Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

LÍ LUẬN CHUNG VỀ HUY ĐỘNG VỐN VÀ HIỆU QUẢ HUY ĐÔNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.86 KB, 28 trang )

LÍ LUẬN CHUNG VỀ HUY ĐỘNG VỐN VÀ HIỆU QUẢ HUY ĐÔNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ( NHTM).
1.1.1. Sơ lược về NHTM:
Ngân hàng ( NH ) là một trong những tổ chức tài chính quan trọng bậc nhất trong
nền kinh tế. NH là tổ chức thu hút tiền tiết kiệm lớn nhất trong nền kinh tế. NH dóng
vai trò là người thủ quỹ cho toàn xã hội. Thu nhập từ NH là nguồn thu nhập không phải
là nhỏ đối với nhiều hộ gia đình. NH là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các tổ chức
kinh tế, các cá nhân và cả nhà nước. Bên cạnh đó NH còn đóng một vai trò quan trọng
trong nền kinh tế, đó là thông qua việc điều chỉnh hoạt động của NH mà Chính phủ
thực hiện được các chính sách tài chính tiền tệ, nhằm bình ổn nền kinh tế hay điều tiết
lượng tiền lưu thông. Nếu tiếp cận theo những dịch vụ mà NH cung cấp, thì NH là các
tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là
tín dụng, tiết kiệm, thanh toán và thực hiện nhiếu chức năng tài chính nhất so với bất cứ
tổ chức nào trong nền kinh tế. Trong điều kiện nền kinh tế toàn cầu phát triển mạnh mẽ
như hiện nay đã kéo theo sự phát triển như vũ bão của hệ thống NH, cả về quy mô và
chất lượng. Tuỳ theo sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói
riêng mà kết cấu của hệ thống NH khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết tất cả các nước thì
NHTM thường chiếm tỉ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các NH.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và công nghệ, hoạt động của NH đã có những
bước tiến rất nhanh. Trước hết đó là sự đa dạng các loại hình NH và các hoạt động NH.
Từ các NH tư nhân, quá trình tích tụ và tập trung vốn trong NH đã dẫn đến hình thành
NH cổ phần. Quá trình gia tăng vai trò quản lí của Nhà nước đối với hoạt động NH đã
tạo ra các NH thuộc sở hữu Nhà nước, các NH liên doanh, các tập đoàn NH phát triển
mạnh trong những năm cuối thế kỉ 20. Nhiều nghiệp vụ mới được ra đời và phát triển
song song với các nghiệp vụ truyền thống của NH. NHTM từ chỗ chỉ cho vay ngắn hạn
là chủ yếu dã mở rộng cho vay trung và dài hạn, cho vay đầu tư vào bất động sản.
Nhiều NH mở rộng cho vay tiêu dung, kinh doanh chứng khoán và cho thuê…Bên cạnh
đó các hình thức huy động cũng ngày càng phong phú hơn. Các loại hình tiền gửi khác
nhau được đưa ra nhằm đáp ứng nhu cầu khác nhau của khách hàng. Bên cạnh các hình
thức huy động tiền gửi, các NH còn mở rộng các hình thức cho vay như vay NHTW,


