Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Tải Bài văn mẫu lớp 8: Phân tích bài Thuế máu trích Bản án chế độ thực dân Pháp - Những bài văn mẫu lớp 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (723.1 KB, 23 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Bài văn</b>

<b>lớp 8</b>



<b>Phân tích tác phẩm Thuế máu của Nguyễn Ái Quốc</b>



<b>Dàn ý bài văn lớp 8 phân tích tác phẩm Thuế máu</b>



<b>I. Mở bài:</b>


- “Thuế máu” là văn bản nghị luận sắc bén, nổi tiếng của Nguyễn Ái Quốc với
nghệ thuật trào phúng sắc sảo, vạch trần sự ác độc, thủ đoạn tàn bạo của thực
dân Pháp với người dân thuộc địa trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 1.


<b>II. Thân bài</b>:


- Luận điểm 1: Chiến tranh và người bản xứ
* Giọng điệu của bọn thực dân


+ Trước chiến tranh thế giới lần 1, chúng cay nghiệt, khinh thường người dân
thuộc địa bằng những cái tên “bọn da đen bẩn thỉu”, hay bọn “An-nam-mít”,
bọn chỉ biết “kéo xe tay và ăn đòn”.


+ Sau khi chiến tranh xảy ra, bọn thực dân bất ngờ thay đổi chóng mặt, chúng
gọi người dân thuộc địa là “con yêu”, là “bạn hiền”, ngợi ca và phong cho họ là
những “chiến sĩ tự do bảo vệ cơng lí”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

+ Trên chiến trường tàn khốc: họ buộc phải xa gia đình, xa q hương, người
phơi thây ngồi chiến trường, kẻ chết khi vượt biển, bỏ xác tại nơi hoang vu, bị
tàn sát không thương tiếc…


+ Ở hậu phương, họ bị bọn thực dân bóc lột, vắt kiệt sức trong các xưởng thuốc
súng, bị nhiễm khí độc đến nỗi “khạc ra từng miếng phổi”.



⇒Số phận thảm thương, bế tắc của những người dân thuộc địa.


- Luận điểm 2: Chế độ lính tình nguyện
* Các thủ đoạn, mánh khóe của bọn thực dân


- Các thủ đoạn vũ lực, mánh khóe vơ lí để bắt ép người dân Đơng Dương đi
lính và vơ vét của cải của họ:


+ Chúng mở cuộc lùng ráp, vây bắt và cưỡng chế bằng vũ lực để ép người dân
đi lính


+ Chúng dùng mánh khóe trấn lột của cải của người dân bằng luận điệu: muốn
không đi lính thì xì tiền ra.


+ Khi bị bắt, chúng trói, xích, đánh đập như súc vật, sẵn sàng đàn áp dã man
nếu họ chống đối.


⇒Vô nhân đạo, không từ một thủ đoạn tàn ác, coi mạng người như cỏ rác.


+ Giọng điệu xảo trá, đáng khinh khi chúng nói “các bạn đã tấp nập đầu
quân…; không ngần ngại rời bỏ quê hương…”.


* Phản ứng của người dân


+ Tìm mọi cách để trốn thốt khỏi vịng vây của bọn thực dân


+ Sẵn sàng làm cho mình nhiễm những căn bệnh nặng nhất để không phải đi
nhưng cuối cùng vẫn bị chúng bóc lột, vơ vét khơng từ thủ đoạn.



⇒Họ khơng hề tình nguyện như lời phủ tồn quyền Đơng Dương đã cơng bố


trước tồn thế giới.


- Luận điểm 3: Kết quả của sự hi sinh


+ Một loạt các câu nghi vấn nhưng khơng hề có mục đích hỏi mà tác giả đang
muốn khẳng định, vạch trần bộ mặt tráo trở, tàn nhẫn, xảo trá, vô nhân đạo, bỉ
ổi của bọn thực dân Pháp đối với những người dân Việt Nam


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

+ Chúng thậm chí cịn ra sức vơ vét , gieo rắc vào đất nước ta những tệ nạn
chết người.


⇒Lời tố cáo thẳng thắn, quyết liệt của tác giả trước những tội ác của bọn thực


dân, thái độ mỉa mai, châm biếm đến cực độ trước sựu gian xảo, bỉ ổi của
chúng.


- Luận điểm 4: Nghệ thuật


+ Văn bản nghị luận với những luận điểm, luận cứ sắc sảo, chân thực, logic
+ Sử dụng những hình ảnh giàu giá trị biểu cảm


+ Giọng điệu khi mỉa mai châm biếm, khi chua xót uất hận.


<b>III. Kết bài:</b>- Văn bản “Thuế máu” nói riêng và “Bản án chế độ thực dân
Pháp” nói chung chính là nhát dao sắc bén của Nguyễn Ái Quốc, đâm thẳng
vào “tim đen” của bọn thực dân và sự đau khổ của người dân các nước thuộc
địa.



<b>Bài văn mẫu lớp 8 tham khảo- Mẫu 1</b>



Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc được viết bằng tiếng Pháp,
xuất bản tại Pa-ri năm 1925, nội dung tố cáo và kết án tội ác tày trời của chủ
nghĩa thực dân Pháp trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... đồng
thời phản ánh tình cảnh tủi nhục khốn cùng của người dân nơ lệ ở các xứ thuộc
địa trên thế giới. Từ đó, bước đầu tác giả vạch ra đường lối đấu tranh cách
mạng đúng đắn để các dân tộc tự giải phóng, giành quyền độc lập. Bản án chế
độ thực dân Pháp thể hiện lòng căm thù mãnh liệt những thế lực thống trị tàn
bạo, đồng thời bày tỏ tình yêu thương thắm thiết những kiếp người nô lệ nghèo
khổ, phản ánh ý chí chiến đấu giành độc lập, tự do cho các dân tộc thuộc địa
của Nguyễn Ái Quốc. Đồng thời tác phẩm cũng thể hiện tài năng văn chương
của tác giả qua nghệ thuật trào phúng, đả kích sắc sảo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

trần bản chất xấu xa ấy bằng những lập luận chặt chẽ và tư liệu phong phú, xác
thực, nhiều hình ảnh giàu giá trị biểu cảm. Giọng điệu chung của bài văn là vừa
kết án đanh thép vừa mỉa mai chua chát, vừa thơng cảm, xót thương.


