Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.18 KB, 29 trang )

CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ
NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh
tế. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì
vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm ổn
định kinh tế. Ngân hàng có mối quan hệ mật thiết tới tất cả các ngành, lĩnh vực
khác nhau của nền kinh tế. Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiện lớn nhất trong
hầu hết mọi nền kinh tế, hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp,
các tổ chức kinh tế đều gửi tiền tại ngân hàng. Đồng thời, ngân hàng là tổ chức
cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối
với Nhà nước. Hoạt động của ngân hàng góp phần to lớn trong việc thúc đẩy
phát triển kinh tế.
Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế
nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại
thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân
hàng. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc
vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Đứng trên mỗi khía cạnh khác
nhau thì có những định nghĩa khác nhau về ngân hàng.
Xem xét ngân hàng trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng
cung cấp, có khái niệm về ngân hàng thương mại: Ngân hàng là các tổ chức tài
chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín
dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất
so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Dựa trên các hoạt động chủ yếu, theo Luật Các tổ chức tín dụng của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngân hàng được định nghĩa: “hoạt động
ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng là với nội dung
thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung
ứng các dịch vụ thanh toán”.
1.1.2 Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại


1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn là hoạt động tạo ra nguồn vốn cho ngân hàng thương mại.
Đây là hoạt động đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động
của ngân hàng. Hoạt động huy động vốn là hoạt động khởi đầu, tạo nền móng
cho mọi hoạt động của ngân hàng thương mại. Nguồn vốn của ngân hàng bao
gồm vốn chủ sở hữu và vốn nợ.
Vốn chủ sở hữu
Để bắt đầu hoạt động ngân hàng, chủ ngân hàng phải có một lượng vốn
nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên
trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Vốn chủ sở hữu thường chiếm tỷ trọng
nhỏ trong tổng nguồn vốn mà ngân hàng nắm giữ nhưng lại là nguồn vốn có ý
nghĩa quan trọng vì nó phản ánh năng lực tài chính của ngân hàng, do vậy nó
quyết định quy mô hoạt động của ngân hàng, là cơ sở để ngân hàng tiến hàng
kinh doanh, thu hút những nguồn vốn khác và cho vay. Nguồn hình thành loại
vốn này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân
hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường. Tuỳ theo tính chất sở hữu, vốn
chủ sở hữu có thể do ngân sách Nhà nước cấp, do các cổ đông đóng góp thông
qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu, do các bên liên doanh góp hay vốn thuộc sở
hữu tư nhân; ngoài ra còn có các nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động,
các quỹ, nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần.
Vốn nợ
Vốn nợ của ngân hàng thương mại có thể được huy động dưới nhiều hình
thức khác nhau như: nhận tiền gửi của các cá nhân, tổ chức và các tổ chức tín
dụng khác dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn hay các loại
tiền gửi khác;Vay trên thị trường vốn bằng cách phát hành các giấy nợ (kì
phiếu, tín phiếu, trái phiếu); Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác, vay vốn
ngắn hạn ngân hàng Nhà nước và các hình thức huy động khác như các nguồn
từ uỷ thác, nguồn trong thanh toán và các nguồn khác.
Trong các nguồn vốn huy động, tiền gửi của khách hàng là nguồn tài
nguyên quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi một ngân hàng bắt đầu

hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh
toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh
nghiệp, các tổ chức và của dân cư. Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Trong môi trường cạnh tranh
hiện nay, các ngân hàng đã không ngừng gia tăng lượng tiền gửi cũng như chất
lượng tiền gửi bằng cách đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác
nhau.
1.1.2.2 Hoạt động sử dụng vốn
Là tổ chức kinh doanh tiền tệ nên NHTM không chỉ huy động vốn mà còn
phải sử dụng vốn đó sao cho có mức sinh lời cao nhất. Việc sử dụng vốn chính
là quá trình tạo nên các nguồn tài sản khác nhau của ngân hàng, trong đó cho
vay và đầu tư là hai loại tài sản lớn và quan trọng. Hoạt động sử dụng vốn của
NHTM chủ yếu bao gồm: Dự trữ, cho vay, đầu tư.
Dự trữ
Dự trữ của NHTM là những khoản có tính thanh khoản cao, được thiết lập
nhằm duy trì khả năng chi trả và các yêu cầu khác của NHTM. Dự trữ của ngân
hàng bao gồm: tiền mặt trong két, tiền gửi tại NHTW, tiền gửi các tổ chức tài
chính khác. Dự trữ ngân hàng sinh lời rất thấp, song lại có tính thanh khoản cao,
đáp ứng được nhu cầu chi trả thường xuyên của NHTM, giúp các NHTM tranh
nguy cơ phá sản.
Cho vay
“Cho vay là hoạt động theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một
khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với
nguyên tắc hoàn trả gốc và lãi”.
Thời gian nhất định ở đây được hiểu là thời hạn cho vay. Thời hạn cho vay
là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến
thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín
dụng giữa tổ chức tín dụng và khác hàng.
Cho vay là một hoạt động vô cùng quan trọng của NHTM. Mục tiêu của
ngân hàng thương mại là lợi nhuận, vì thế, để tạo ra lợi nhuận, các ngân hàng

thương mại cần phải cho vay. Hoạt động này đóng vai trò quan trọng đối với
ngân hàng nói riêng và với nền kinh tế nói chung. Đối với nền kinh tế nó thúc
đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế, góp phần cung cấp kịp thời vốn
cho sản xuất và kinh doanh cũng như cung cấp vốn cho các cá nhân tiêu dùng
hay cho Chính phủ để đầu tư phát triển đất nước. Với các NHTM, cho vay là
hoạt động sinh lời lớn nhất cho ngân hàng. Đây là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn
nhất ở phần lớn các NHTM.
NHTM thể cho vay dưới nhiều phương thức khác nhau như: thấu chi, cho
vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay luân chuyển, cho vay trả
góp, cho vay gián tiếp. Ngân hàng có thể cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu
cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ đời sống; cho vay trung và dài hạn để
thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Đầu tư
Là đơn vị kinh doanh tiền tệ nên NHTM là người nắm vững các thông tin
cũng như tình hình kinh tế khá rõ nên có thể nói các NHTM là người đầu tư có
hiệu quả nhất. Các NHTM thường dùng vốn chủ sở hữu và các vốn dài hạn để
đầu tư vào các công ty liên doanh, các dự án…, trở thành cổ đông của các công
ty cổ phần.
1.1.2.3 Các hoạt động trung gian
Khi mới ra đời, các ngân hàng thường có hai hoạt động chính là nhận tiền
gửi và cho vay, nhưng cùng với sự phát triển của thị trường tài chính cũng như
sự phát triển của trình độ khoa học công nghệ nói chung và công nghệ ngân
hàng nói riêng, các NHTM không chỉ đơn thuần thực hiện hai hoạt động trên mà
còn mở rộng ra các hoạt động khác. NHTM đóng vai trò trung gian tài chính khi
thực hiện các dịch vụ bao gồm: dịch vụ thanh toán, uỷ thác và nhận uỷ thác,
cung ứng dịch vụ bảo hiểm và tư vấn tài chính.
+ Dịch vụ thanh toán: Nền sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, các
hình thức thanh toán cũng ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Vì vậy, nhu
cầu đòi hỏi phải đẩy nhanh tốc độ thanh toán cùng với sự phát triển của công
nghệ ngân hàng đã thúc đẩy sự hình thành các dịch vụ thanh toán của các

NHTM. Các NHTM cung ứng các phương tiện thanh toán, thực hiện dịch vụ
thu hộ và chi hộ khách hàng. Các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu
cho thanh toán không dùng tiền mặt đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh,
giúp cho khách hàng kinh doanh nhanh chóng và hiệu quả hơn, tạo thuận lợi
cho khách hàng trong kinh doanh.
+ Uỷ thác và nhận uỷ thác: NHTM được uỷ thác, nhận uỷ thác làm đại lý
trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng. Nhiều cá nhân và doanh
nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch
vụ uỷ thác còn phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác
phát hành, uỷ thác đầu tư…
+Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm: NHTM được cung ứng các dịch vụ bảo
hiểm, thành lập các công ty trực thuộc hoặc liên doanh để kinh doanh bảo hiểm
theo quy định của pháp luật.
+ Tư vấn tài chính: Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các NHTM có
rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Nhiều khách hàng coi ngân hàng như
một chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản
lý tài chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.
1.2 Hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng
thương mại
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1.1 Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005 là tổ chức kinh tế
có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh
theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh
doanh.
DNVVN là một trong các loại hình doanh nghiệp tồn tại trong nền kinh tế.
Mỗi quốc gia, mỗi khu vực khác nhau đều có những nét đặc thù riêng về điều
kiện kinh tế - xã hội, do vậy việc phân loại doanh nghiệp không thể thống nhất
giữa các quốc gia. Hiện nay, trên thế giới, không có khái niệm chuẩn mực về
DNVVN. Tuỳ vào điều kiện và tình hình kinh tế mà mỗi nước sẽ quy định riêng

