BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TTCK: Thị trường chứng khoán
UBCKNN: Uỷ ban chứng khoán Nhà nước
SGD: Sở giao dịch
TTGDCK: Trung tâm giao dịch chứng khoán
CTCK: Công ty chứng khoán
ĐTCK: Đầu tư chứng khoán
PTCB: Phân tích cơ bản
NĐT: Nhà đầu tư
DN: Doanh nghiệp
MỞ ĐẦU
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
TTCK Việt Nam với lịch sử ra đời và phát triển 8 năm có thể nói là một thị
trường còn khá non trẻ. Tuy nhiên, với tuổi đời non trẻ như vậy nhưng TTCK Việt
Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ với tốc độ cao (đặc biệt là trong giai
đoạn 2006 – 2007), và ĐTCK đã thực sự trở thành một trong những kênh đầu tư
quan trọng và hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Ngày nay, thuật ngữ chứng khoán
và TTCK đã trở nên gần gũi đối với nhiều người dân Việt Nam, từ nhân viên văn
phòng cho đến những người buôn bán nhỏ. Điều này là một thành quả rất đáng tự
hào, là một điểm nhấn tốt đẹp đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế chung của
đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh đó hoạt động ĐTCK ở Việt Nam tồn tại rất nhiều hạn
chế cần phải khắc phục, tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao, và bị chi phối bởi yếu tố tâm
lý đám đông, hay nói một cách khác việc vận dụng những kết luận từ hoạt động
phân tích chứng khoán nói chung, PTCB nói riêng trong ĐTCK ở Việt Nam chưa
được coi trọng, chính vì vậy công tác PTCB chứng khoán ở Việt Nam còn nhiều
hạn chế, và do vậy nó có tác động ngược trở lại làm cho những kết luận mà PTCB
đưa ra chưa thực sự khách quan và khoa học, do vậy chưa hỗ trợ cho hoạt động
ĐTCK hiệu quả hơn.
Xuất phát từ thực tế đó, tác giả cho rằng việc hoàn thiện phương pháp
PTCB, làm cho PTCB là một công cụ nhằm giúp cho hoạt động ĐTCK trở nên
hiệu quả hơn là việc làm cần thiết, qua đó ĐTCK sẽ ngày càng trở thành một kênh
đầu tư hấp dẫn, TTCK Việt Nam sẽ ngày càng phát triển.
Do đó, đề tài: “Hoàn thiện phương pháp PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam”
được chọn để nghiên cứu, đánh giá thực trạng và đề ra một số giải pháp nhằm đối
với phương pháp phân tích cơ bản trong ĐTCK ở Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu
- Trình bày một cách hệ thống những vấn đề cơ bản về ĐTCK và phương
pháp PTCB trong ĐTCK.
- Phân tích và đánh giá thực trạng công tác PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện phương pháp PTCB trong
ĐTCK ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: hoạt động PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu hoạt động PTCB trong ĐTCK ở Việt
Nam giai đoạn 2000 - 2008
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với tư duy khoa học logic để
nghiên cứu.
- Phương pháp diễn giải, phân tích.
5. Những đóng góp của luận văn
- Về lý thuyết: hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về ĐTCK và phương
pháp PTCB trong ĐTCK
- Về thực tiễn: phân tích và đánh giá thực trạng của hoạt động PTCB trong
ĐTCK ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện
phương pháp PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và bảng các chữ viết tắt,
luận văn được kết cấu gồm ba chương:
- Chương 1: Lý luận chung về PTCB trong ĐTCK
- Chương 2: Thực trạng hoạt động PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam.
- Chương 3: Hoàn thiện phương pháp PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH
CƠ BẢN TRONG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
CƠ BẢN TRONG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
1.1. Tổng quan về chứng khoán và TTCK
1.1.1. Chứng khoán
Chứng khoán là hàng hoá của TTCK. Đó là những tài sản tài chính vì nó
mang lại thu nhập và khi cần người sở hữu nó có thể bán nó để thu tiền về. Theo
sự phát triển của thị trường, hàng hoá ngày càng phong phú và đa dạng, nhưng tựu
chung lại, người ta thường phân chia chứng khoán thành cổ phiếu, trái phiếu,
chứng chỉ quỹ đầu tư, các công cụ chuyển đổi và các công cụ phái sinh.
1.1.1.1. Cổ phiếu
Cổ phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới dạng chứng chỉ
hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sở hữu
cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần. Cổ phiếu là công cụ
không có thời hạn. Theo tính chất của các quyền lợi mà cổ phiếu mang lại cho cổ
đông, có hai loại cổ phiếu cơ bản là cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu đãi.
1.1.1.2. Trái phiếu
Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành
(người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một
khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn
trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn.
1.1.1.3. Chứng chỉ quỹ đầu tư
Quỹ ĐTCK là quỹ hình thành từ vốn góp của người đầu tư để đầu tư vào
các chứng khoán. Chứng chỉ quỹ đầu tư là loại chứng khoán xác nhận quyền sở
hữu của NĐT đối với một phần vốn góp của quỹ đại chúng.
1.1.1.4. Chứng khoán có thể chuyển đồi
Chứng khoán có thể chuyển đổi là những chứng khoán cho phép người nắm
giữ nó, tuỳ theo lựa chọn và trong những điều kiện nhất định, có thể đổi nó lấy
một chứng khoán khác
1.1.1.5. Các chứng khoán phái sinh
- Quyền mua cổ phần (hay quyền mua trước) là quyền ưu tiên mua trước
dành cho các cổ đông hiện hữu của một công ty cổ phần được mua một số lượng
cổ phần trong một đợt phát hành cổ phiếu phổ thông mới tương ứng với tỷ lệ cổ
phần hiện có của họ trong công ty, tại một mức giá xác định, thấp hơn mức giá
chào mời ra công chúng và trong một thời hạn nhất định, đôi khi chỉ vài tuần.