vay các tổ chức tín dụng khác. Công nghệ khoa học hiện đại đang ngày càng tạo nên bộ
mặt mới lạ: hiện đại và chuyên nghiệp cho hệ thống NH. Thanh toán điển tử đang thay
thế dần thanh toán thủ công, đảm bảo khả năng đáp ứng về thời gian cũng như độ an
toàn ngày càng cao. Các loại thể đang thay thế dần tiền giấy, NH 24 giờ hay NH phục
vụ tại nhà đang ngày càng tạo lợi ích cho công chúng cũng như đa dạng hoá hoạt động
của NH nhằm tăng doanh thu và lợi nhuận cho NH.
Các hoạt động cơ bản của một NHTM bao gồm:
 Mua bán ngoại tệ: NH sẽ là người đứng ra mua bán một loại tiền này và lấy một
loại tiền khác để hưởng phí dịch vụ.
 Nhận tiền gửi: Các NH luôn cố gắng huy động được một lượng tiền gửi lớn vì
cho vay luôn là một hoạt động sinh lời cao. Lượng tiền huy động được lớn thì sẽ đa
dạng hoá được loại hình cho vay. NH nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với
cam kết hoàn trả đúng hạn. Song song với quá trình chạy đua huy động tiền gửi giữa
các NH là quá trình chạy đua lãi suất. Bởi lãi suất chính là khoản mà NH dành trả cho
khách hàng về việc khách hàng đã hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt để nhường lại
quyền sự dụng số tiền của mình vào việc kinh doanh.
 Cho vay: Gồm có cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng và tài trợ cho dự án.
Trong đó cho vay thương mại là một hoạt động truyền thống trong các NH và thường
chiếm tỉ trọng lớn trong các khoản cho vay. Trong giai đoạn đầu hầu hết các NH ít cho
vay tiêu dùng vì họ nghĩ rằng rủi ro vỡ nợ cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu
dùng và sự cạnh tranh gay gắt giữa các tổ chức tín dụng đã buộc các NH phải hướng tới
người tiêu dùng như một khách hàng tiềm năng. Bên cạnh việc cho vay truyền thống là
cho vay ngắn hạn. Các NH ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho xây dựng
nhà máy mới đặc biệt là trong nghành công nghệ cao. Dù rủi ro trong lĩnh vực tài trợ
cho dự án là tương đối cao song lãi suất lại lớn nên nhiều NH vẫn cho vay để đầu tư
vao đất.
 Bảo quản vật có giá: Các NH thực hiện lưu giữ vàng và các vật có giá khác tại kho
bảo quản. NH giữ vàng và giao cho khách hàng tờ giấy biên nhận ( giấy chứng nhận do
NH phát hành ). Do khả năng chi trả bất cứ lúc nào của giấy chứng nhận nên giấy
chứng nhận được sự dụng như tiền – dùng để thanh toán các khoản nợ trong phạm vi

của NH phát hành. Lợi ích của việc dùng giấy tờ trong trao đổi thay cho dùng kim loại
đã khuyến khích mọi người gửi vàng và vật có giá vào NH.
 Cung cấp các khoản giao dịch và thực hiện thanh toán: Thanh toán qua NH chính
là hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. NH sẽ là trung gian của hình thức thanh
toán này, người trả tiền và người nhận tiền không cần trực tiếp gặp nhau mà thông qua
NH để trả tiền và nhận tiền.Các tiện ích của việc thanh toán không dùng tiền mặt ( an
toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí ) đã góp phần thúc đẩy sự phát triển
trong thương mại và tài chính. Và cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin nhiều
hình thức thanh toán mới đã được sự dụng một cách có hiệu quả như: Uỷ nhiệm chi,
nhờ thu, L/C, thanh toán bằng điện, thẻ…
 Quản lý ngân quỹ: các NH mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các cá nhân và
tổ chức kinh tế. Nhiều NH đã cung cấp dịch vụ ngân quỹ , trong đó NH đồng ý quản lí
việc thu chi cho tổ chức kinh tế và tiến hành đầu tư phần thẳng dư tiền mặt tạm thời vào
chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để
thanh toán.
 Tài trợ các hoạt động của Chính phủ: Với chức năng nổi trội và vai trò quan trọng
trong nền kinh tế, hệ thống NH cũng chính là một phương tiện để Chính phủ đạt được
các mục đích vi mô và vĩ mô. Trong thực tế các NH tư nhân không muốn tài trợ cho các
khoản vay của Chính phủ vì độ rủi ro cao, nên khi NH Nhà nước thành lập Chính phủ
đã luôn cố gắng can thiệp vào các khoản tín dụng lớn của các NH. Hiện nay thì Chính
phủ dành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các NH. Các NH được thành lập và
hoạt động khi cam kết thực hiện mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ
cho Chính phủ. Các NH phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỉ lệ nhất định trên
tổng tiền gửi mà NH huy động được, hay phải cho vay với điều kiện ưu đãi với các
doanh nghiệp của Chính phủ.
 Bảo lãnh: Trong những năm gần đây nghiệp vụ bảo lãnh phát triển mạnh. NH
thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua hàng hoá và trang thiết bị, phát hành
chứng khoán và vay vốn của tổ chức tín dụng khác.
 Cho thuê thiết bị trung và dài hạn.
 Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn: Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác

vay hộ, uỷ thác cho vay hộ. uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư… Thậm chí các NH còn
đóng vai trò là người được uỷ thác trong di chúc, quản lí tài sản cho khách hàng đã qua
đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản tài sản có giá. Bên cạnh đó NH còn là những
chuyên gia trong việc tư vấn về đầu tư, quản lí tài chính, sáp nhập doanh nghiệp.
 Cung cấp các dịch vụ môi giới và đầu tư chứng khoán: Trong điều kiện thị trường
chứng khoán phát triển mạnh mẽ như hiện nay, việc các NH đứng ra lập các công ty
chứng khoán là một điều dễ hiểu, nhằm đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng mà không
cần đến những người kinh doanh chứng khoán.
 Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm.
 Cung cấp các dịch vụ đại lí.
Như vậy cùng với những hoạt động cơ bản đó đã giúp cho việc tồn tại của NH
dường như là một phần tất yếu trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi cá nhân hay tổ
chức kinh tế. Quá trình phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính mà đặc biệt là hệ
thống NH không những làm gia tăng số lượng các NH mà còn làm tăng quy mô của mỗi
NH . Quá trình đó đã tạo ra mối quan hệ ràng buộc ngày càng chặt chẽ, sự phụ thuộc
lẫn nhau ngày càng lớn giữa các NH, giữa các cá nhân, tổ chức kinh tế trong xã hội với
các NH.
1.1.2 Khái niệm về huy động vốn của NHTM.
Nghiệp vụ tạo nên nguồn vốn hoạt động của NH gọi là nghiệp vụ nợ. Trong
bảng cân đối tài sản của NHTM thì những khoản mục do nghiệp vụ này tạo nên sẽ nằm
bên tài sản nợ. Hàm ý chỉ đây là những khoản mà NHTM nợ nền kinh tế.
Đây là hoạt động đầu tiên để thành lập được NH. Trong quá trình phát triển
của mình NH luôn luôn tìm cách để năng cao hiệu quả của hoạt động này, và các
nghiệp vụ của nó luôn được xen kẽ trong suốt quá trình. Bởi từ thành quả của hoạt động
này mà NH mới có điều kiện để phát triển những hoạt động khác đặc biệt là hoạt động
tín dụng. Những hoạt động khác của NH mà đặc biệt là hoạt động tín dụng đó lại mang
lại phần lớn thu nhập cho NH. Huy động các nguồn vốn khác nhau( tài sản nợ ) trong xã
hội để hoạt động là lẽ sống quan trọng nhất của NHTM. Với sự phát triển mạnh của thị
trường tài chính, đã có nhiều loại tài sẩn với lợi tức ổn định, độ thanh khoản cao, tài sản
nợ rất đa dạng làm cho việc tìm kiếm vốn hoạt động của NHTM trở thành sự cạnh tranh

khốc liệt. Bên cạnh đó vấn đề luôn đặt ra đối với các NH đó làm thế nào để đủ vốn cho
đầu tư trong môi trường cạnh tranh đầy kịch tính. NHTM phải cạnh tranh với NH khác,
với các tổ chức tài chính khác, với các nghiệp vụ thị trường trực tiếp và với bất cứ tổ
chức nào khác muốn thu hút một lượng vốn nào đó.
Ngày nay tài sản nợ của NHTM tập trung vào các nhóm chủ yếu sau:
 Vốn pháp định hay vốn điều lệ.
 Tiền gửi không kì hạn.
 Tiền gửi có kì hạn và tiết kiệm.
 Các khoản vay trên thị trường tiền tệ.
 Các khoản vay NH khác hoặc NH Trung Ương.
1.1.3 Nguồn hình thành nên vốn của NHTM.
1.1.3.1 Vốn chủ sở hữu.
Điều kiện bắt buộc để NH được phép thành lập và đi vào hoạt động đó là đủ vốn
ban đầu theo luật định. Vốn pháp định là vốn đầu tư ban đầu khi thành lập NH và được
ghi trong điều lệ hoạt động của NHTM. Vốn điều lệ ít nhất phải bằng mức vốn pháp
định do NHNN công bố vào mỗi năm tài chính.Vốn pháp định được hình thành dựa vao
tính chất sở hữu của NH. Cụ thể:
 Nếu là NHTM thuộc sở hữu nhà nước, vốn pháp định do nhà nước cấp 100% vốn
ban đầu.
 Nếu là NHTM cổ phần vốn pháp định là vốn góp của các cổ đông dưới hình thức
phát hành cổ phiếu.
 Nếu là NHTM liên doanh, vốn pháp định là vốn góp của các NH tham gia liên
doanh.
Vốn pháp định nhiều hay ít tuỳ thuộc vào quy mô hoạt động của mỗi NH. Tuy
nhiên trong quá trình hoạt động vốn điều lệ sẽ được bổ sung thêm từ: huy động thêm
vốn từ các cổ đông, ngân sách cấp, lợi nhuận bổ sung…Nguồn vốn này chủ yếu dùng
để mua sắm bất động sản, động sản, trang thiết bị… cho hoạt động NH tuy nhiên với
mục tiêu đa dạng hoá hoạt động cũng như cố gắng mang lại ngày càng nhiều lợi nhuận
thì lượng vốn bổ sung thêm này còn được dùng để góp vốn liên doanh, cho vay, mua cổ
phần của công ty khác. Theo quy định thì không được dùng vốn điều lệ để chia lợi tức,