về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việc xác định quy mô DNVVN chỉ mang tính chất
tương đối vì nó chịu tác động của các yếu tố như trình độ phát triển của đất
nước, tính chất ngành nghề và điều kiện của một vùng lãnh thổ nhất định hay
mục đích phân loại doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Tuy nhiên việc đưa ra một
khái niệm về DNVVN cho riêng mình có vai trò quan trọng trong việc đưa ra
chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Tại Việt Nam, theo Nghị định số 90/2001/NĐ – CP của Chính phủ ngày 23
tháng 11 năm 2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ đã định
nghĩa: “Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng
ký kinh doanh theo luật doanh nghiệp hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10
tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”
1.2.1.2 Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Phát triển DNVVN là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Trong
quá trình phát triển của mình, DNVVN đã bộc lộ những ưu điểm nhưng cũng có
những không ít nhược điểm. Việc nhận rõ được những điểm mạnh cũng như
điểm yếu sẽ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ có biện pháp khắc phục khó
khăn để nâng cao chất lượng hoạt động và khả năng cạnh tranh, đồng thời cũng
là một trong những tiêu chí để các ngân hàng đánh giá một cách tương đối chính
xác về khách hàng của mình từ đó nâng cao được chất lượng các khoản cho vay.
Điểm mạnh của DNVVN
- Quy mô vừa và nhỏ nên có tính năng động, linh hoạt
Quy mô vốn nhỏ đã tạo ra những mặt thuận lợi cho các DNVVN. Với số
vốn đầu tư ban đầu nhỏ, khả năng thu hồi vốn cao do đó các nhà đầu tư dễ lựa
chọn loại hình doanh nghiệp này khi quyết định thành lập công ty. Vốn đầu tư
ban đầu nhỏ, khả năng thu hồi vốn nhanh vì phần lớn các DNVVN hoạt động
trong lĩnh vực thương mại, sản xuất nhỏ nên sản phẩm dễ tiêu thụ, chu kỳ kinh
doanh ngắn, thu hồi vốn nhanh hơn những doanh nghiệp lớn. Do việc thu hồi
vốn ban đầu trong thời gian ngắn nên khả năng quay vòng vốn, tái đầu tư, mở
rộng sản xuất kinh doanh dễ dàng hơn.
So với các doanh nghiệp lớn, các DNVVN năng động hơn trước những sự