Cái tên Thuế máu bao hàm nhiều ý nghĩa. Nó gợi lên số phận bi thảm của
người dân thuộc địa, đồng thời biểu lộ thái độ căm phẫn trước tội ác ghê tởm
của chính quyền thực dân. Người dân thuộc địa phải gánh chịu nhiều thứ thuế
bất cơng, vơ lí, song có lẽ một trong những thứ thuế tàn ác, dã man nhất là thứ
thuế thu bằng xương máu và tính mạng của họ. Trình tự và cách đặt tên các
phần trong chương Thuế máu cũng hàm ý bóc trần các chính sách lừa bịp để
bóc lột người dân thuộc địa đến tận xương tủy của chính quyền thực dân cai trị.
Từ Chiến tranh và người bản xứ đến Chế độ lính tình nguyện rồi Kết quả của
sự hi sinh, qua các phần tiếp nối nhau như thế, Nguyễn Ái Quốc đã từng bước
phơi bày bản chất “ăn thịt người” của bè lũ thực dân.


Ở phần Chiến tranh và người bản xứ, tác giả nêu bật sự đối lập trong thái độ


của các quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa ở hai thời điểm: trước
khi xảy ra chiến tranh và khi chiến tranh vừa bùng nổ. Trước chiến tranh, người
dân thuộc địa bị bọn thực dân cai trị coi là giống người hạ đẳng, ngang hàng
với súc vật: họ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên “An-nam-mít” bẩn
thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

cái chết thảm thương của người lính thuộc địa trên khắp các chiến trường miền
Nam nước Pháp bằng giọng văn trào lộng nhưng chất chứa cảm xúc xót xa,
ngậm ngùi: trong lúc vượt biển, nhiều người bản xứ, sau khi được mời chứng
kiến cảnh kì diệu của trị biểu diễn khoa học về phóng ngư lơi, đã được xuống
tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thủy quái. Một số khác đã bỏ xác tại
những miền hoang vu thơ mộng vùng Ban-căng... Một số khác nữa thì anh
dũng đưa thân cho người ta tàn sát trên bờ sông Mác-nơ, hoặc trong bãi lầy
miền Săm-pa-nhơ... Nhiều người dân thuộc địa tuy không phải ra trận nhưng ở
hậu phương, họ bị bắt buộc làm công việc rất nguy hiểm là chế tạo vũ khí phục
vụ chiến tranh: làm kiệt sức trong các xưởng thuốc súng ghê tởm, tuy khơng
phải hít hơi ngạt của bọn “bơ-sơ”, nhưng lại nhiễm phải những luồng khí độc
đỏ ối của người Pháp; họ cũng hứng chịu bệnh tật và những cái chết đau đớn,
vì những kẻ khốn khổ ấy cũng đã khạc ra từng miếng phổi, chẳng khác gì hít
phải hơi ngạt vậy. Tác giả đã nêu ra một con số khủng khiếp về số người bản
xứ đã bỏ mình trôn đất Pháp trong mấy năm chiến tranh thế giới thứ nhất: tổng
cộng có bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy,
tám vạn người khơng bao giờ cịn trơng thấy mặt trời trên quê hương đất nước
mình nữa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Những viên công sứ Pháp cùng bọn quan lại dưới quyền tiến hành vây bắt và
cưỡng bức người dân phải đi lính, lợi dụng chuyện bắt lính để dọa nạt, xoay xở
kiếm tiền đối với những nhà giàu: thoạt tiên, chúng tóm những người khỏe
mạnh, nghèo khổ những người này chỉ chịu chết thơi khơng cịn kêu cứu vào
đâu được. Sau đó, chúng mới đòi đến con cái nhà giàu. Những ai cứng cổ thì


chúng tìm ngay ra dịp để sinh chuyện với họ hoặc với gia đình họ, và nếu cần,
thì giam cổ họ lại cho đến khi họ phải dứt khốt chọn lấy một trong hai con
đường: “đi lính tình nguyện, hoặc xì tiền ra”. Chúng sẵn sàng trói, xích, nhốt
người ta như nhốt súc vật và đàn áp dã man nếu như dám chống đối. Tác giả đã
kể ra sự thực phũ phàng là người dân thuộc địa chỉ có hai con đường: hoặc trốn
tránh hoặc phải xì tiền ra. Thậm chí họ cịn tìm cách tự làm cho mình nhiễm
phải những căn bệnh nặng nhất để khỏi phải đi lính. Trong khi làm những điều
độc ác như đã kể trên, chính quyền thực dân vẫn khơng ngừng rêu rao về tinh
thần tình nguyện đầu quân của người dân thuộc địa. Lời tuyên bố trịnh trọng
của phủ toàn quyền Đông Dương chỉ làm bộc lộ r thêm thủ đoạn lừa bịp trơ
trẽn ấy: “các bạn đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê
hương xiết bao trìu mến để người thì hiến xương máu của mình như lính khố
đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của mình như lính thợ”. Tác giả mỉa mai
chua chát luận điệu dối trá ấy bằng những câu hỏi tu từ: nếu quả thật người An
Nam phấn khởi đi lính đến thế, tại sao lại có cảnh, tốp thì bị xích tay điệu về
tỉnh, tốp thì trước khi xuống tàu, bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gịn,
có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần, đạn lên nịng sẵn? Những cuộc biểu
tình đổ máu ở Cao Miên, những vụ bạo động ở Sài Gòn, ở Biên Hòa và nhiều
nơi khác nữa, phải chăng là những biểu hiện của lòng sốt sắng đầu quân “tấp
nập” và “khơng ngần ngại”? Trong phần Chế độ lính tình nguyện, tác giả đã
đưa ra hàng loạt dẫn chứng thực tố đối lập hoàn toàn với luận điệu bịp bợm của
bọn thực dân cầm quyền để lột trần bản chất tham lam và tàn bạo của chúng
trong chính sách cai trị đối với người dân thuộc địa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