lập quỹ khen thưởng. Như vậy đến khi NH hoạt động vốn điều lệ không chỉ là một phần
lượng tiền mặt tại quỹ của NH mà có thể đã nằm dưới dạng trụ sở, văn phòng, kho bãi,
xe cộ trang thiết bị, dự trữ hay kí quỹ tại NHTW, hay đầu tư vào một lĩnh vực nào đó.
Ngoài vốn điều lệ NHTM còn các quỹ buộc phải trích lập trong quá trình hoạt
động của mỗi NH đó là quỹ dự trữ NH. Cụ thể như: quỹ phát triển kĩ thuật, quỹ khấu
hao tài sản cố định, quỹ bảo toàn vốn, quỹ phúc lợi…
Các quỹ dự trữ của NH được hình thành từ nguồn vốn tự có và bổ sung hàng năm
từ lợi nhuận ròng của NH. Theo quy định về việc trích lập các quỹ từ lợi nhuận. Thông
thường NHTM phải trích lập các quỹ:
 Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: phần trích lập mỗi năm có thể khác nhau do hàng
năm thì một số % nhất định tới mức tối đa của lợi nhuận sau thuế được bổ sung vào
quỹ. Tỉ lệ trích lập này do NHTW quy định.
 Quỹ dự phòng bù đắp rủi ro: Nhằm phòng trường hợp rủi ro có thể xẩy ra dẫn đến
hiện tượng vốn có thể bị ăn mòn và bù đắp những thiệt hại đã xẩy ra thì các NHTM đã
trích từ lợi nhuận hàng năm để lập quỹ dự phòng bù đắp rủi ro. Quỹ này được trích theo
% từ lợi nhuận hàng năm tuy nhiên theo quy định thì quỹ đạt mức tối đa khi bằng vốn
điều lệ.
Theo quy định thì hai quỹ trên bắt buộc phải trích lập tại các NH, các NH
không được dùng quỹ này để trả lợi tức cổ phần hay chuyển ra nước ngoài.
Mặt khác, với tư cách là một đơn vị kinh doanh, NH còn tiến hành trích lập các
quỹ phúc lợi từ lợi nhuận thu được: quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ NH, quỹ phúc lợi
khen thưởng, hội cổ đông hoặc theo chỉ đạo của Nhà nước.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của TTCK, ngày càng nhiều NHTM xin phép
được phát hành cổ phiếu mới để nhằm tăng nguồn huy động. Kỳ vọng vào lợi nhuận
ròng của NH mà việc phát hành cổ phiếu mới của NH thường đựoc sự ủng hộ mạnh mẽ
từ phía những cá nhân cũng như tổ chức khác trong nền kinh tế.
1.1.3.2 Nguồn nợ.
1.1.3.2.1 Tiền gửi.
 Tiền gửi thanh toán ( TGTT ): Một chức năng nổi bật và hiệu quả của NHTM đó
là chức năng trung gian thanh toán. Thông qua NH mà người bán và người mua có thể

