Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG HỘ SẢN XUẤT TẠI CHI NHÁNH NHNo & PTNT HUYỆN CHỢ MỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.72 KB, 7 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG HỘ SẢN
XUẤT TẠI CHI NHÁNH NHNo & PTNT HUYỆN CHỢ MỚI
5.1 MỘT SỐ HẠN CHẾ TRONG CÔNG TÁC TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG
- Tổ huy động vốn hoạt động không thường xuyên, do kiêm nhiệm
- Đa số khách hàng của Ngân hàng là hộ sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp nên
việc đầu tư của Ngân hàng còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên như lũ lụt, hạn
hán, dịch bệnh, thị trường nông sản biến động,… ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp
nên công tác thu nợ của Ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn
- Do huyện Chợ Mới được xem là vùng kinh tế đang trong giai đoạn phát triển nên
hàng loạt các Ngân hàng bạn, các phòng giao dịch ra đời như: Ngân hàng Công
Thương, phòng giao dịch của Ngân hàng Mỹ Bình, Ngân hàng Mỹ Xuyên,… hoạt động
của các Ngân hàng có cùng đối tượng, chính sách đầu tư và thành phần giống nhau nên
việc cạnh tranh xảy ra là vấn đề tất yếu. Trong đó, việc cạnh tranh nhau về lãi suất cho
vay là việc đáng quan tâm nhất. Hình thức áp dụng mức lãi suất của chi nhánh NHNo
huyện Chợ Mới là do NHNo & PTNT của tỉnh đề ra, do đó mức lãi suất cho vay tương
đối cao hơn những Ngân hàng khác trên địa bàn đây là một trở ngại rất lớn cho Ngân
hàng trong việc giữ chân khách hàng.
- Ngân hàng chỉ tập trung cho vay ngắn hạn, trung hạn, cho vay dài hạn còn ít. Từ
đó, cho thấy Ngân hàng chưa khai thác được hết tiềm năng của thị trường vốn ở địa
phương. .
- Công tác thu hồi nợ cũng gặp nhiều khó khăn của các tổ chức tín dụng hiện nay.
Pháp luật đã có những quy định cho phép các ngân hàng được xử lý tài sản đảm bảo
tiền vay để thu hồi nợ, nhưng trên thực tế ngân hàng không thể chủ động tự xử lý được
số tài sản này, do không có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng khác như
công an, thi hành án, chính quyền sở tại. Còn khi ký hợp đồng vay vốn, người vay đã
thoả thuận giao tài sản để thế chấp cho Ngân hàng nếu không trả được nợ. Đến khi
khách hàng vay không trả được nợ thì ngân hàng vẫn không tiến hành xử lý phát mại
được tài sản vì thủ tục sang tên trước bạ quy định phải có sự đồng ý của chủ sở hữu,
hoặc người đứng tên bỏ trốn không liên lạc được. Còn người mua tài sản phát mại thì
cũng chỉ chấp nhận khi có sự đồng ý của chủ sở hữu.
5.2 NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ


TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT
5.2.1 Trong công tác huy động vốn
Qua phân tích tình hình huy động vốn và sử dụng vốn của Chi nhánh, cho thấy chi
nhánh đã đạt được kết quả khá tốt. Tuy nhiên, trong thời kỳ hội nhập kinh tế thế giới
như hiện nay thì chi nhánh cần có những biện pháp linh động và hiệu quả hơn trong
việc chăm lo công tác huy động vốn để tạo nguồn vốn tăng trưởng bền vững sẽ góp
phần tích cực vào việc mở rộng đầu tư tín dụng, nhằm đa dạng hoá khách hàng phù hợp
với định hướng phát triển của ngành Ngân hàng.
Chi nhánh cần phải xem công tác huy động vốn là nhiệm vụ “ sống còn” trong
hoạt động kinh doanh. Mỗi cán bộ trong Ngân hàng dù bất cứ ở cương vị nào đều phải
nhận thức được rằng “ vốn huy động là nền tảng để mở rộng kinh doanh, không có
nguồn vốn lớn sẽ không có một Ngân hàng mạnh, một cán bội tín dụng giỏi khi vừa huy
động vốn giỏi, vừa cho vay giỏi”, từ đó nổ lực phấn đấu tích cực tham gia công tác huy
động vốn.
5.2.1.1 Đa dạng hóa các hình thức huy động
Các hình thức huy động vốn truyền thống của chi nhánh như tiền gửi tiết kiệm,
tiền gửi của các tổ chức kinh tế, kỳ phiếu có mục đích với nhiều kỳ hạn khác nhau là
hình thức gửi gọn rút gọn khó có thể thu hút thêm vốn nhàn rỗi; trong xã hội phải có
nhiều hình thức huy động tiền gửi mới đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người gửi
tiền.
Với sự phát triển của nền kinh tế như hiện nay, nhu cầu đời sống sinh hoạt của
người dân hiện nay đã được nâng lên rõ rệt. Các dịch vụ đáp ứng nhu cầu chi trả của
người dân ngày càng thuận tiện. Người dân không cần phải nắm giữ nhiều tiền trong
nhà mà vẫn có thể mua sắm được đầy đủ thông qua tài khoản cá nhân. Việc mua sắm
tiêu dùng và tích lũy là hai khoảng thời gian hoàn toàn tách biệt. Vì vậy Ngân hàng cần
phải có hình thức huy động mới phù hợp như: gửi một nơi rút nhiều nơi, gửi một lần rút
nhiều lần hoặc gửi nhiều lần rút một lần.
Bằng hình thức này, Ngân hàng sẽ thu hút một lượng vốn nhàn rỗi còn nằm trong
dân, nhất là đối với cán bộ công nhân viên chức. Mặt khác tự tạo thuận lợi cho người có
tiền gửi, vừa tạo thêm tích luỹ cho người gửi, đặc biệt tạo ra được nguồn vốn khá ổn

