lời trong ĐTCK luôn
gắn liền với những rủi ro mà NĐT chứng khoán có thể gặp phải, thông thường
kỳ vọng lợi nhuận càng cao thì khả năng gặp phải rủi ro càng lớn, và ngược lại.
1.2.4.1. Mức sinh lời trong ĐTCK
Mức sinh lời trong ĐTCK phản ánh khả năng đem lại lợi nhuận cho NĐT
chứng khoán trong một khoảng thời gian nhất định từ số vốn gốc đã bỏ ra ban
đầu. Mức sinh lời trong ĐTCK có thể đo bằng số tuyệt đối hoặc tương đối.
Mức sinh lời tuyệt đối là phần chênh lệch giữa tổng thu nhập từ ĐTCK
(bao gồm số lợi tức chứng khoán cộng mức lãi hoặc lỗ về vốn) với số tiền đầu
tư ban đầu (vốn gốc). Theo số tương đối, mức sinh lời chứng khoán là tỷ lệ
phần trăm giữa tổng số lợi nhuận thu được từ ĐTCK so với vốn gốc.
1.2.4.2. Rủi ro trong ĐTCK
Rủi ro trong ĐTCK được hiểu là khả năng xảy ra những kết quả không
mong đợi trong tương lai. Điều đó có thể là sự sụt giảm, thua lỗ hoặc những
biến động thất thường về mức sinh lợi trong hoạt động ĐTCK. Rủi ro trong
ĐTCK có nhiều loại, có thể phân thành hai loại chủ yếu là rủi ro hệ thống và rủi
ro không hệ thống.
- Rủi ro hệ thống: là những rủi ro có ảnh hưởng đồng thời đến hầu hết các
loại chứng khoán đang được lưu hành trên thị trường. Nguyên nhân của rủi ro
hệ thống thường là các tác nhân kinh tế nằm ngoài sự kiểm soát của các công ty
phát hành như: tình trạng lạm phát hoặc thiểu phát của nền kinh tế, những biến
động bất lợi của tỷ giá hối đoái hoặc lãi suất thị trường, sự suy thoái hay khủng
hoảng của nền kinh tế…Các loại rủi ro hệ thống tiêu biểu bao gồm: rủi ro lãi
suất, rủi ro thị trường, rủi ro sức mua, rủi ro tỷ giá.
Rủi ro lãi suất: là loại rủi ro do sự biến động lãi suất trên thị trường.
Trong thực tế, giá cả của chứng khoán luôn biến động tỷ lệ nghịch với lãi suất
thị trường, lãi suất thị trường tăng sẽ làm cho giá thị trường của chứng khoán

sụt giảm và ngược lại. Vì thế sự biến động lãi suất sẽ làm cho giá trị hiện tại của
các khoản thu nhập nhận được từ ĐTCK ở các thời điểm khác nhau có giá trị
khác nhau, do đó ảnh hưởng đến mức doanh lợi thu được của ĐTCK.
Rủi ro thị trường: là rủi ro do sự biến động của giá cả chứng khoán trên
thị trường. Đó là kết quả của những hiệu ứng về tương quan giữa cung và cầu
của các loại chứng khoán trên thị trường. Nguyên nhân của những biến động giá
cả chứng khoán thường rất phức tạp, có thể cả những sự kiện hữu hình hoặc vô
hình, cả những yếu tố bên trong hoặc ngoài DN. Sự đánh giá khác nhau của các
NĐT về mức sinh lời của một loại chứng khoán nào đó được giao dịch trên thị
trường cũng có thể gây nên hiệu ứng dây chuyền (hiệu ứng Đôminô) đối với giá
cả của các loại chứng khoán khác, làm cho giá chứng khoán trên thị trường nói
chung bị sụt giảm.
Rủi ro sức mua (rủi ro lạm phát): là loại rủi ro do giảm sút sức mua của
đồng tiền. NĐT nắm giữ chứng khoán mặc dù có khả năng thu được lợi nhuận
trong tương lai nhưng họ lại mất đi cơ hội mua sắm các loại hàng hoá, dịch vụ
trong thời hạn nắm giữ chứng khoán. Nếu trong khoảng thời gian đó giá cả hàng
hoá dịch vụ tăng lên do yếu tố lạm phát, họ sẽ mất đi một phần sức mua từ số
thu nhập có được trong tương lai. Giá trị phần sức mua bị giảm sút do lạm phát
phản ánh mức rủi ro sức mua của NĐT chứng khoán.
Rủi ro tỷ giá: là rủi ro do tác động của tỷ giá đối với khoản đầu tư. Khi
NĐT cho rằng đồng nội tệ có thể bị giảm giá trong tương lai thì NĐT đó sẽ
quyết định không đầu tư vào chứng khoán hoặc sẽ tìm cách thay thế chứng
khoán bằng tài sản ngoại tệ vì khi đó giá trị chứng khoán sẽ bị sụt giảm.
- Rủi ro không hệ thống: là những rủi ro có nguyên nhân từ nội tại của
một công ty hoặc một ngành kinh doanh cụ thể mà không gắn liền với toàn bộ
thị trường. Ảnh hưởng của các rủi ro không hệ thống vì thế chỉ tác động trong
phạm vi một công ty, một ngành hay một số loại chứng khoán nhất định. Rủi ro
không hệ thống thường bao gồm các loại như: rủi ro kinh doanh, rủi ro tài
chính, rủi ro quản lý…trong hoạt động của một công ty hoặc một ngành kinh
doanh nhất định.

Rủi ro kinh doanh: là rủi ro do sự thay đổi bất lợi về tình hình cung cầu
hàng hoá hay dịch vụ của DN hay là sự thay đổi bất lợi môi trường kinh doanh
của DN.
Rủi ro tài chính: là rủi ro về khả năng thanh toán trái tức, cổ tức và hoàn
vốn cho người sở hữu chứng khoán. Rủi ro tài chính liên quan đến sự mất cân
đối giữa doanh thu, chi phí và các khoản nợ của DN.
Rủi ro quản lý: là rủi ro do tác động của các quyết định quản lý không
hợp lý từ các nhà quản trị DN.
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định ĐTCK
Để đi đến quyết định ĐTCK NĐT thường phải xem xét, cân nhắc nhiều
nhân tố. Các nhân tố cơ bản thường bao gồm:
- Khả năng sinh lời từ khoản ĐTCK trong tương lai. Mục đích trước hết
của ĐTCK là nhằm thu được lợi nhuận trong tương lai, vì vậy khả năng sinh lợi

×