- Chứng quyền là một loại chứng khoán trao cho người nắm giữ nó quyền
được mua một số lượng xác định một loại chứng khoán khác, thường là cổ phiếu
thường, với một mức giá xác định và trong một thời hạn nhất định. Quyền này
được phát hành khi tổ chức lại các công ty, hoặc khi công ty nhằm mục tiêu
khuyến khích các NĐT tiềm năng mua các trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi có
những điều kiện kém thuận lợi. Để chấp nhận những điều kiện đó, NĐT có được
một lựa chọn đối với sự lên giá có thể xảy ra của cổ phiếu thường.
- Hợp đồng kỳ hạn là một thoả thuận trong đó một người mua và một người
bán chấp thuận thực hiện một giao dịch hàng hoá với một khối lượng xác định, tại
một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá được ấn định vào ngày
hôm nay.
- Hợp đồng tương lai là một thoả thuận đòi hỏi một bên của hợp đồng sẽ
mua hoặc bán một hàng hoá nào đó tại một thời hạn xác định trong tương lai theo
một mức giá đã định trước. Chức năng kinh tế cơ bản của các thị trường hợp đồng
tương lai là cung cấp một cơ hội cho những người tham gia thị trường để phòng
ngừa rủi ro về những biến động giá bất lợi.
- Quyền lựa chọn là một hợp đồng cho phép người nắm giữ nó được mua
(nếu là quyền chọn mua) hoặc được bán (nếu là quyền chọn bán) một khối lượng
nhất định hàng hoá tại một mức giá xác định và trong một thời hạn nhất định. Các
hàng hoá cơ sở này có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số trái phiếu,
thương phẩm, đồng tiền hay hợp đồng tương lai.
1.1.2. Những vấn đề chung của TTCK
1.1.2.1. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển TTCK
Hình thức sơ khai của TTCK đã xuất hiện vào khoảng thế kỷ XV, ở các
thành phố trung tâm thương mại của các nước phương Tây, trong các chợ phiên
hay hội chợ, các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để thương lượng
mua bán, trao đổi hàng hoá. Đặc điểm của hoạt động này là các thương gia chỉ
trao đổi bằng lời nói với nhau về các hợp đồng mua bán mà không có sự xuất hiện
của bất cứ hàng hoá, giấy tờ nào. Đến cuối thế kỷ XV, khu chợ riêng đã trở thành
thị trường hoạt động thường xuyên với những quy ước xác định cho các cuộc
thương lượng. Những quy ước này dần trở thành các quy tắc có tính chất bắt buộc
đối với các thành viên tham gia.
Buổi họp đầu tiên diễn ra năm 1453 tại một lữ quán của gia đình Vanber tại
thành phố Bruges (Bỉ). Trước lữ quán có một bảng hiệu vẽ hình ba túi da và chữ
Bourse. Ba túi da tượng trưng cho ba nội dung của thị trường: Thị trường hàng
hoá; Thị trường ngoại tệ và TTCK động sản; còn chữ Bourse có nghĩa là “mậu
dịch thị trường” hay còn gọi là “nơi buôn bán chứng khoán”. Đến năm 1547, thị
trường ở thành phố Bruges bị sụp đổ do cửa biển Evin – nơi dẫn các tàu thuyền
vào buôn bán tại thành phố, bị cát biển lấp mất.
Đến năm 1531, thị trường này đã được dời tới thành phố cảng Anvers (Bỉ),
từ đó, thị trường này phát triển nhanh chóng. Đến thế kỷ XVIII, một thị trường
như vậy cũng được thành lập ở London (Anh) và sau đó là một loạt thị trường tại
Pháp, Đức, Ý, một số nước Bắc Âu và Mỹ cũng được thành lập. Tuy nhiên, sau
một thời gian hoạt động, thị trường đã chứng tỏ khả năng không đáp ứng được yêu
cầu của cả ba giao dịch khác nhau. Vì thế, thị trường hàng hoá được tách ra thành
các khu thương mại, thị trường ngoại tệ được tách ra và phát triển thành thị trường
hối đoái. TTCK động sản trở thành TTCK. Như vậy, TTCK được hình thành cùng
với thị trường hàng hoá và thị trường hối đoái.
Quá trình phát triển của TTCK đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Lịch sử
đã ghi nhận hai đợt khủng hoảng lớn, đó là khi các TTCK lớn ở Mỹ, Tây Âu, Bắc
Âu, Nhật Bản bị sụp đổ trong vài giờ vào ngày 29/10/1929 và ngày 19/10/1987.
Nhưng cuối cùng, TTCK lại được phục hồi và tiếp tục phát triển, trở thành một thể
chế tài chính không thể thiếu được trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường.
Hiện nay, do các biến động lớn trong nền kinh tế thế giới, do tác động của
tiến bộ khoa học kỹ thuật và với mong muốn của Chính phủ các nước trong việc
tăng cường vai trò của TTCK đối với đời sống kinh tế, TTCK đã được tạo mọi
điều kiện phát triển. Các chính sách của Chính phủ các nước đã góp phần thúc đẩy
sự hình thành và phát triển của TTCK.
1.1.2.2. Khái niệm và bản chất của TTCK
Theo quan niệm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung của
TTCK hiện nay, thì TTCK là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại
chứng khoán. Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay bút toán ghi
sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức
phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có sự khác giữa các loại
chứng khoán, tùy theo tính chất sở hữu của chúng. Các quan hệ mua bán, trao đổi
trên TTCK làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán, và như vậy, thực chất đây
chính là quá trình vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh
doanh.
Hàng hoá trên TTCK là một loại hàng hoá đặc biệt, là quyền sở hữu về tư
bản. Loại hàng hoá này cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Như vậy, bản chất của
TTCK là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở
đó, giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn
đầu tư. TTCK là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng
hoá.