định cho Ngân hàng.
5.2.1.2 Thực hiện điều chỉnh lãi suất linh hoạt
- Bằng nhiều hình thức huy động tiền gởi tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn,
ngắn hạn và dài hạn cơ cấu lãi suất thích hợp để hấp dẫn khách hàng gởi tiền.
- Tạo điều kiện thuận lợi để cho khách hàng gởi và rút tiền, ngoài ra ngân hàng
còn khuyến mãi bằng hiện vật cho khách hàng gởi tiền, nhất là khách hàng truyền
thống.
5.2.1.3 Chính sách Marketing
Marketing đóng vai trò đặc biệt quan trọng đến sự thành công của một Ngân hàng
trong một môi trường cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng như hiện nay, nó được xem
là chiến lược có tính kế hoạch lâu dài của Ngân hàng nhằm thoả mãn nhu cầu vốn của
khách hàng. Chi nhánh cần phải có chiến lược cụ thể:
- Quảng cáo dưới hình thức bằng logo, tờ bướm tiết kiệm và hiệu quả, trong đó
giới thiệu nội dung chi tiết ngắn gọn, đặc biệt chú trọng sự tin tưởng của khách hàng
đối với Ngân hàng như: thời gian hoạt động trưởng thành và phát triển; giới thiệu các
thể thức huy động và các tiện ích phục vụ của Ngân hàng
- Thực hiện tốt công tác tiếp thị thông qua phương tiện thông tin đại chúng, xây
dựng câu truyện “ truyền thanh hoặc truyền hình “ về công tác huy động vốn.
- Thành lập “ Tổ huy động vốn “ và thực hiện công tác huy động vốn phục vụ tại
nhà kể cả gởi và rút tiền, nhằm thu hút được tiền nhàn rỗi trong dân cư ngày càng
nhiều, đặc biệt là gởi tiền tiết kiệm bậc thang.
- Khuyến mại hấp dẫn, đẩy mạnh tiếp thị, đổi mới phong cách giao dịch
Qua đó cho thấy Ngân hàng muốn tồn tại và phát triển trong môi trường kinh
doanh có sự cạnh tranh sôi nổi giữa các tổ chức tín dụng, việc ứng dụng Marketing
Ngân hàng hiện nay là rất cần thiết trong hoạt động Ngân hàng.
5.2.1.4 Đào tạo trình độ nghiệp vụ
Con người là yếu tố quyết định, chính vì thế cần phải quan tâm đến công tác đào tạo
và đào tạo lại, nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ viên chức có đủ trình độ và
khả năng ứng dụng công nghệ tin học để đáp ứng nhu cầu của khách hàng được thuận tịện
nhanh chóng phù hợp với từng loại thể thức huy động hiện hành.