rất lớn: khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng rồi, thì những lời tuyên bố tình tứ
của các ngài cầm quyển nhà ta bỗng dưng im bặt như có phép lạ, và cả người
“Nê-gơ-rơ” lẫn người “An nam-mít” mặc nhiên trở lại “giống người bẩn thỉu”.
Để ghi nhớ công lao người lính An Nam, chẳng phải người ta đã lột hết tất cả
của cải của họ, từ chiếc đồng hồ, bộ quần áo mới toanh mà họ bỏ tiền túi ra
mua, đến các vật kỉ niệm đủ thứ,... trước khi đưa họ đến Mác-xây xuống tàu về


nước đó sao? Chẳng phải người ta đã giao họ cho bọn súc sinh kiểm sốt và
đánh đập họ vơ cớ đó sao? Chẳng phải người ta đã cho họ ăn như cho lợn ăn và
xếp họ như xếp lợn dưới hầm tàu ẩm ướt, khơng giường nằm, khơng ánh sáng,
thiếu khơng khí đó sao ? về đến xứ sở, chẳng phải họ đã được một quan cai trị
biết ơn đón chào nồng nhiệt bằng một bài diễn văn yêu nước: “Các anh đã bảo
vệ Tổ quốc, thế là tốt. Bây giờ, chúng tơi khơng cần đến các anh nữa, cút đi ”
đó sao? Mỉa mai thay, khi chiến tranh vừa chấm dứt thì các lời tuyên bố tình tứ
của các ngài cầm quyền cũng tự dưng im bặt. Những người lính từng được tâng
bốc bằng bao lời lẽ hoa mĩ thì bây giờ mặc nhiên trở lại “giống người bẩn thỉu”
như trước đây. Đối với người dân thuộc địa, sự hi sinh cho chính nghĩa và cơng
lí như lời rêu rao đối trá của lũ thực dân chẳng hề mang lại lợi ích gì cho họ bởi
chế độ bản xứ là chế độ khơng hề biết đến chính nghĩa và cơng lí. Bộ mặt tráo
trở của chính quyền thực dân bộc lộ trắng trợn qua những hành động vô nhân
đạo: tước đoạt hết của cải mà người lính thuộc địa mua sắm được, đánh đập họ
vô cớ, đối xử với họ thô bỉ như đối với súc vật. Sau chiến tranh, người dân
thuộc địa trở về vị trí hèn hạ ban đầu: thế là những “cựu binh” đúng hơn là
cái xác còn lại sau khi đã dũng cảm bảo vệ chính nghĩa và cơng lí nay tay
khơng trở về với chế độ bản xứ của họ, một,chế độ khơng biết gì đến chính
nghĩa và cơng lí cả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

châm biếm, đả kích sắc sảo của ngịi bút Nguyễn Ái Quốc thể hiện chủ yếu qua
hệ thống hình ảnh chọn lọc, tiêu biểu, những từ ngữ giàu khả năng gợi tả, gợi
cảm và chất chứa sức mạnh tố cáo tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân. Ngôn
ngữ tác phẩm mang màu sắc trào phúng rất r nét. Những từ mỉa mai như: “con
u”, “chiến sĩ bảo vệ cơng lí và tự do”, “lấy máu mình tưới những vịng


nguyệt quế”, “lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống
chế”, “vật liệu biết nói...” vừa phơi bày bản chất dã man của chủ nghĩa thực
dân, vừa tô đậm số phận bi thảm của người dân thuộc địa. Tác giả sử dụng rất
thành công nghệ thuật gậy ông đập lưng ông bằng cách nhắc lại những mĩ từ,


danh hiệu hào nhống mà chính quyền thực dân khốc cho người lính thuộc địa
để bóc trần bản chất lừa bịp vơ liêm sỉ của chúng. Tác giả dùng liên tiếp các
câu hỏi tu từ để phơi bày sự thật trái ngược với lời lẽ bịp bợm của bọn cầm
quyền. Các câu chuyện, các sự kiện, con số được nêu ra đều lấy từ thực tế nên
khơng thể chối cãi. Để tăng tính thuyết phục của lí lẽ, khi cần, tác giả cịn dẫn
ra ý kiến của người khác hay của chính đối tượng bị đả kích. Từ hệ thống hình
ảnh và giọng điệu chung của tác phẩm, người đọc nhận ra thái độ yêu ghét r
ràng của tác giả: căm phẫn chính quyền thực dân tàn ác và xót xa thương cảm
cho thân phận người dân nô lệ của các nước thuộc địa bị bóc lột đến cả xương
máu, tính mạng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<b>Bài văn mẫu lớp 8 tham khảo - Mẫu 2</b>



Sử dụng văn chương như một công cụ đắc lực trong chiến đấu, trước đây ta đã
từng biết đến những án văn hùng hồn trong Quân trung từ mệnh tập của


Nguyễn Trãi. Tiếp bước thế hệ đi trước, trong cuộc kháng chiến vĩ đại của dân
tộc Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng văn chương chính luận làm cơng cụ
chiến đấu đắc lực, vạch trần tội ác của giác. Đoạn trích Thuế máu trong Bản án
chế độ Thực dân Pháp đã cho thấy ngịi bút chính luận bậc thầy của người.
Ngịi chút chính luận sắc sảo, đanh thép của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện
ngay trong lối tư duy logic, mạch lạc ở cách đặt tiêu đề cho mỗi chương. Thuế
máu cách gọi vừa cho thấy số phận thảm thương, bất hạnh của những người
dân nước thuộc địa. Vừa cho thấy sư độc ác, dã man của thực dân Pháp đối với
nhân dân. Qua đó cũng bộc lộ thái độ của người viết: thương cảm cho số phận
người dân và căm phẫn tột cùng với bè lũ thống trị.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Đi sâu vào tác phẩm ta thấy rằng chưa bao giờ số phận của người dân nước
thuộc địa lại bị coi thường, rẻ rúng đến như vậy. Dưới con mắt của những kẻ
cầm quyền họ chẳng khác nào trâu ngựa, bởi vậy khi chiến tranh vừa xảy ra họ


lập tức bị gọi đi ngay, họ phải chia xa vợ con và bỏ mạng trên các chiến trường
châu u. Đến đây ngòi bút của Nguyễn Ái Quốc đi sâu vào từng sinh mạng bé
bỏng phải bỏ mạng nơi đất khách quê người: “được xuống tận đáy biển để bảo
vệ tổ quốc của các loài thủy quái” “một số khác đã bỏ xác tại các miền hoang
vu thơ mộng vùng Ban-căng” “Một số khác đưa thân cho người ta tàn sát….”
Không chỉ những người ra chiến trường mới phải chịu số phận bất hạnh, thảm
thương, mà ngay cả những người dân thuộc địa, không phải ra chiến trận cũng
phải chịu cái chết đau đớn tại các xưởng chế tạo vũ khí chiến tranh.