Qua đó có thể thấy, TTCK đã cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng,
huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế, tạo tính thanh khoản cho chứng khoán, đánh
giá hoạt động của DN, tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách
kinh tế vĩ mô.
Các chủ thể tham gia trên TTCK gồm có: chủ thể phát hành (bao gồm
Chính phủ, các DN, và một số tổ chức khác như: các Quỹ đầu tư, tổ chức tài chính
trung gian…); NĐT (là những người có tiền, thực hiện việc mua và bán chứng
khoán trên TTCK để tìm kiếm lợi nhuận, bao gồm NĐT cá nhân và NĐT có tổ
chức) các tổ chức có liên quan đến TTCK (như cơ quan quản lý và giám sát hoạt
động TTCK, SGD chứng khoán, hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán, tổ
chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán, các tổ chức hỗ trợ, các công ty
đánh giá hệ số tín nhiệm).
TTCK hoạt động dựa trên một số các nguyên tắc cơ bản đó là nguyên tắc
công khai (nguyên tắc này phải thoả mãn yêu cầu về thông tin chính xác, kịp thời,
dễ tiếp cận), nguyên tắc trung gian (trên TTCK các giao dịch được thực hiện thông
qua các tổ chức trung gian là các CTCK), nguyên tắc đấu giá (mọi việc mua bán
chứng khoán trên TTCK đều hoạt động trên nguyên tắc đấu giá, và do mối cung
cầu trên thị trường quyết định).
1.1.2.3. Vị trí của TTCK trong thị trường tài chính
TTCK là một bộ phận của thị trường tài chính. Vị trí của TTCK trong tổng
thể thị trường tài chính thể hiện:
Một là: TTCK là hình ảnh đặc trưng của thị trường vốn
Thời gian đáo hạn 1 năm t
Như vậy, trên TTCK giao dịch 2 loại công cụ tài chính: công cụ tài chính
trên thị trường vốn và công cụ tài chính trên thị trường tiền tệ.
Hai là, TTCK là hạt nhân trung tâm của thị trường tài chính, nơi diễn ra quá
trình phát hành, mua bán các công cụ Nợ và công cụ Vốn (các công cụ sở hữu)
Thị trường tiền tệ …Thị trường vốn……..
……………………………
……………………………
……………
……………………………
……………………………
……………
TTCK
1.1.2.4. Cấu trúc của TTCK
Tuỳ vào mục đích nghiên cứu, cấu trúc của TTCK có thể được phân loại
theo nhiều tiêu thức khác nhau. Tuy nhiên, thông thường, ba cách thức cơ bản để
phân loại TTCK đó là: phân loại theo hàng hoá, phân loại theo hình thức tổ chức
của thị trường và phân loại theo quá trình luân chuyển vốn.
- Phân loại theo hàng hoá: theo các loại hàng hoá được mua bán trên thị
trường, người ta có thể phân TTCK thành thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu
và thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh.
Thị trường cổ phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu,
bao gồm cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
Thị trường trái phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các trái phiếu đã
được phát hành, bao gồm trái phiếu Chính phủ, trái phiếu đô thị và trái phiếu công
ty.
Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh: là thị trường phát hành và
mua đi bán lại các chứng khoán phái sinh đã phát hành như: quyền mua cổ phiếu,
chứng quyền, hợp đồng quyền chọn…
- Theo quá trình luân chuyển vốn: TTCK được phân thành thị trường sơ cấp
và thị trường thứ cấp.
Thị trường nợ ………...
………………………
………………………
………………………
………………………
………………………
………………………
Thị trường vốn cổ phần
TTCK
Thị trường sơ cấp: là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành.
Trên thị trường này, vốn từ NĐT sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua
việc NĐT mua các chứng khoán mới phát hành.
Thị trường thứ cấp: là nơi giao dịch các chứng khoán đã phát hành trên thị
trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán
đã phát hành.
- Theo hình thức tổ chức của thị trường, TTCK được phân thành: thị trường
tập trung (SGD chứng khoán) và thị trường phi tập trung (thị trường OTC).
Tại SGD chứng khoán, người mua và người bán (hoặc đại lý, môi giới của
họ) gặp nhau tại một địa điểm nhất định để tiến hành giao dịch mua bán, trao đổi
chứng khoán. SGD chứng khoán được quản lý chặt chẽ bởi Uỷ ban chứng khoán
quốc gia, các giao dịch chịu sự điều chỉnh của Luật chứng khoán và TTCK.
Thị trường giao dịch qua quầy hay thị trường giao dịch phi tập trung (OTC)
là thị trường của các nhà buôn, những người tạo thị trường. Các nhà buôn có một
danh mục chứng khoán và họ sẵn sàng mua và bán với các nhà buôn khác cũng
như các NĐT khi những người này chấp nhận giá cả của họ. Ở thị trường này
không có địa điểm giao dịch chính thức mà có thể diễn ra ở tất cả các quầy, sàn
giao dịch của các thành viên thông qua điện thoại hay mạng máy tính diện rộng.
Ngoài hai loại thị trường nêu trên, người ta còn nói đến thị trường thứ ba,
thị trường tự do dành cho các chứng khoán không đủ tiêu chuẩn để giao dịch trên
thị trường tập trung và thị trường OTC. Ngoải ra, người ta còn phân loại TTCK
thành thị trường đàm phán và thị trường mở, thị trường giao ngay và thị trường kỳ
hạn.