trả tiền cho nhau nhằm hạn chế chi phí và thời gian. Tuy nhiên để có thể sự dụng hoạt
động thu hộ chi hộ của NH thì khách hàng cần NH phục vụ cần có một khoản tiền nhất
định gửi tại NH làm cơ sở đảm bảo để thực hiện các giao dịch mà khách hàng yêu cầu.
Lượng tiền đó gọi là tiền gửi thanh toán. Trong một giới hạn nhất định, các nhu cầu chi
trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được NH thực hiện. Tuy nhiên TGTT là một
khoản nợ mà NH phải trả cho khách hàng gửi tiền bất cứ lúc nào họ yêu cầu, nếu chậm
trễ hoặc không đủ coi như NH vi phạm thoả thuận và phải chịu phạt theo quy định của
luật pháp. Trong quá trình hoạt động của mình NH có thể sự dụng TGTT để cho vay,
tuy nhiên cho vay phải có mức độ, phải có dự trữ, đề phòng trường hợp rủi ro mất khả
năng thanh khoản khi khách hàng yêu cầu. Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp
và cá nhân có thể được nhập vào tài khoản thanh toán nếu có yêu cầu. Vì khách hàng
được sự dụng dịch vụ thanh toán của NH với một mức phí thấp nên lãi suất đối với loại
tiền gửi này thấp ( có thể bằng không ). NH mở tài khoản TGTT( tài khoản có thể phát
sec ) cho khách hàng. Hiện nay hầu hết các NH sự dụng kết hợp tài khoản TGTT và cho
vay ( hoạt động thấu chi ) vừa đáp ứng nhu cầu chi tiêu của khách hàng vừa năng cao
hoạt động tín dụng của NH. Với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường các
NH đã sự dụng nhiều hình thức khách nhau nhằm tăng lãi suất của loại tiền gửi này
năng cao hiệu quả huy động tiền gửi. TGTT được thể hiện ở NH trên 2 loại tài khoản:
+ Tài khoản TGTT ( hay còn gọi là tài khoản giao dịch hoặc sec ), tài khoản này
dư có, khách hàng chỉ được sự dụng trong phạm vi tiền của mình. Tài khoản séc hay tài
khoản thanh toán hiện nay ở Việt Nam gồm có tài khoản thanh toán cho các doanh
nghiệp và tài khoản thanh toán cho các cá nhân.
+ Tài khoản vãng lai: tài khoản này có thể dư có hoặc dư nợ, nghĩa là khách hàng
ngoài việc sự dụng số tiền gửi của mình còn được dùng khoản tiền do NH cho vay theo
sự thoả thuận trước giữa NH và khách hàng.
Trong việc sử dụng TGTT khách hàng thường dùng các công cụ thanh toán như
chi trả séc, lệnh chuyển tiền…
 Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp và các tổ chức dân cư ( TGCKH ): TGCKH
nhằm đáp ứng nhu cầu chi trả trong tương lai của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh
tế. TGTT tuy thuận tiện nhưng lãi suất lại thấp nên nhằm đáp ứng nhu cầu gửi tiền và

tăng thu nhập của khách hàng NH đã đưa ra hình thức gửi tiền có kì hạn. Tuy nhiên với
loại tiền gửi này thì người gửi không được sự dụng các dịch vụ thanh toán như đối với
TGTT. Thông thường kì hạn TG càng dài thì lãi suất càng cao vì NH có thể dùng
TGCKH này đem đầu tư vào những dịch vụ sản suất có tính lâu dài hơn, lợi tức cao hơn
và cố định hơn. Lãi suất mà NH trả cho TGCKH thường là cao hơn lãi suất của TGKH.
Hiện nay NH Việt Nam đang áp dụng hai loại tiền gửi đinh kì, đó là: TGCKH theo tài
khoản va TGCKH dưới hình thức phát hành kì phiếu NH.
 Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Hiện nay với thu nhập cao những điều kiện sống cơ
bản đã được đảm bảo thì phần lớn người dân đều có khoản thu nhập tạm thời chưa dùng
đến ( các khoản tiết kiệm ). Trong điều kiện NH trở nên quen thuộc và gần gũi với mọi
nhà và mọi người thì họ đều có thể gửi tiết kiệm với mục tiêu an toàn và sinh lợi mà
đặc biệt là mục tiêu an toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền gửi tiết kiệm, các NH
đều khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở
rộng mạng lưới huy động , đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh
hấp dẫn. NH có thể đa dạng hoá về chương mục tiết kiệm, sổ tiết kiệm mở cho mỗi
người cho mỗi kì hạn và mỗi lần gửi khác nhau. Sổ tiết kiệm nay không dùng để thanh
toán tiền hàng và dịch vụ song có thể thế chấp để vay vốn nếu được NH cho phép.
 Tiền gửi của các NH khác: Loại tiên gửi này được hình thành chủ yếu dựa trên
nhu mục đích thanh toán hộ và một số mục đích khác, đó là việc mà NHTM này gửi
tiền tại NHTM khác. Tuy nhiên loại tiền gửi này thường không lớn vì thông thường thì
các NH luôn cần một lượng vốn lớn để đầu tư để thu lại lợi nhuận.
1.1.3.2.2. Nguồn vay.
 Vay NHTW: NHTM phải cho vay tới mức mà NHTW cho phép để tối đa hoá lợi
nhuận. Tuy nhiên không phải lúc nào hoạt động của NH cũng thuận lợi, NH nào cũng
có nguy cơ phải đối mặt với tình trạng thiếu khả năng chi trả và thiếu tiền mặt. NHTW
là ngân hàng của các ngân hàng, là cứu tinh của các NHTM trong các trường hợp kể
trên, là nguồn cho vay sau cùng. Thông thường các NHTM và các tổ chức tài chính
khác trong nước được NHTW cho phép thành lập đều được hưởng quyền vay tiền tại
NHTW cho những tình huống thiếu hụt dữ trữ hoặc quá kẹt vốn. Cho dù NHTW áp
dụng mức lãi suất phạt và lãi suất chiết khấu cao hay thấp thế nào đi nữa, nó vẫn phải