Số người chết trên các chiến trường quả thực quá khủng khiếp, đến tám mươi
vạn người dân bản xứ. Nhưng họ ra đi chiến đấu vì điều gì, vì thứ danh hiệu
hão huyền, vì quyền lợi mà họ không bao giờ được hưởng. Họ những người
dân bản xứ đã đã bỏ mạng trên đất Pháp, và không bao giờ cịn được nhìn thấy
q hương của mình nữa. Những người cịn sống sót cũng có số phận chẳng hề
khá khẩm hơn, họ bị thương, lết tấm thân tàn trở về, sống cuộc đời trâu ngựa
cho đến cuối đời.


Chiến tranh tuy đã kết thúc, nhưng thực dân Pháp vẫn tìm mọi cách để đầu độc
nòi giống. Chúng sử dụng những chiêu bài hết sức thâm hiểm như cấp môn bài
bán lẻ thuốc biện cho các thương binh Pháp và vợ con sĩ tử Pháp. Thủ đoạn
thâm độc ấy đã đầu độc cả một dân tộc.


Đến đây ngòi bút của Bác càng trở nên sắc sảo hơn, sau khi đã nêu lên số phận
thảm thương của người dân bản xứ. Bác đã dùng những lời lẽ vừa đanh thép,
vừa mỉa mai châm biếm để vạch trần bộ mặt gian xảo của chính quyền thực
dân: “Để ghi nhớ cơng lao của người lính An Nam, chẳng phải người ta đã lột
hết của cải của họ, từ chiếc đồng hồ, bộ quần áo mới toanh mà họ bỏ tiền túi ra
mua, đến các vật kỉ niệm đủ thứ … trước khi họ đến Mác-xây xuống tàu về
nước đó sao?”….



</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

lập luận sắc sảo. Đằng sau đó ta cịn thấy được máu và nước mắt của người dân
thấm đẫm trên từng trang sách. Tác phẩm là lời tố cáo thống thiết và đanh thép
chính quyền thực dân tàn bạo chà đạp lên quyền sống, quyền tự do của con
người.


<b>Bài văn mẫu lớp 8 tham khảo - Mẫu 3</b>



Nguyễn Ái Quốc là một vị lãnh tụ vĩ đại một người cha già của dân tộc. Người
là một nhà cách mạng sáng lập ra đảng cộng sản Việt Nam, một trong những
người đặt nền móng và lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, toàn v n
lãnh thổ cho dân tộc Việt Nam. Là một người tài hoa , có tài văn chương,
Nguyễn Ái Quốc đã dùng ngịi bút của mình, dùng văn chương để làm vũ khí
chiến đấu. Nhưng tác phẩm đó đã để lại ấn tương sâu sắc trong lòng người đọc
và đánh những đon mạnh vào bọn đế quốc tay sai. Trong số những tác phẩm đó
được bạn bè thế giới biết đến nhiều phải kể đến tác phẩm "Thuế máu". Tác
phẩm được người viết khi đang hoạt đông cách mạng tại Pháp và là một địn
chí mạng đối với bọn đế quốc thực dân. Tác phẩm đã vạch r bộ mặt thật sự
của quan cai trị Pháp đối với người bản xứ, chính quyền thuộc địa đã biến
người dân thuộc địa thành vật hi sinh để phục vụ lợi ích trong các cuộc chiến
tranh tàn khốc.


Tên tác phẩm là "Thuế máu" tạo lên cảm giác của các cuộc chiến tranh các
cuộc tàn sát đẫm máu. Trong tác phẩm này đây chính là máu của những người
dân thuộc địa bị bọn đế quốc thực dân, bị bọn tay sai áp bức bóc lột đến tận
sương tủy. Đồng thời nhan đề tác phẩm cũng thể hiện thái độ tức giận, căm
phẫn của tác giả khi chứng kiến dân tộc mình bị đối xử tàn nhẫn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Người dân thuộc địa "giỏi lắm cũng chỉ biết kéo xe và ăn đòn của quân cai trị
nhà ta". Giọng nói đầy mỉa mai cho thấy thái độ khinh bỉ coi dân ta như súc
vậy của bọn thực dân Pháp. Khi chiến tranh "vui tươi" xảy ra, chữ vui tươi


được tác giả sử dụng để châm biếm cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất các nước
đế quốc tranh giành quyền lợi. Khi đó số phận của người dân thuộc địa được
thay đổi đến không ngờ. Họ được đề cao trọng vọng và được các quan phụ mẫu,
quan toàn quyền lớn bè coi là "con n" "bạn hiền", thậm chí cịn được đề bạt
lân chức danh "chiến sĩ bảo vệ cơng lí và tự do". Đối với chức danh đó đánh
nhẽ ra họ phải được nâng như nâng trứng hứng như hứng hoa, nhưng thực chất
cuộc sống của họ không hề được nâng cao mà lạ ngược lại. Như vậy đối với họ
chức danh ấy vốn cũng chỉ là hữu danh vơ thực khơng có một chút đặc quyền
gì hết Với gọng điệu mỉa mai khi chỉ ra sự tương phản đã châm biếm sự thâm
độc giả dối của chế độ thực dân.