1.2. Đầu tư chứng khoán
1.2.1. Khái quát chung về đầu tư
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các
hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các
nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi công
cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà
người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư. Nguồn lực phải hy sinh có thể là
tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả sẽ đạt
được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà
máy, đường sá, bệnh viện, trường học…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên
môn, quản lý, khoa học kỹ thuật…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc
với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Căn cứ vào bản chất và
phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại chúng ta có thể chia đầu tư thành đầu tư thương
mại, đầu tư tài sản vật chất và sức lao động, và đầu tư tài chính.
Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua
hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi
mua và khi bán.
Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động trong đó người có tiền bỏ tiền ra để
tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực
sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo
việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội, đó chính là việc xâ;y
dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, lắp đặt
chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí
thường xuyên, gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực
hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội.
Loại đầu tư này gọi chung là đầu tư phát triển.
Đầu tư tài chính (Đầu tư tài sản tài chính) là loại đầu tư trong đó người có
tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước
(gửi tiết kiệm, mua trái phiếu) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của công ty phát hành (mua cổ phiếu). Đầu tư tài sản tài chính
không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong
lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư
(trong khuôn khổ quy định của pháp luật). Với sự hoạt động của hình thức đầu tư
tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra một
cách nhanh chóng (rút tiết kiệm, chuyển nhượng cố phiếu, trái phiếu cho người
khác), điều đó khuyến khích người có tiền bỏ tiền ra để đầu tư.
1.2.2. Khái niệm và mục đích của ĐTCK
Chứng khoán là các tài sản tài chính, vì vậy ĐTCK là một loại hình đầu tư
tài chính. Trong hoạt động này, các NĐT mua các chứng khoán theo một danh
mục đầu tư rất đa dạng, bao gồm cả các công cụ trên thị trường tiền tệ và các công
cụ trên thị trường vốn.
Mục đích của ĐTCK trước hết là nhằm thu được lợi nhuận từ số tiền đầu tư
đã bỏ ra. Tiếp đến mục đích của ĐTCK là để phân tán rủi ro có thể gặp trong
tương lai nhờ đa dạng hoá các hình thức đầu tư, và để thực hiện quyền kiểm soát
hoặc tham gia quản trị DN với tư cách người nắm cổ phần, vốn góp chi phối. Các
mục đích có thể khác nhau tuỳ theo ý định của từng NĐT, song cũng có thể là
tổng hợp các mục tiêu trên trong những tình huống cụ thể.
1.2.3. Phân loại ĐTCK
Tuỳ theo mục đích quản lý, hoạt động ĐTCK có thể được phân loại theo
nhiều cách khác nhau.
Căn cứ vào loại công cụ đầu tư, có thể phân loại ĐTCK thành đầu tư trái
phiếu Chính phủ, đầu tư trái phiếu DN và đầu tư cổ phiếu. Việc phân loại này có
thể giúp các nhà quản lý xây dựng danh mục đầu tư với mức độ rủi ro phù hợp,
trên cơ sở đó, dễ dàng thay đổi kết cấu danh mục đầu tư.
Nếu phân loại theo mục đích đầu tư, có thể phân loại ĐTCK thành đầu tư
nhằm hưởng lợi tức và đầu tư nhằm nắm quyền quản lý, kiểm soát tổ chức phát
hành. Trong hoạt động đầu tư nhằm hưởng lợi tức, NĐT có thể mua trái phiếu
Chính phủ, trái phiếu và cổ phiếu do DN phát hành. Khi ĐTCK với mục đích nắm
quyền sở hữu, NĐT có thể vừa đa dạng hoá tài sản, vừa phát triển lĩnh vực kinh
doanh mới thông qua thâu tóm và sáp nhập. Việc phân loại này giúp nhà quản lý
có thể kiểm soát được hoạt động đầu tư theo các mục đích đã được xác định.
Căn cứ theo phương thức đầu tư, ĐTCK được phân thành đầu tư trực tiếp
và đầu tư gián tiếp. Đầu tư trực tiếp là hình thức NĐT trực tiếp mua chứng khoán
cho mình thông qua các nhà môi giới chứng khoán trên thị trường. Đầu tư gián
tiếp là hình thức các NĐT chứng khoán thông qua các định chế, tổ chức đầu tư
chuyên nghiệp như Quỹ ĐTCK, Quỹ tín thác đầu tư…để thực hiện hoạt động đầu
tư cho mình.
1.2.4. Mức sinh lời và rủi ro trong ĐTCK
Giống như các hình thức đầu tư khác, ĐTCK cũng gắn liền với rủi ro. Lý
luận và thực tiễn ĐTCK cũng chỉ ra rằng khả năng sinh lời trong ĐTCK luôn gắn
liền với những rủi ro mà NĐT chứng khoán có thể gặp phải, thông thường kỳ
vọng lợi nhuận càng cao thì khả năng gặp phải rủi ro càng lớn, và ngược lại.
1.2.4.1. Mức sinh lời trong ĐTCK
Mức sinh lời trong ĐTCK phản ánh khả năng đem lại lợi nhuận cho NĐT
chứng khoán trong một khoảng thời gian nhất định từ số vốn gốc đã bỏ ra ban đầu.
Mức sinh lời trong ĐTCK có thể đo bằng số tuyệt đối hoặc tương đối.
Mức sinh lời tuyệt đối là phần chênh lệch giữa tổng thu nhập từ ĐTCK (bao
gồm số lợi tức chứng khoán cộng mức lãi hoặc lỗ về vốn) với số tiền đầu tư ban
đầu (vốn gốc). Theo số tương đối, mức sinh lời chứng khoán là tỷ lệ phần trăm
giữa tổng số lợi nhuận thu được từ ĐTCK so với vốn gốc.
1.2.4.2. Rủi ro trong ĐTCK
Rủi ro trong ĐTCK được hiểu là khả năng xảy ra những kết quả không
mong đợi trong tương lai. Điều đó có thể là sự sụt giảm, thua lỗ hoặc những biến
động thất thường về mức sinh lợi trong hoạt động ĐTCK. Rủi ro trong ĐTCK có
nhiều loại, có thể phân thành hai loại chủ yếu là rủi ro hệ thống và rủi ro không hệ
thống.