cho các NHTM vay khi họ kẹt thanh khoản để tránh khủng hoảng tài chính không đáng
xẩy ra. Đứng về phía NHTM, vay mựơn tại NHTW là một dịch vụ hết sức tiện lợi và
hào hứng vào những khi nó hạ lãi suất chiết khấu trong chính sách cung ứng tiền nới
lỏng tăng khả năng cho vay và đầu tư. Nững lúc ấy tiền trở nên dồi dào, NHTW thì hào
phóng, rộng rãi các khoản vay của NHTM từ đó mà lớn hơn. Trường hợp ngược lại đó
là trong khi NHTW đang thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát, hay
kìm nén sự phát triển quá mạnh của tín dụng. Lúc đó lãi suất chiết khấu được đưa lên
cao và với những khoản lỗ trông thấy khi vay vốn của NHTW, các NHchỉ miễn cưỡng
vay trong những tình huống bất đắc dĩ và luôn cố gắng để trả nợ nhanh nhất. Những lúc
ấy các khoản vay từ NHTW chỉ chiếm một tỉ trọng nhỏ trong tổng tài sản nơ.
 Dù vay ít hay nhiều, vay thường xuyên hay không thường xuyên, dịch vụ vay NHTW
vẫn là một khoản mục hiển nhiên trong tài khoản nợ, vì khong có NHTM nào mà không
đi vay NHTW bao giờ kể từ khi thành lập. Thời gian vay ngắn hay dài, hiệu quả của
tiền vay cao hay thấp phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu của NHTW và mức tiền vay của
NHTM.
 Đứng về phía NHTW là NH của các NH, NHTW luôn luôn là chủ nợ của hệ thống NH.
Thông qua đó mà NHTW mới dễ dàng kiểm tra, dám sát, điều khiển NHTM. Tuy nhiên
đây cũng là vấn đề dễ bị nhầm lẫn. Tiền đi vào chu trình kinh tế bằng con đường các
NHTM chuyển các hối phiếu và trái phiếu lên NHTW và bị chiết khấu mất phần lãi suất
phải trả cho khoản được vay, qua đó trở thành người nợ của NHTW. Việc NHTW bút
toán khối lượng tiền vào bên nợ trong bảng kế toán của mình thực chất chỉ là phải ghi
theo quy định của kế toán, chứ không làm thay đổi việc phát hành tiền và cho vay có lãi
của NHTW. Vị trí chủ nợ trong hệ thống NH là cần thiết để NHTW có thể điều tiết mở
rộng hay thắt chặt tiền tệ. Chính vì lí do đó, các NHTM không bao giờ được phép gửi
tiền có lãi tại NHTW, vì như thế thì vị trí chủ nợ của NHTW sẽ không còn ý nghĩa nữa.
Nếu các NH gửi tiền tại NHTW, thì đó chỉ là việc dự trữ thuần tuý không có lãi.
NHTW cấp tín dụng cho NHTM qua 2 hình thức chính:
+ Tái chiết khấu ( hoặc chiết khấu ) hay còn gọi là tái cấp vốn.
+ Thế chấp hay ứng trước có đảm bảo hay không đảm bảo.
 Vay ngắn hạn dự trữ tại NHTW: Các NH vay mượn như vậy gọi là vay mượn qua vốn