Dưới ách áp bức đó của bọn thực dân, số phận người dân thuộc địa rất bi thảm
và đã được nhà văn miêu tả hết sức cụ thể bằng ngòi bút tài hoa của mình. Họ
khơng được hưởng tí nào về quyền lợi đã thế họ cịn phải đột ngột xa lìa vợ con,
quê hương, phải làm việc cật lực trong những kho thuốc súng ghê tởm khạc ra
từng tiếng phổi, họ phơi thây trên các chiến trương châu u, xuống tận đáy
biển bảo vệ tổ quốc của loài thủy quái, bỏ xác ở những vùng miền hoang vu ở
Ban-căng, lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế. Kết quả là tám vạn
người khơng bao giờ thấy mặt trời trên q hương mình nữa. Nghe đến đấy la
tự hỏi tại sao , bọn thực dân rốt cuộc có quyền gì mà lại có thể quyết đinh sống
chết của hàng vạn người dân vô tội như thế?Những người dân bản xứ rốt cuộc
cũng chỉ là vật hi sinh cho bạn cai trị thực dân. Đó chính là kiếp khổ đau của
thân phận những người nô lệ. Tác giả đã vạch trần bộ mặt bỉ ổi của chủ nghĩa
thực dân phản ánh số phận thảm thương của người dân thuộc địa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

tiền ra. Đối với những người bị bắt đi lính thì một là họ bỏ trốn hai là tự làm
cho mình nhiễm phải những căn bệnh nặng để không phải đi bởi đi lính đối với
họ cịn đáng sợ hơn cả bệnh tật. Khi đó để giả thích cho vấn đè này thì giọng
điệu của chính phủ tồn quyền cũng rất bịp bợm. Chúng dùng sự hứa h n để
lừa phỉnh người lính như ban phẩm hàm cho người sống sót truy tặng cho


người hi sinh hay dùng những lời lẽ tán dương như "các bạn đã tấp nập đầu
quân đã không ngần ngại rời bỏ quê hương". Tất cả chỉ là những lời nói bịp
bợm lừa phỉnh khi mà thực tế chúng xích trói bắt nhốt và đương nhiên bạo
động nổ ra. Đây chính là những lời lừa dối mị dân. Tác giả mỉa mai những luận
điện chua chát ấy bằng những câu hỏi tu từ đầy sức thuyết phục "Nếu quả thật
người An Nam phấn khởi đi lính như thế tại sao có cảnh tốp thì bị xích tay điều
về tỉnh tốp thì trước khi bị đưa xuống tàu bị nhốt trong một trường trung học ở
Sài Gịn có cả lính gác canh lưỡi lê tuốt trần đạn lên nịng sẵn. Những cuộc
biểu tình đổ máu ở Cao Miên , những vụ bạo động ở Sài Gòn ở Biên Hòa và
nhiều nơi khác nữa phải chăng là những cuộc biểu tình của sốt sắng đầu qn
và khơng ngần ngại". Bác đã lột trần bản chất tham lam và bạo tàn của chúng
đối với người dân thuộc địa. Lập luận của Bác khiến cho tồn quyền Đơng
Dương cứng họng khơng thể trả lời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

giờ chúng tôi không cần đến các anh nữa, cút đi đó sao?". Như vây với lập luận
phản bác mâu thuẫn trào phúng câu hỏi tu từ điệp từ đã cho thấy những hành
động vô nhân đạo tráo trở tàn nhẫn của bọn tay sai đối với nhân dân ta. Chính
quyền thực dân đối xử với những người lính trở về như đối xử với súc vật với
người có tội chứ khơng phải là đối xử với người có cơng đổ máu cho họ. Cách
đối xử ấy là tráo trở đê hèn của một nước luôn vỗ ngực nói mình là mẫu quốc.
Với tư liệu phong phú xác thực giàu hình ảnh giá trị biểu cảm giọng điệu đanh
thép ngòi bút trào phúng sắc sảo châm biếm mỉa mai làm tác phẩm như một lời
tố cáo đanh thép nhất đối với chính quyền Pháp thuộc là địn tấn cơng quyết liệt
đối với chủ nghĩa thực dân. Đoạn trích cũng cho người đọc thấy được bộ mặt
tàn ác nhẫn tâm cuồng thú của bọn thực dân khi dùng những người dân thuộc
địa vô tội làm vật hi sinh cho chúng đồng thời cũng nói lên thân phận thảm hại
nô lệ của những người dân An Nam. Bên cạnh đó tác phẩm cũng cho ta thấy
tấm lịng thương cảm của Bác đối với thân phận những người dân và cũng
khẳng định tài hoa khéo léo trong việc hành văn của Bác.



<b>Bài văn mẫu lớp 8 tham khảo - Mẫu 4</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Đoạn trích Thuế máu được rút trong chương I của “Bản án chế độ thực dân
Pháp. Các tiêu đề trong phần này lần lượt là Chiến tranh và người bản xứ; Chế
độ lính tình nguyện; Kết quả của sự hi sinh. Phần đầu trong văn bản chính là
mục Chiến tranh và người bản xứ. Phần này nói về tình cảnh của những người
An-nam-mít và những người nô lệ da đen phải làm bia đỡ đạn cho bọn thực
dân Pháp và bị đối xử một cách vô cùng tàn nhẫn.


Trước khi có chiến tranh thì những thanh niên bản xứ chỉ là những tên da đen
bẩn thỉu, những tên An-nam-mít bẩn thỉu chỉ biết làm cu li kéo xe tay và ăn đòn
của các quan cai trị da tráng. Nhưng khi chiến tranh vừa bùng nổ, bọn thực dân
đã sử dụng mọi thủ đoạn để lừa bịp và biến họ thành con yêu, bạn hiền của các
quan cai trị. Khơng những thế họ cịn được phong cho danh hiệu chiến sĩ bảo
vệ cơng lí và tự do. Nguyễn Ái Quốc đã rất khéo léo sử dụngthủ pháp tương
phản để vạch trần giọng điệu bịp bợp của bọn thực dân cai trị. Thực chất là bọn
thực dân bắt họ làm bia đỡ đạn, một cách đánh thuế máu vô cùng xảo quyệt.
Các từ ngữ như chiến tranh vui tươi, lập tức họ biến thành, đùng một cái, được
phong cho cái danh hiệu tối cao đã làm cho giọng văn châm biếm trở nên sâu
cay, mỉa mai.