- Rủi ro hệ thống: là những rủi ro có ảnh hưởng đồng thời đến hầu hết các
loại chứng khoán đang được lưu hành trên thị trường. Nguyên nhân của rủi ro hệ
thống thường là các tác nhân kinh tế nằm ngoài sự kiểm soát của các công ty phát
hành như: tình trạng lạm phát hoặc thiểu phát của nền kinh tế, những biến động
bất lợi của tỷ giá hối đoái hoặc lãi suất thị trường, sự suy thoái hay khủng hoảng
của nền kinh tế…Các loại rủi ro hệ thống tiêu biểu bao gồm: rủi ro lãi suất, rủi ro
thị trường, rủi ro sức mua, rủi ro tỷ giá.
Rủi ro lãi suất: là loại rủi ro do sự biến động lãi suất trên thị trường. Trong
thực tế, giá cả của chứng khoán luôn biến động tỷ lệ nghịch với lãi suất thị trường,
lãi suất thị trường tăng sẽ làm cho giá thị trường của chứng khoán sụt giảm và
ngược lại. Vì thế sự biến động lãi suất sẽ làm cho giá trị hiện tại của các khoản thu
nhập nhận được từ ĐTCK ở các thời điểm khác nhau có giá trị khác nhau, do đó
ảnh hưởng đến mức doanh lợi thu được của ĐTCK.
Rủi ro thị trường: là rủi ro do sự biến động của giá cả chứng khoán trên thị
trường. Đó là kết quả của những hiệu ứng về tương quan giữa cung và cầu của các
loại chứng khoán trên thị trường. Nguyên nhân của những biến động giá cả chứng
khoán thường rất phức tạp, có thể cả những sự kiện hữu hình hoặc vô hình, cả
những yếu tố bên trong hoặc ngoài DN. Sự đánh giá khác nhau của các NĐT về
mức sinh lời của một loại chứng khoán nào đó được giao dịch trên thị trường cũng
có thể gây nên hiệu ứng dây chuyền (hiệu ứng Đôminô) đối với giá cả của các loại
chứng khoán khác, làm cho giá chứng khoán trên thị trường nói chung bị sụt giảm.
Rủi ro sức mua (rủi ro lạm phát): là loại rủi ro do giảm sút sức mua của
đồng tiền. NĐT nắm giữ chứng khoán mặc dù có khả năng thu được lợi nhuận
trong tương lai nhưng họ lại mất đi cơ hội mua sắm các loại hàng hoá, dịch vụ
trong thời hạn nắm giữ chứng khoán. Nếu trong khoảng thời gian đó giá cả hàng
hoá dịch vụ tăng lên do yếu tố lạm phát, họ sẽ mất đi một phần sức mua từ số thu
nhập có được trong tương lai. Giá trị phần sức mua bị giảm sút do lạm phát phản
ánh mức rủi ro sức mua của NĐT chứng khoán.
Rủi ro tỷ giá: là rủi ro do tác động của tỷ giá đối với khoản đầu tư. Khi NĐT
cho rằng đồng nội tệ có thể bị giảm giá trong tương lai thì NĐT đó sẽ quyết định
không đầu tư vào chứng khoán hoặc sẽ tìm cách thay thế chứng khoán bằng tài
sản ngoại tệ vì khi đó giá trị chứng khoán sẽ bị sụt giảm.
- Rủi ro không hệ thống: là những rủi ro có nguyên nhân từ nội tại của một
công ty hoặc một ngành kinh doanh cụ thể mà không gắn liền với toàn bộ thị
trường. Ảnh hưởng của các rủi ro không hệ thống vì thế chỉ tác động trong phạm
vi một công ty, một ngành hay một số loại chứng khoán nhất định. Rủi ro không
hệ thống thường bao gồm các loại như: rủi ro kinh doanh, rủi ro tài chính, rủi ro
quản lý…trong hoạt động của một công ty hoặc một ngành kinh doanh nhất định.
Rủi ro kinh doanh: là rủi ro do sự thay đổi bất lợi về tình hình cung cầu
hàng hoá hay dịch vụ của DN hay là sự thay đổi bất lợi môi trường kinh doanh của
DN.
Rủi ro tài chính: là rủi ro về khả năng thanh toán trái tức, cổ tức và hoàn
vốn cho người sở hữu chứng khoán. Rủi ro tài chính liên quan đến sự mất cân đối
giữa doanh thu, chi phí và các khoản nợ của DN.
Rủi ro quản lý: là rủi ro do tác động của các quyết định quản lý không hợp
lý từ các nhà quản trị DN.
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định ĐTCK
Để đi đến quyết định ĐTCK NĐT thường phải xem xét, cân nhắc nhiều
nhân tố. Các nhân tố cơ bản thường bao gồm:
- Khả năng sinh lời từ khoản ĐTCK trong tương lai. Mục đích trước hết của
ĐTCK là nhằm thu được lợi nhuận trong tương lai, vì vậy khả năng sinh lợi của
khoản ĐTCK là nhân tố cần được xem xét hàng đầu. Tuy nhiên khả năng sinh lợi
của chứng khoán lại chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khác như: lĩnh vực, ngành
nghề kinh doanh, chính sách kinh tế của nhà nước, khả năng cạnh tranh của DN
trên thị trường…Vì thế để tối đa hoá lợi nhuận, NĐT cần phải phân tích, đánh giá
kỹ các nhân tố có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh lời nêu trên để lựa chọn quyết
định đầu tư cho phù hợp.