trung ương để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Để chuẩn bị cho thanh toán bù trừ và
chuyển nhượng lẫn nhau, kể cả quy định dự trữ bắt buộc, tất cả các NHTM phải kí gửi
những khoản tiền mặt nhất định tại kho của NHTW, những khoản tiền này không mang
lại lợi nhuận gì cho NHTM. Trong quá trình hoạt động của mình, có lúc NHTM gặp
tình huống thiếu hụt dự trữ hay quá thiếu hụt tiền mặt. Đây là điều mà bất kì NHTM
nào ở bất cứ nước nào cũng dễ dàng gặp phải. Trong khi một số NHTM thiếu dự trữ thì
cũng có một số NHTM thừa dự trữ. Để đảm bảo dự trữ theo quy định của NHTW, các
NHTM liên lạc vay lẫn nhau dự trữ một ngày là chuyện bình thường. Trong vòng thời
gian ngắn sau ( có thể chỉ vài phút ) NH thừa dự trữ trong ngày hôm đó sẽ viết séc hoặc
gửi điện tín đến chi nhánh NHTW tại địa phương, yêu cầu chuyển một phần dự trữ của
NH mình sang cho dự trữ của NH xin vay. Như vậy NH xin vay sẽ đủ dự trữ theo yêu
cầu của NHTW với một khoản tiền nợ phát sinh là khoản tiền xin vay nói trên, thể hiện
vào bảng cân đối của ngày hôm đó. Còn NH thừa dự trữ cho vay một phần dư có trên
tài khoản để kiếm tiền lãi. Việc vay qua vay lại như thế diễn ra thường xuyên trong hệ
thống NHTM. Nó hình thành một loại tài sản nợ khá thường xuyên. Tuy nhiên, khoản
nợ này thường rất ngắn, không qua một tuần, và thường chỉ là một hai ngày. Hiện nay ở
Việt Nam chưa phát triển khoản vay ngắn hạn dự trữ tại NHTW. Nhưng bên cạnh đó ở
Việt Nam còn có vốn tiếp nhận, là vốn mà NHTM uỷ thác từ các tổ chức trong hoặc
ngoài nước, từ ngân sách nhà nước để cho vay trung và dài hạn thuộc kế hoạch xây
dựng tập trung của Nhà nước, để thực hiện chương trình và dự án có mục tiêu trước
trong sản xuất kinh doanh, cải tạo môi trường, môi sinh.
 Vay trên thị trường tiền tệ: Các nước phát triển quan niệm thị trường tiền tệ ( TTTT )
bao gồm thị trường mua bán các chứng từ có giá ngắn hạn, thị trường liên NH, thị
trường hối đoái. TTTT có vai trò quan trọng trong suốt quá trình tồn tại và phát triển
của mỗi NH thông qua việc điều hoà nguồn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Bên cạnh
việc TTTT góp phần sự dụng có hiệu quả các nguồn vốn đã có tại NH, làm cho nguồn
vốn vừa đa dạng, phong phú vừa linh động. Thì TTTT còn có vai trò chức năng vô cùng
quan trọng đó là hoà trộn, lưu thông, khơi luồng các dòng chảy cho tất cả các nguồn
vốn vào mạng lưới đầu tư phát triển nền kinh tế đất nước. TTTT vừa giúp cho NHTM
tìm được nguồn vốn, vừa giúp NHTM nào khi dư thanh khoản có được cơ hội đầu tư

sinh lợi hay nói cách khác đó là không để vốn chết tại NH. Thông qua việc mua bán các
trái phiếu ngắn hạn trên TTTT mà những người cho vay và những người đi vay gặp
được nhau. Như vậy mặt hàng trao đổi trên thị trường này là tiền hoặc các chứng từ có
giá trị như tiền. Nhưng trên TTTT, tiền hay các chứng từ có giá trị như tiền là các
chứng từ tài chính đại diện cho một lượng tiền mà một cá nhân ( hay doanh nghiệp ) nợ
người khác. “ Chứng từ có giá như tiền ” được quan niệm là những tài sản thực hiện
chức năng cất giữ hơn là phương tiện trao đổi. Và với đặc trưng đó mà các “ chứng chỉ

×