Nguyễn Ái Quốc nêu ra những mất mát đau thương của những thanh niên bản
xứ bị bắt đi làm bia đỡ đạn. Họ phải xa lìa vợ con, phải rời bỏ quê hương,
mảnh ruộng, đàn cừu. Họ đi phơi thây trên các chiến trường châu u. Biết bao
cảnh chết chóc đau thương đã xảy ra. Họ chết vì thủy lơi: được xuống tận đáy
biển để bảo vệ tổ quốc của loài thủy quái; bị bỏ xác tại các vùng hoang vu tận
Ban-căng, để lúc chết còn tự hỏi phải chăng nước m muốn chiếm ngôi nguyên
phi trong cung cấm vua Thổ. Xương máu của họ, cái chết của họ thật vô nghĩa,
hoặc anh dũng đưa tay cho người ta tàn sát trên bờ sơng Mác-nơ, trong bãi lầy
miền Săm-pa-nhơ, hoặc lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế của các cấp


chỉ huy, lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống đốc.
Tác giả đã kết hợp miêu tả với bình luận để mỉa mai, châm biếm cái thuế máu
của bọn thực dân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

nhiễm phải những luồng khí độc đỏ ối. Những kẻ khôn khổ ấy đã khạc ra từng
miếng phổi chẳng khác gì hít phải hơi ngạt vậy Đó là một sự cống hiến rùng
rợn của người dân bản xứ đối với chiến tranh.


Những con sốdưới ngòi bút của Nguyễn Ái Quốc thật sự có ý nghĩa. Bảy mươi
vạn người ra đi thì có đến 8 vạn người khơng bao giờ cịn trơng thấy mặt trời
trên q hương đất nước mình nữa. Sốphận đau thương và những mất mát của
người bản xứ đã được thể hiện một cách chi tiết qua các sốliệu Nguyễn Ái
Quốc đưa ra.


Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng thành công các thủ pháp nghệ thuật như tương
phản đối lập, kết hợp miêu tả với bình luận, sử dụng sốliệu... đặc biệt là giọng
văn chua cay, châm biếm, mỉa mai để vạch trần và lên án những tội ác của bọn
thực dân.


Trong suốt 80 năm thông trị nước ta, thực dân Pháp đã đặt ra hàng trăm thứ
thuế vơ lí nhằm bóc lột dân ta đến tận xương tuỷ. Khi đọc đoạn trích Thuế máu
chúng ta được biết thêm một loại thuế có một khơng hai mà bọn thực dân đặt
lên đầu nhân dân ta.


<b>Bài văn mẫu lớp 8 tham khảo - Mẫu 5</b>



Bản án chế độ thực dân Pháp của lãnh tụ cách mạng Nguyễn Ái Quốc được viết
bằng tiếng Pháp, xuất bản tại Pa-ri năm 1925 và xuất bản lần đầu tiên ở Việt
Nam năm 194m. Tác phẩm gồm 12 chương và phần phụ lục có tựa đề Gửi
thanh niên Việt Nam, nội dung tố cáo và kết án tội ác tày trời của chủ nghĩa


thực dân Pháp trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... đồng thời
phản ánh tình cảnh tủi nhục khốn cùng của người dân nơ lệ ở các xứ thuộc địa
trên thế giới. Từ đó, bước đầu tác giả vạch ra đường lối đấu tranh cách mạng
đúng đắn để các dân tộc tự giải phóng, giành quyền độc lập.


Sự ra đời của Bản án chế độ thực dân Pháp đã giáng một địn tiến cơng quyết
liệt vào chủ nghĩa thực dân ngay tại sào huyệt của chúng và chỉ ra con đường
cách mạng cùng tương lai tjk ươi sáng cho các dân tộc bị áp bức.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

khổ. Làn sóng cách mạng giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi dâng lên ngày
càng mạnh mẽ.


Đại chiến thế giới lần thứ nhất 1914 1918 mà Nguyễn Ái Quốc mỉa mai gọi
là cuộc chiến tranh vui tươi thực chất là cuộc xung đột ác liệt giữa các đế quốc
để tranh giành ảnh hưởng và quyền lợi. Nó đẩy nhân dân lao động ở các nước
tư bản và dân chúng nghèo khổ ở thuộc địa vào lò lửa chiến tranh thảm khốc.
Bản án chế độ thực dận Pháp là tác phẩm được Nguyễn Ái Quốc dành nhiều
thời gian và cơng sức để hồn thành. Mỗi chương của tác phẩm viết về một chủ
đề và tất cả hợp thành bản cáo trạng phong phú, đanh thép về tội ác tày trời của
chủ nghĩa thực dân, về cuộc sống khốn cùng của người dân các xứ thuộc địa.
Với thiên phóng sự điều tra này, lần đầu tiên trên thế giới, chế độ thực dân bị
lên án một cách tồn diện, cụ thể, chính xác và có hệ thống.


Bản án chế độ thực dân Pháp thể hiện lòng căm thù mãnh liệt những thế lực
thống trị tàn bạo, đồng thời bày tỏ tình yêu thương thắm thiết những kiếp người
nơ lệ nghèo khổ, phản ánh ý chí chiến đấu giành độc lập, tự do cho các dân tộc
thuộc địa của Nguyễn Ái Quốc. Đồng thời tác phẩm cũng thể hiện tài năng văn
chương của tác giả qua nghệ thuật trào phúng, đả kích sắc sảo.


Thuế máu là chương đầu tiên của Bản án chế độ thực dân Pháp, ở chương này,


tác giả tập trung vạch trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa và các thủ đoạn tàn bạo
của thực dân Pháp trong việc dùng người dân thuộc địa làm vật hi sinh trong
các cuộc chiến tranh thảm khốc để mang lại quyền lợi cho nước Pháp. Lợi
dụng xương máu của những con người nghèo khổ để làm giàu, đó là một trong
những tội ác ghê tởm nhất của chủ nghĩa thực dân.


Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần bản chất xấu xa ấy bằng những lập luận chặt chẽ
và tư liệu phong phú, xác thực, nhiều hình ảnh giàu giá trị biểu cảm. Giọng
điệu chung của bài văn là vừa kết án đanh thép vừa mỉa mai chua chát, vừa
thông cảm, xót thương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

bất cơng, vơ lí, song có lẽ một trong những thứ thuế tàn ác, dã man nhất là thứ
thuế thu bằng xương máu và tính mạng của họ.