Bên cạnh nâng cao trình độ chuyên môn thì chưa đủ mà còn phải có phong cách
phục vụ, là yếu tố không kém quan trọng, tác động trực tiếp vào tâm lý khách hàng. Để
có phong cách của một nhân viên giao dịch được khách hàng tín nhiệm, đòi hỏi cán bộ
luôn rèn luyện kỹ năng giao tiếp và kỹ năng nghiệp vụ cho phù hợp.
5.2.2 Trong hoạt động tín dụng
5.2.2.1 Phân loại khách hàng:
Phân loại khách hàng như: hộ giàu, trung bình, hộ nghèo, hay hộ có đủ điều kiện
vay vốn, không đủ điều kiện vay để từ đó Ngân hàng đề ra chính sách cho vay hợp lý
đối với từng đối tượng cụ thể tránh phát sinh nợ quá hạn, có thể phân loại như sau:
- Khách hàng có đủ điều kiện vay vốn, sử dụng vốn đúng mục đích, trả nợ đúng
hạn. Đối tượng này Ngân hàng cần có chế độ ưu đãi về lãi suất và nhu cầu vốn vay tối
đa cho họ để động viên khuyến khích họ trong việc sử dụng vốn của Ngân hàng.
- Khách hàng trung bình: Ngân hàng nên tạo điều kiện cho khách hàng vay vốn
và phải thường xuyên chăm sóc nhắc nhở họ trong việc đóng lãi và thu hồi nợ gốc.
- Đối với khách không có điều kiện: Ngân hàng không nên cho vay để hạn chế
rủi ro
5.2.2.2 Tăng tỷ lệ đầu tư vốn trung hạn và dài hạn:
Trong cơ cấu doanh số cho vay thì cho vay trung hạn chỉ chiếm khoảng 20%
tổng doanh số cho vay, Ngân hàng ít đầu tư cho vay dài hạn. Do đó trong tương lai
Ngân hàng nên đầu tư nhiều hơn vào cho vay trung và dài hạn để đáp ứng tốt hơn nhu
cầu vốn của người dân. Hơn nữa với tốc độ phát triển kinh tế của huyện như hiện nay
thì Nân hàng nên mạnh dạn đầu tư cho vay ngành TTCN và TMDV.
5.2.2.3 Biện pháp nâng cao doanh số thu nợ.
Để đảm bảo cho Ngân hàng thu hồi nợ cả gốc lẫn lãi thì cũng đồng nghĩa với
việc người sử dụng vốn cũng có lợi mà Ngân hàng cũng có lợi.
- Đối với những hộ kinh doanh các ngành nghề truyền thống có dư nợ lớn và
những hộ chăn nuôi gia súc gia cầm không hiệu quả gây thất thu do bị ảnh hưởng của
thiên tai dịch bệnh hay chưa áp dụng kỹ thuật đúng thì Ngân hàng nên chia nhỏ số nợ
để khách hàng dễ dàng trả nợ hơn.
- Đa số những hộ nông dân đều ít học nên họ ít khi đọc những gì ghi trong hợp

đồng tín dụng. Vì vậy khi cán bộ tín dụng cần phải giải thích hay tư vấn cho họ hiểu rõ
hơn về những gì ghi trong hợp đồng để tránh tình trạng khi người dân làm xong một
mùa vụ nhưng chưa tới thời hạn trả nợ, họ sẽ sử dụng số tiền vào dịp khác nên khi đến
hạn trả nợ thì họ lại hết tiền không trả được nợ cho ngân hàng.
- Cán bộ tín dụng cần phải luôn chăm sóc khách hàng, bám sát địa bàn để biết
được những hộ có khả năng trả nợ mà cố tình dây dưa không trả nợ, thì Ngân hàng cần
khởi kiện khách hàng này. Đồng thời phân tích cho họ hiểu là khi đưa ra khởi kiện thì
họ tốn rất nhiều chi phí và thiệt hại sẽ về họ. Có như vậy công tác thu nợ của ngân
hàng sẽ được thuận lợi hơn.
5.2.2.4 Hạn chế nợ xấu
Nợ xấu là một vấn đề luôn làm cho các nhà quản trị NHTM quan tâm. Bất cứ một
NHTM nào dù có quản lý tài chính chặt chẽ tới đâu thì vẫn không thể triệt tiêu hết nợ
quá hạn, bởi vì nguy cơ tiềm ẩn từ mọi nơi, mọi phía. Do đó, quản lý hạn chế rủi ro là
nhiệm vụ hàng đầu của các NHTM. Bởi vì bản chất và chức năng của Ngân hàng là một
tổ chức tài chính trung gian chuyên huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các
tổ chức và cá nhân có nhu cầu vay lại. Thực chất sở hữu những khoản vay là thuộc
quyền sở hữu của những người gửi tiền vào Ngân hàng. Do vậy, nếu một khoản vay nào
bị thất thoát không thu hồi được thì Ngân hàng sẽ phải sử dụng nguồn vốn của mình để
trả cho người gửi tiền
- Ngay từ đầu khi thẩm định, xét duyệt hồ sơ cho vay vốn, cán bộ tín dụng phải
thực hiện đúng quy trình cho vay.
- Khi giải ngân, cán bộ tín dụng phải theo dõi tình hình sẻ dụng vốn vay, tình hình
sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ của đơn vị,... để có hướng xử lý kịp thời nếu
- Cán bộ tín dụng cần phối hợp với phòng kế toán nhiều hơn để theo dõi tình hình
trả nợ và lãi vay của khách hàng đồng thời nắm được nợ đến hạn của khách hàng mà
thông báo, đôn đốc khách hàng trả nợ
- Tăng cường kiểm tra, giám sát sau khi cho vay: cán bộ tín dụng không được lãng
quên các khoản vay sau khi được giải ngân mà phải tiến hành kiểm tra định kỳ hay bất

×