- Mức độ rủi ro có thể gặp phải của loại chứng khoán đầu tư. Để có thể thu
được lợi nhuận tối đa trong ĐTCK NĐT phải biết cách tối thiểu hoá các rủi ro có
thế gặp phải. Việc đánh giá mức độ rủi ro trong ĐTCK không chỉ đối với từng loại
chứng khoán riêng rẽ mà còn đối với toàn bộ danh mục ĐTCK nhằm hạn chế và
phân tán rủi ro.
- Khả năng thanh khoản của chứng khoán đầu tư: Tính thanh khoản (hay
tính lỏng) của chứng khoán là khả năng dễ dàng chuyển đổi chứng khoán thành
tiền mặt. Thông thường, khi có số tiền mặt nhàn rỗi NĐT thường ĐTCK để thu lợi
nhuận, song khi cần tiền mặt để đáp ứng các nhu cầu cá nhân hoặc chuyển hướng
đầu tư họ lại muốn chuyển nhượng chứng khoán đang sở hữu để thu tiền về. Nếu
các chứng khoán mà họ đang sở hữu có khả năng thanh khoản cao, việc sở hữu
chứng khoán cũng tiện ích không khác gì việc giữ tiền mặt thì sẽ khuyến khích họ
ĐTCK và ngược lại. Do đó tính thanh khoản của chứng khoán cũng là một yếu tố
quan trọng để các NĐT xem xét, lựa chọn.
- Mức độ và khả năng kiểm soát, chi phối hoạt động của DN. Đôi khi mức
độ và khả năng kiểm soát, chi phối hoạt động của DN cũng là một nhân tố được
xét đến khi lựa chọn quyết định ĐTCK. Quyền hạn và lợi ích của NĐT chứng
khoán thường được tăng thêm theo mức độ nắm giữ cổ phần của DN. Vì vậy, khi
ĐTCK họ cũng cần cân nhắc quy mô đầu tư sao cho có thể đạt được mục đích
kiểm soát, chi phối hoạt động của DN, hỗ trợ cho việc thực hiện mục tiêu tối đa
hoá lợi nhuận.
1.2.6. Quy trình ĐTCK
Quy trình ĐTCK sẽ có những sự khác biệt nhất định nếu NĐT chứng khoán
lựa chọn các phương thức ĐTCK khác nhau, về cơ bản bao gồm các bước sau:
- Phân tích và lựa chọn danh mục ĐTCK: Việc ĐTCK thường bắt đầu bằng
việc phân tích và lựa chọn danh mục ĐTCK tối ưu sao cho vừa có thể đem lại tỷ
suất sinh lời cao, đồng thời hạn chế tối đa các rủi ro đầu tư có thể gặp phải. Nội
dung phân tích sẽ xem xét, đánh giá mức độ sinh lời và khả năng rủi ro có thể gặp
phải trong ĐTCK sẽ lựa chọn. Do các chứng khoán có mức sinh lời cao thường
gắn với độ rủi ro cao, vì thế đa dạng hoá danh mục ĐTCK là cách mà các NĐT
hay lựa chọn để phân tán rủi ro và tối đa hoá thu nhập ĐTCK. Hình thức đa dạng
hoá ĐTCK có thể là đầu tư vào chứng khoán của nhiều DN trong các ngành nghề,
lĩnh vực kinh doanh khác nhau, kết hợp giữa đầu tư cổ phiếu và đầu tư trái phiếu
với những kỳ hạn thanh toán đa dạng để tăng khả năng thanh khoản của chứng
khoán. Việc lựa chọn một danh mục ĐTCK cụ thể sẽ tuỳ thuộc vào chiến lược
ĐTCK của từng NĐT riêng biệt.
- Quản lý danh mục ĐTCK: Hoạt động ĐTCK không chỉ dừng lại ở chỗ lựa
chọn được danh mục ĐTCK mà còn ở chỗ quản lý, điều chỉnh danh mục đầu tư
trong suốt thời gian nắm giữ chứng khoán phù hợp với những diễn biến cụ thể của
thị trường. Người ta thường phân biệt thành hai phương pháp quản lý chủ yếu là
quản lý thu động và quản lý chủ động.
Đặc trưng cơ bản của phương pháp quản lý thụ động là việc NĐT chọn mua
và nắm giữ các chứng khoán cho đến khi đáo hạn mà không quá chú trọng đến
việc phân tích, dự báo những ảnh hưởng của sự biến động của lãi suất thị trường.
Theo đó, danh mục ĐTCK tốt nhất sẽ là danh mục đầu tư có thể đem lại mức thu
nhập ngang bằng với mức doanh lợi đầu tư trung bình trên thị trường. Phương
pháp quản lý thụ động vì vậy chỉ có tác dụng phòng tránh các rủi ro không hệ
thống mà không có khả năng phòng tránh những rủi ro hệ thống trên thị trường.
Phương pháp quản lý danh mục đầu tư chủ động đòi hỏi việc mua và nắm
giữ các chứng khoán phải trên cơ sở phân tích, dự báo các ảnh hưởng của sự biến
động thị trường để đạt mức sinh lợi cao hơn mức doanh lợi trung bình của thị
trường với một mức độ rủi ro có thể chấp nhận được. Các yếu tố có thể gây nên
những biến động thị trường cần được phân tích và dự báo trong quản lý danh mục
đầu tư chủ động là sự biến động của lãi suất thị trường, sự thay đổi của cơ cấu kỳ
hạn lãi suất hoặc sự thay đổi mức chênh lệch lãi suất giữa các loại chứng khoán
khác nhau…Dựa trên kết quả phân tích dự báo đó, các NĐT sẽ hướng vào việc lựa
chọn danh mục ĐTCK có thể đem lại mức thu nhập cao hơn mức doanh lợi trung
bình trên thị trường.
1.3. PTCB trong ĐTCK
Phân tích chứng khoán là hoạt động quan trọng nhằm hỗ trợ cho việc ra
quyết định đầu tư. Phân tích chứng khoán là bước khởi đầu cho hoạt động ĐTCK.