Trình tự và cách đặt tên các phần trong chương Thuế máu cũng hàm ý bóc trần
các chính sách lừa bịp để bóc lột người dân thuộc địa đến tận xương tủy của
chính quyền thực dân cai trị. Từ Chiến tranh và người bản xứ đến Chế độ lính
tình nguyện rồi Kết quả của sự hi sinh, qua các phần tiếp nối nhau như thế,
Nguyễn Ái Quốc đã từng bước phơi bày bản chất "ăn thịt người" của bè lũ thực
dân.


Phần một: Chiến tranh và người bản xứ.


Ở phần này, tác giả nêu bật sự đối lập trong thái độ của các quan cai trị thực
dân đối với người dân thuộc địa ở hai thời điểm: trước khi xảy ra chiến tranh và
khi chiến tranh vừa bùng nổ.


Trước chiến tranh, người dân thuộc địa bị bọn thực dân cai trị coi là giống
người hạ đẳng, ngang hàng với súc vật: ... họ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu,
những tên "An-nam-mít" bẩn thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn


đòn của các quan cai trị nhà ta. y thế mà cuộc chiến tranh vui tươi vừa bùng
nổ, bọn thực dân cần lính, cần người tham gia chiến tranh thì lập tức họ biến
thành những đứa "con yêu", những người "bạn hiền" của các quan cai trị phụ
mẫu nhân hậu, thậm chí của cả các quan toàn quyền lớn, toàn quyền bé nữa.
Đùng một cái, họ những người bản xứ được phong cho cái danh hiệu tối cao
là "chiến sĩ bảo vệ cơng lí và tự do".


Tác giả đưa ra hai thái độ trái ngược hoàn toàn ấy nhằm tố cáo thủ đoạn lừa bịp
bỉ ổi của chính quyền thực dân trong việc biến dân thuộc địa thành vật hi sinh.
Luận điệu bịp bợm trơ trẽn của chúng được Nguyễn Ái Quốc nhắc lại với dụng
ý châm biếm và đả kích sâu cay.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Tác giả đã kể ra bao cái chết thảm thương của người lính thuộc địa trên khắp
các chiến trường miền Nam nước Pháp bằng giọng văn trào lộng nhưng chất
chứa cảm xúc xót xa, ngậm ngùi:


Trong lúc vượt biển, nhiều người bản xứ, sau khi được mời chứng kiến cảnh kì
diệu của trị biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi, đã được xuống tận đáy biển
để bảo vệ tổ quốc của các loài thủy quái. Một số khác đã bỏ xác tại những miền
hoang vu thơ mộng vùng Ban-căng... Một số khác nữa thì anh dũng đưa thân
cho người ta tàn sát trên bờ sông Mác-nơ, hoặc trong bãi lầy miền


Săm-pa-nhơ...


Nhiều người dân thuộc địa tuy không phải ra trận nhưng ở hậu phương, họ bị
bắt buộc làm cơng việc rất nguy hiểm là chế tạo vũ khí phục vụ chiến tranh:
Làm kiệt sức trong các xưởng thuốc súng ghê tởm, tuy khơng phải hít hơi ngạt
của bọn "bơ-sơ", nhưng lại nhiễm phải những luồng khí độc đỏ ối của người
Pháp; Họ cũng hứng chịu bệnh tật và những cái chết đau đớn, vì những kẻ
khốn khổ ấy cũng đã khạc ra từng miếng phổi, chẳng khác gì hít phải hơi ngạt


vậy.


Tác giả đã nêu ra một con số khủng khiếp về số người bản xứ đã bỏ mình trơn
đất Pháp trong mấy năm chiến tranh thế giới thứ nhất: Tổng cộng cố bảy mươi
vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, tám vạn người
khơng bao giờ cịn trơng thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa.
Phần hai: Chế độ lính tình nguyện.


Ở phần này, tác giả vạch trần các mánh khóe và thủ đoạn bắt lính của bọn thực
dân. Có thật là người dân thuộc địa tình nguyện hiến dâng xương máu cho
"nước m Đại Pháp" như lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền hay không? Tác
giả kể rằng:


Một bạn đồng nghiệp nói với chúng tơi: Dân lao khổ bản xứ ở Đông Dương từ
bao đời nay bị bóp nặn bằng đủ mọi thứ thuế khóa, sưu sai, tạp dịch, bằng
cưỡng bức phải mua rượu và thuốc phiện theo lệnh quan trên, từ 1915 191m
tới nay, lại còn phải chịu thêm cái vạ mộ lính nữa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

đều bị nhốt vào trại lính với đủ thứ tên: lính khố đỏ, lính thợ chun nghiệp,
lính thợ khơng chun nghiệp,... Bọn thực dân coi lính thuộc địa khơng phải là
người mà chỉ là thứ vật liệu biết nói. Cách gọi đó tự nó đã có tác dụng tố cáo
mạnh mẽ bản chất dối trá, lừa bịp và dã man của chính quyền thực dân. Những
viên cơng sứ Pháp đứng đầu một tỉnh cùng bọn quan lại dưới quyền tiến hành
vây bắt và cưỡng bức người dân phải đi lính, lợi dụng chuyện bắt lính để dọa
nạt, xoay xở kiếm tiền đối với những nhà giàu:


Thoạt tiên, chúng tóm những người khỏe mạnh, nghèo khổ những người này
chỉ chịu chết thơi khơng cịn kêu cứu vào đâu được. Sau đó, chúng mới đòi đến
con cái nhà giàu. Những ai cứng cổ thì chúng tìm ngay ra dịp để sinh chuyện
với họ hoặc với gia đình họ, và nếu cần, thì giam cổ họ lại cho đến khi họ phải


dứt khoát chọn lấy một trong hai con đường: "đi lính tình nguyện, hoặc xì tiền
ra".


Chúng sẵn sàng trói, xích, nhốt người ta như nhốt súc vật và đàn áp dã man nếu
như dám chống đối. Tác giả đã kể ra sự thực phũ phàng là người dân thuộc địa
chỉ có hai con đường: hoặc trốn tránh hoặc phải xì tiền ra. Thậm chí họ cịn tìm
cách tự làm cho mình nhiễm phải những căn bệnh nặng nhất để khỏi phải đi
lính.