thay đổi của thị trường. Các doanh nghiệp lớn với quy mô và cơ sở vật chất hạ
tầng đồ sộ thường kém nhanh nhậy và linh hoạt hơn trong việc đáp ứng nhu cầu
của người tiêu dùng. Trong khi đó, quy mô vừa và nhỏ tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp nhanh chóng chuyển đổi cơ cấu sản xuất hay bộ máy
quản lý khi có sự bất lợi từ môi trường kinh doanh, tăng khả năng thích nghi của
các doanh nghiệp với những biến động của thị trường.
Khác với các doanh nghiệp lớn đòi hỏi một thị trường lớn, thậm chí là cần
sự bảo hộ của Chính phủ và có sự độc quyền, các DNVVN hoạt động với số
lượng đông đảo dễ dàng và sẵn sàng chấp nhận tự do cạnh tranh. DNVVN
thường có tính tự chủ cao hơn so với các doanh nghiệp lớn, sẵn sàng khai thác
triệt để các cơ hội phát triển mà không ngại rủi ro. Chính điều này tạo động lực
thúc đẩy nền kinh tế phát triển năng động hơn, khai thác tối đa mọi tiềm lực của
đất nước.
- Hệ thống tổ chức và quản lý ở các DNVVN gọn nhẹ, linh hoạt, tiết kiệm
được chi phí. Công tác điều hành mang tính trực tiếp, các quyết định được thực
hiện nhanh chóng, công tác kiểm tra, giám sát được tiến hành chặt chẽ, không
phải qua nhiều khâu trung gian vì vậy tiết kiệm được nhiều chi phí quản lý
doanh nghiệp.
DNVVN có số lao động không lớn nên mối quan hệ giữa người quản lý và
người lao động khá chặt chẽ, gắn bó, tạo môi trường làm việc tốt.Việc tiếp xúc,
gần gũi để nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của người lao động dễ dàng, tạo
điều kiện cho nhà quản lý trong việc đưa ra các chính sách quản lý phù hợp,
giúp người lao động phát huy hết được khả năng của mình.
Hạn chế
Thứ nhất: Quy mô vốn nhỏ là một thuận lợi nhưng cũng lại là một khó khăn
chủ yếu của các DNVVN. Các DNVVN thường gặp nhiều trở ngại trong việc
vay vốn do năng lực vốn nội tại của các doanh nghiệp này còn hạn chế. Ở nước
ta, có khoảng 42% doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 1 tỷ đồng; từ 1 đến 5 tỷ
chiếm 47%; từ 5 đến 10 tỷ chiếm 8%; còn lại hơn 10 tỷ đồng. Với số vốn tự có
nhỏ bé như thế nên 90% số doanh nghiệp phải tự huy động, vay vốn các nguồn

để sản xuất kinh doanh. Nguồn vay chủ yếu của các DNVVN là tín dụng ngân
hàng, tuy nhiên các doanh nghiệp lại thường khó tiếp cận được với nguồn vốn
tín dụng của các ngân hàng do thiếu tài sản có giá trị lớn để thế chấp. Việc thiếu
vốn sẽ làm doanh nghiệp bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh, gặp khó khăn trong việc
mua sắm các thiết bị máy móc, mở rộng sản xuất.
Thứ hai: Máy móc ít, công nghệ lạc hậu, khả năng và điều kiện áp dụng
tiến bộ kĩ thuật rất hạn chế, lao động thủ công nhiều là một trong những hạn chế
của các DNVVN. Hạn chế này cũng bắt nguồn từ việc thiếu vốn của DNVVN.
Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị trung bình hàng năm của Việt Nam chỉ ở mức 5-7%
so với 20% của thế giới. Đây chính là nguyên nhân của tình trạng lãng phí trong
sử dụng năng lượng, nguyên vật liệu và ô nhiễm môi trường. Công nghệ lạc hậu
làm tăng chi phí lên 1,5 lần đồng thời dẫn đến chất lượng sản phẩm giảm, giá
thành cao và nâng suất thấp
Thứ ba: Năng lực quản lý, điều hành của người lãnh đạo và chất lượng lao
động tác nghiệp còn thấp. Do trong các DNVVN người sở hữu vốn đồng thời là
người quản lý, chủ doanh nghiệp nên hiểu biết về quản trị doanh nghiệp còn
nhiều hạn chế. Số lượng công nhân và người đứng đầu công ty được đào tạo chỉ
chiếm hơn 20%. Cơ cấu nghề nghiệp không cân đối, phần lớn đào tạo ngắn hạn,
rất ít nhân sự kĩ thuật và kĩ thuật đầu đàn, năng suất lao động thấp, năng lực
quản lý yếu. Những người lãnh đạo các DNVVN thường không có sự hiểu biết
cặn kẽ về luật lệ kinh doanh trong nước cũng như luật lệ quốc tế.
Thứ tư: DNVVN có thị trường chỉ chiếm một thị phần nhỏ nên họ gặp nhiều
áp lực về thâu tóm, xoá sổ từ phía các doanh nghiệp lớn. Việc phát triển thị
trường, thương trường, xây dựng thương hiệu của các DNVVN mới ở giai đoạn
đầu. Các DNVVN chưa thật sự chú trọng đến việc mở rộng thị trường, chưa chú
trọng đầu tư vào khâu phân tích, dự đoán xu thế chung của thị trường để phát
triển và xây dựng những chiến lược lâu dài mà chủ yếu chỉ kinh doanh mang
tính chất thời vụ đáp ứng nhu cầu tức thì của thị trường.
1.2.1.3 Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với nền kinh tế
Thực hiện chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần và triển khai