Mục tiêu của phân tích chứng khoán là giúp cho NĐT chứng khoán lựa chọn được
các quyết định ĐTCK có hiệu quả nhất, mang lại lợi nhuận tối đa với rủi ro tối
thiểu. Kết quả phân tích chứng khoán phải làm rõ được các căn cứ cho sự lựa chọn
quyết định đầu tư. Nó phải trả lời được các câu hỏi cơ bản: khi nào thì nên đầu tư,
nên đầu tư vào loại chứng khoán nào và với giá cả ra sao, khi nào thì nên rút khỏi
thị trường…Để đạt được kết quả đó, việc phân tích chứng khoán cần được tiến
hành theo một quy trình cụ thể và khoa học.
Phân tích chứng khoán có thể tiến hành theo quy trình từ trên xuống hoặc từ
dưới lên. Theo phương pháp phân tích từ trên xuống, người ta thường bắt đầu từ
những phân tích khái quát về tình hình kinh tế vĩ mô cả trong nước và quốc tế,
xem xét những ảnh hưởng, tác động của nó đến hoạt động của các DN và TTCK,
sau đó mới đi đến phân tích tình hình của ngành kinh doanh và cuối cùng là hoạt
động của từng DN, công ty riêng biệt. Phương pháp phân tích chứng khoán từ
dưới lên bắt đầu từ phân tích, đánh giá hoạt động kinh doanh của một công ty cụ
thể và đặt nó trong mối liên hệ tương quan giữa hoạt động của công ty với môi
trường kinh doanh bên ngoài là tình hình hoạt động của ngành hoặc nền kinh tế.
Trong hoạt động ĐTCK có hai phương pháp phân tích chủ yếu được sử
dụng là phương pháp PTCB (phân tích tài chính) và phân tích kỹ thuật. PTCB
giúp cho NĐT có thể lựa chọn kết cấu danh mục đầu tư phù hợp. Phân tích kỹ
thuật giúp cho các nhà quản lý có thể lựa chọn được thời điểm và chiến lược mua
bán chứng khoán tuỳ theo diễn biến của thị trường.
1.3.1.Khái niệm và mục tiêu của PTCB
PTCB là phương pháp nghiên cứu các thông tin về tình hình kinh tế xã hội,
tình hình kinh doanh của ngành, các thông tin tài chính công ty như cổ tức, lợi
nhuận, báo cáo thu nhập, bảng cân đối kế toán...nhằm xác định một giá trị hợp lý
của một loại chứng khoán hoặc các chứng khoán trên thị trường.
Khi người đầu tư mua một loại chứng khoán trên thị trường sơ cấp hay thị
trường thứ cấp với ý định nắm giữ lâu dài đều muốn biết rằng giá chứng khoán mà
người ta chào bán cho mình có hợp lý hay không, tức là có phù hợp với giá trị của
công ty phát hành ra chứng khoán đó hay không. Muốn vậy, phải tiến hành PTCB
để tìm ra giá trị nội tại của chứng khoán.
1.3.2. Nội dung phương pháp PTCB
1.3.2.1. Phân tích kinh tế vĩ mô
Môi trường kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của TTCK
và hiệu quả hoạt động của DN, vì thế trước phân tích các yếu tố thuộc bản thân
DN, cần đánh giá đúng các ảnh hưởng của các nhân tố bên ngoài đến hiệu quả
hoạt động của TTCK và giá cả chứng khoán của DN như thế nào. Việc phân tích
kinh tế vĩ mô nhằm mục đích đánh giá đúng thực trạng phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước và tác động của nó đến sự phát triển của TTCK, từ đó có các giải
pháp phù hợp thúc đẩy sự phát triển của thị trường.
- Phân tích tình hình kinh tế - chính trị - xã hội quốc tế:
Ngày nay hợp tác, mở cửa, và hội nhập kinh tế đã trở thành một xu thế tất
yếu trong phát triển kinh tế của mỗi nước, do đó nền kinh tế quốc tế có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến tình hình sản xuất kinh doanh của DN và của quốc gia, có những tác
động trực tiếp đến hoạt động của TTCK, vì vậy yếu tố quốc tế cần được xem xét
trong quá trình phân tích ĐTCK.
Các vấn đế có tính quốc tế cần lưu ý trong quá trình phân tích chứng khoán
là mức tăng trưởng kinh tế, các vấn đề chính trị nhạy cảm, chính sách bảo hộ,
chính sách tự do hoá tài chính, chính sách tiền tệ...
- Phân tích môi trường chính trị - xã hội của đất nước:
Môi trường chính trị, xã hội của mỗi quốc gia thể hiện ở hệ thống các yếu tố
về thể chế quản lý xã hội (như hiến pháp, luật pháp, các văn bản pháp quy của cơ
quan hành chính), cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành bộ máy quản lý hành chính
nhà nước các cấp, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, tôn giáo, sắc tộc, đội ngũ
cán bộ công chức trong bộ máy hành chính nhà nước.
Thực tế đã chứng minh sự ổn định của môi trường chính trị - xã hội của đất
nước là yếu tố quan trọng hàng đầu đảm bảo cho sự phát triển của nền kinh tế, DN
và TTCK. Sự mất ổn định chính trị - xã hội của đất nước, bất kể vì lý do gì cũng
gây tổn hại, thậm chí làm gián đoạn hoạt động của TTCK và hiệu quả của các DN.
Bởi lẽ, sự thay đổi về thể chế chính trị thường kéo theo những thay đổi về chính
sách kinh tế - xã hội, chính sách chi tiêu ngân sách, chính sách ngoại giao và an
ninh quốc phòng... của Chính phủ. Thực tế cho thấy yếu tố chính trị ngày càng có
mối liên hệ và ảnh hưởng to lớn đến đời sống kinh tế của đất nước.