Trong khi làm những điều độc ác như đã kể trên, chính quyền thực dân vẫn
khơng ngừng rêu rao về tinh thần tình nguyện đầu quân của người dân thuộc
địa. Lời tun bố trịnh trọng của phủ tồn quyền Đơng Dường chỉ làm bộc lộ
r thêm thủ đoạn lừa bịp trơ trẽn ấy:


y thế mà trong một bản bố cáo với những người bị bắt lính, phủ tồn quyền
Đơng Dương, sau khi hứa h n ban phẩm hàm cho những lính sẽ cịn sống sót
và truy tặng những người sẽ hi sinh "cho tổ quốc", đã trịnh trọng tuyên bố rằng:
"Các bạn đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê hương
xiết bao trìu mến để người thì hiến xương máu của mình như lính khố đỏ, kẻ
thì hiến dâng cánh tay lao động của mình như lính thợ".


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

trường trung học ở Sài Gịn, có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần, đạn lên
nịng sẵn? Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miên, những vụ bạo động ở Sài
Gòn, ở Biên Hòa và nhiều nơi khác nữa, phải chăng là những biểu hiện của
lòng sốt sắng đầu quân "tấp nập" và "khơng ngần ngại"?


Trong phần Chế độ lính tình nguyện, tác giả đã đưa ra hàng loạt dẫn chứng
thực tố đối lập hoàn toàn với luận điệu bịp bợm của bọn thực dân cầm quyền để
lột trần bản chất tham lam và tàn bạo của chúng trong chính sách cai trị đối với
người dân thuộc địa.



Phần ba: Kết quả của sự hi sinh.


Kết quả sự hi sinh của người lính thuộc địa trong các cuộc chiến tranh và cách
đối xử của chính quyền thực dân sau khi đã bóc lột xương máu họ đã được tác
giả miêu tả bằng những hình ảnh, chỉ tiết tiêu biểu có sức tố cáo rất lớn:
Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng rồi, thì những lời tuyên bố tình tứ của
các ngài cầm quyển nhà ta bỗng dưng im bặt như có phép lạ, và cả người
Nê-gơ-rơ" lẫn người "An nam-mít" mặc nhiên trở lại "giống người bẩn thỉu".
Để ghi nhớ công lao người lính An Nam, chẳng phải người ta đã lột hết tất cả
của cải của họ, từ chiếc đồng hồ, bộ quần áo mới toanh mà họ bỏ tiền túi ra
mua, đến các vật kỉ niệm đủ thứ,... trước khi đưa họ đến Mác-xây xuống tàu về
nước đó sao? Chẳng phải người ta đã giao họ cho bọn súc sinh kiểm sốt và
đánh đập họ vơ cớ đó sao? Chẳng phải người ta đã cho họ ăn như cho lợn ăn và
xếp họ như xếp lợn dưới hầm tàu ẩm ướt, khơng giường nằm, khơng ánh sáng,
thiếu khơng khí đó sao ? về đến xứ sở, chẳng phải họ đã được một quan cai trị
biết ơn đón chào nồng nhiệt bằng một bài diễn văn yêu nước: "Các anh đã bảo
vệ Tổ quốc, thế là tốt. Bây giờ, chúng tôi khơng cần đến các anh nữa, cút
đi "đó sao?


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

Đối với người dân thuộc địa, sự hi sinh cho chính nghĩa và cơng lí như lời rêu
rao đối trá của lũ thực dân chẳng hề mang lại lợi ích gì cho họ bởi chế độ bản
xứ là chế độ khơng hề biết đến chính nghĩa và cơng lí.


Bộ mặt tráo trở của chính quyền thực dân bộc lộ trắng trợn qua những hành
động vô nhân đạo: tước đoạt hết của cải mà người lính thuộc địa mua sắm được,
đánh đập họ vô cớ, đối xử với họ thô bỉ như đối với súc vật. Sau chiến tranh,
người dân thuộc địa trở về vị trí hèn hạ ban đầu:


Thế là những "cựu binh" đúng hơn là cái xác còn lại sau khi đã dũng cảm


bảo vệ chính nghĩa và cơng lí nay tay khơng trở về với chế độ bản xứ của họ,
một,chế độ khơng biết gì đến chính nghĩa và cơng lí cả.


Ba phần của chương Thuế máu được sắp xếp theo trình tự thời gian trước,
trong và sau khi xảy ra cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất 1914 1918. Với
cách sắp xếp này, bộ mặt giả nhân giả nghĩa và bản chất độc ác của chính
quyền thực dân Pháp xung quanh việc bóc lột xương máu được phơi bày toàn
diện, triệt để. Mặt khác, thân phận thảm thương của người dân nô lệ các xứ
thuộc địa cũng được phản ánh một cách chân thực và sinh động.


Nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo của ngịi bút Nguyễn Ái Quốc thể hiện
chủ yếu qua hệ thống hình ảnh chọn lọc, tiêu biểu, những từ ngữ giàu khả năng
gợi tả, gợi cảm và chất chứa sức mạnh tố cáo tội ác tày trời của chủ nghĩa thực
dân.


Ngôn ngữ tác phẩm mang màu sắc trào phúng rất r nét. Những từ mỉa mai như;
"con yêu", "chiến sĩ bảo vệ cơng lí và tự do", "lấy máu mình tưới những vịng
nguyệt quế", "lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống
chế", "vật liệu biết nói..." vừa phơi bày bản chất dã man của chủ nghĩa thực dân,
vừa tô đậm số phận bi thảm của người dân thuộc địa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

lấy từ thực tế nên không thể chối cãi. Để tăng tính thuyết phục của lí lẽ, khi cần,
tác giả còn dẫn ra ý kiến của người khác hay của chính đối tượng bị đả kích.
Từ hệ thống hình ảnh và giọng điệu chung của tác phẩm, người đọc nhận ra
thái độ yêu ghét r ràng của tác giả: căm phẫn chính quyền thực dân tàn ác và
xót xa thương cảm cho thân phận người dân nơ lệ của các nước thuộc địa bị
bóc lột đến cả xương máu, tính mạng.


</div>

<!--links-->

×