Luật doanh nghiệp, các DNVVN ở Việt Nam đã phát triển một cách nhanh
chóng. Đến nay cả nước có trên 200.000 đơn vị, chiếm 97% số doanh nghiệp,
sử dụng hơn 30% số lao động xã hội, làm ra gần 40% mặt hàng tiêu dùng và
xuất khẩu, chiếm 1/3 tổng thu ngân sách quốc gia. Với vị trí và đóng góp nói
trên, doanh nghiệp vừa và nhỏ đang là nhân tố quan trọng trong việc “ổn định
kinh tế vĩ mô - bảo đảm an sinh xã hội” của đất nước. Những đóng góp của các
DNVVN cho sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia là rất lớn và không
thể phủ nhận, được thể hiện cụ thể như sau:
 Đóng góp quan trọng vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Các DNVVN được đánh giá là một bộ phận năng động, hoạt động có hiệu
quả của nền kinh tế. Sự phát triển nhanh các DNVVN về cả chất lượng và số
lượng đã đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và sự gia tăng thu nhập cho
các nước.
Các DNVVN ở Việt Nam cung cấp ra thị trường nhiều loại hàng hoá khác
nhau đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước. DNVVN hoạt động đa
dạng ở mọi ngành nghề, trong mọi thành phần kinh tế, sức lan toả của các doanh
nghiệp này vào các lĩnh vực của đời sống xã hội là rất lớn. Với ưu thế là quy mô
nhỏ, các DNVVN có thể hoạt động ở trong cả các lĩnh vực mà các doanh nghiệp
lớn không muốn tham gia, có thể thâm nhập vào mọi ngõ ngách thị trường mà
doanh nghiệp lớn khó có thể vươn tới nên nó có khả năng thoả mãn mọi nhu cầu
về sản phẩm dịch vụ dù nhỏ nhất của mọi tầng lớp xã hội. DNVVN của Việt
Nam đã đóng góp hơn 40% GDP, luôn duy trì tốc độ tăng trưởng trên 18%,
đóng góp trn 30% tổng thu ngân sách nhà nước. Đây là bộ phận có vai trò quan
trọng trong quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, cung ứng dịch vụ, là vệ tinh
gắn kết, hỗ trợ thúc đẩy phát triển của các doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế.
 Tham gia tích cực vào hoạt động xuất khẩu
Trong những năm qua, thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước ta về
mở rộng và khuyến khích thương mại quốc tế, tạo điều kiện cho mọi thành phần
kinh doanh xuất nhập khẩu, DNVVN nhất là các doanh nghiệp kinh doanh các

mặt hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến nông sản, thuỷ sản đã chủ động tìm kiếm
và khai thác thị trường quốc tế, qua đó tích cực tăng kim ngạch xuất khẩu, thu
ngoại tệ cho đất nước. Với những ưu thế về ngành nghề, tính nhạy cảm của thị
trường cao, các DNVVN có nhiều thuận lợi trong việc sản xuất và cung ứng các
sản phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Số lượng
DNVVN tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu chiếm 80,6%, nhập khẩu chiếm
84,2% tổng số doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu trong cả nước.
 Tăng việc làm và tăng thu nhập cho người lao động
Với số lượng các DNVVN chiếm 97% tổng số doanh nghiệp nên tạo ra
việc làm cho một số lượng lớn người lao động, giải quyết tình trạng thất nghiệp.
Do sự phân bố rộng khắp và khá đa dạng trong ngành nghề kinh doanh, hơn nữa
lại không đòi hỏi trình độ cao, DNVVN đã và đang thu hút rất nhiều lao động ở
thành thị và nông thôn, từ đó góp phần nâng cao thu nhập cho người lao động,
cải thiện đời sống và hạn chế các tệ nạn xã hội. Các DNVVN cung cấp khoảng
50% khối lượng việc làm cho nền kinh tế. Các DNVVN đã đóng góp một phần
đáng kể vào sự phát triển của nền kinh tế.
 Tạo sự năng động, hiệu quả và góp phần làm chuyển dịch cơ
cấu kinh tế

×