- Phân tích ảnh hưởng của môi trường pháp luật:
Ngày nay hầu hết các nước đều quản lý đất nước theo chế độ pháp quyền, vì
thế môi trường pháp luật cũng có tác động quan trọng đến hoạt động của DN và
TTCK. Các cơ quan của Chính phủ tác động đền TTCK bằng Luật và các văn bản
dưới Luật. Chẳng hạn Luật DN thống nhất, Luật chống độc quyền sẽ tạo môi
trường kinh doanh bình đẳng cho các DN thuộc mọi thành phần kinh tế, và làm
giảm giá chứng khoán của các DN thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật chống độc
quyền. Luật thâu tóm, sáp nhập công ty có thể tác động tiêu cực hay tích cực đến
một nhóm các công ty. Các chính sách tài chính - tiền tệ trực tiếp gây tác động lớn
tới thị trường...
Tóm lại môi trường pháp lý có tác động mạnh mẽ, là điều kiện để nâng cao
hiệu quả hoạt động của DN và sự phát triển của TTCK. Việc phân tích môi trường
pháp lý cần được xem xét trên các mặt như: tính hệ thống, đồng bộ, ổn định, minh
bạch, khả thi và hiệu quả của hệ thống pháp luật cũng như tính quốc tế của hệ
thống pháp luật.
- Phân tích và dự đoán về xu hướng thị trường:
Môi trường kinh tế vĩ mô có vai trò quan trọng, quyết định xu thế chung của
TTCK. Thông thường, khi nền kinh tế đang ở giai đoạn tăng trưởng và thịnh
vượng thì TTCK phát triển và ngược lại khi nền kinh tế ở giai đoạn suy giảm, suy
thoái và khủng hoảng thì thị trường sẽ đi xuống. Như vậy, nếu dự đoán được xu
hướng phát triển của nền kinh tế thì ta có thể dự báo được xu thế phát triển chung
của TTCK. Tuy nhiên, trong một số hoàn cảnh đặc biệt, diễn biến chung của
TTCK với tình hình kinh tế không phải lúc nào cũng diễn ra cùng chiều.
Biến động giá cổ phiếu đôi khi xảy ra trước biến động của nền kinh tế. Vì
vậy, các NĐT luôn cố gắng dự đoán tình hình kinh tế để tìm ra những đỉnh điểm
của chu kỳ kinh tế và chọn thời cơ tham gia hoặc rút lui khỏi TTCK.
- Phân tích ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế vĩ mô:
Các điều kiện kinh tế vĩ mô của nền kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt
động của DN và TTCK do có liên quan trực tiếp đến mức rủi ro hệ thống trên thị
trường. Các yếu tố vĩ mô cần quan tâm trong phân tích chứng khoán là: tổng sản
phẩm quốc nội; tỷ lệ thất nghiệp; tỷ lệ lạm phát; lãi suất; cân đối thu chi ngân sách
Nhà nước. Tuy nhiên, ba nhân tố vĩ mô cơ bản tác động trực tiếp đến hoạt động
đầu tư trên thị trường chứng khoàn đó là: tỷ giá hối đoái, lãi suất và tỷ lệ lạm phát.
1.3.2.2. Phân tích ngành
Mục đích của phân tích ngành là nhằm giúp cho NĐT thấy rõ những lợi ích
hoặc rủi ro có thể gặp khi quyết định đầu tư vào chứng khoán của một DN hoạt
động trong một ngành kinh doanh cụ thể. Những nội dung cần thực hiện trong
phân tích ngành bao gồm: phân tích chu kỳ kinh doanh của ngành, đánh giá mức
độ rủi ro của ngành.
- Phân tích chu kỳ kinh doanh của ngành:
Mỗi ngành kinh doanh cũng có những chu kỳ phát triển nhất định. Giữa chu
kỳ phát triển của nền kinh tế và của ngành có mối quan hệ mật thiết, tác động qua
lại lẫn nhau nhưng không phải bao giờ cũng có sự biến động cùng chiều, đồng
điệu với nhau. Mỗi ngành có khả năng phản ứng khác nhau với những thay đổi
trong chu kỳ phát triển của nền kinh tế. Có thể trong khi nền kinh tế đang trong
giai đoạn phát triển song có ngành phát đạt có ngành lại gặp nhiều khó khăn. Các
ngành kinh doanh các sản phẩm không phải là sản phẩm thiết yếu (ô tô, đồ xa
xỉ...), sẽ có lợi hơn trong giai đoạn nền kinh tế có sự tăng trưởng, nhưng cũng gặp
khó khăn trong giai đoạn nền kinh tế suy thoái. Ngược lại, các ngành kinh doanh
các sản phẩm thuộc hàng tiêu dùng thiết yếu (lương thực, thực phẩm...) sẽ không
bị ảnh hưởng nhiều ngay cả khi nền kinh tế suy thoái.
Nhìn chung, triển vọng và chu kỳ kinh doanh của ngành có ảnh hưởng rất
lớn đến hiệu quả kinh doanh của các DN trong ngành. Nếu một công ty hoạt động
kinh doanh trong một ngành còn kém phát triển thì cũng khó có triển vọng đầu tư
đem lại hiệu quả cao. Vào cùng một thời điểm nhất định, các DN kinh doanh trong
các ngành khác nhau sẽ có mức doanh lợi thu được khác nhau, mức rủi ro khác
nhau. Do đó, cần có sự phân tích đánh giá ngành kinh doanh để chọn ngành có
mức doanh lợi cao, mức độ rủi ro thấp để đầu tư. Mặc khác, cũng cần có sự theo
dõi, phân tích ngành để lựa chọn thời điểm quyết định đầu tư hay rút khỏi đầu tư