THỰC TRẠNG TÍN DỤNG TRUNG – DÀI HẠN TẠI CHI NHÁNH NGÂN
HÀNG No&PT ĐÔNG HÀ NỘI
2.1. Khái quát về chi nhánh ngân hàng No&PTNT Đông Hà Nội
2.1.1. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh NH
No&PTNT Đông Hà Nội
Chi nhánh ngân hàng No&PTNT Đông Hà Nội là một chi nhánh của ngân hàng
No&PTNT Việt Nam, mới được thành lập từ tháng 07 năm 2003, có trụ sở chính tại
23B Quang Trung – Hoàn Kiếm – Hà Nội. Ngoài ra, chi nhánh còn có một Chi nhánh
cấp II trực thuộc đó là chi nhánh Bà Triệu, hai Phòng giao dịch tại số 8 Kim Mã, 39
Nguyễn Công Trứ và 2 doanh nghiệp làm đại lý thu mua ngoại tệ cho chi nhánh.
Ngay từ khi mới thành lập, chi nhánh đã được trang bị hiện đại, tuy chưa đủ
nhưng cũng đã đáp ứng được yêu cầu kinh doanh của chi nhánh
Trong hoạt động kinh doanh, được sự chỉ đạo điều hành sát sao của NH
No&PTNT Việt Nam, qua các chính sách như tài chính, lãi suất, tín dụng..
Cũng như sự kiểm tra, cảnh báo kịp thời đã giúp cho chi nhánh kinh dioanh hiệu
quả và an toàn. Sự hỗ trợ của NH No&PTNT Việt Nam đã giúp cho chi nhánh có một
cơ sở khang trang và hiện đại, cán bộ được đào tạo, có đủ trình độ, đạo đức và một
phong cách giao dịch hiện đại.
2.1.2. Khái quát về tình hình hoạt động của chi nhánh ngân hàng
No&PTNT Đông Hà Nội
Cùng với những thành tựu về phát triển kinh tế xã hội Việt Nam, hoạt động tổ
chức ngân hàng thương mại nói chung và hoạt động của chi nhánh NH No&PTNT
Đông Hà Nội nói riêng đã đạt được những kết quả quan trọng trong nhiều mặt, vốn huy
động và cho vay của chi nhánh cho nền kinh tế ngày càng tăng, góp phần kiềm chế lạm
phát,… Chi nhánh đang được hoàn thiện và là một ngân hàng hoạt động đa năng, uy tín
của ngân hàng ngày càng được nâng cao, thu hút được một lượng lớn khách hàng gửi
tiền cũng như khách hàng đặt quan hệ thanh toán và tín dụng.
2.1.2.1. Nguồn vốn huy động:
Ý thức được tầm quan trọng của công tác huy động vốn, ngay từ khi mới thành
lập, chi nhánh ngân hàng No&PTNT Đông Hà Nội rất quan tâm đến việc huy động vốn,
đặc biệt trong điều kiện hiện nay có một số lượng lớn chưa từng có các tổ chức tín dụng
thuộc các loại hình khác nhau cùng kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và cạnh tranh quyết
liệt, do đó đòi hỏi chi nhánh phải nỗ lực phấn đấu nhằm thu hút một khối lượng vốn
lớn, ổn định đảm bảo cho nhu cầu đầu tư mở rộng tín dụng trên địa bàn và hoàn thành
chỉ tiêu thừa vốn do ngân hàng cấp trên giao để điều hoà vốn chung trong toàn hệ
thống.
Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng địa bàn Hà Nội cũng có những lợi thế mà địa
bàn khác không có đó là: Hà Nội là trung tâm văn hoá chính trị của cả nước, là đầu mối
giao thông nối liền các khu vực kinh tế lớn của cả nước về đường bộ, đường thuỷ và
đường hàng không, là nơi thu hút nhiều dự án đầu tư nước ngoài, có những điều kiện
thuận lợi để phát triển kinh tế. Với nhiều biện pháp huy động vốn, trong năm qua chi
nhánh đã thu được những thành quả đáng kích lệ như sau:
Tình hình thực hiện nguồn vốn:
- Xét về mức độ tăng trưởng :
Biểu 1a: Tình hình huy động vốn.
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
31/12/2003 31/12/2004 So sánh với năm trước
Số t/đối Tỷ lệ %
Tổng nguồn vốn 594 1,513 919 155%
- Tiền gửi TCKT, TCXH 130,571 492 361,429 277%
- Tiền gửi từ TCTD khác 312,562 864 551,438 176%
- Tiền gửi dân cư 150,867 157 6,133 4%
(Nguồn số liệu: Báo cáo nguồn vốn của chi nhánh ngân hàng No&PTNT Đông
Hà Nội)
Qua bảng trên ta thấy tổng nguồn huy động đến 31/12/2004 có sự tăng trưởng
mạnh, cao hơn so với cùng thời điểm năm trước cả về số tuyệt đối và số tương đối.
Trong năm qua, nguồn vốn tăng 919 tỷ đồng tương ứng với 155%.
Xét về tốc độ tăng trưởng của từng loại đối tượng huy động vốn, ta thấy tiền gửi
của tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế xã hội tăng trưởng mạnh. Năm 2004, Chi nhánh
huy động được 492 tỷ đồng tiền gửi từ các tổ chức kinh tế và các tổ chức tín dụng, tăng
hơn 177% so với năm 2003; huy động được 864 tỷ đồng tiền gửi từ các TCTD khác,
tăng hơn 551,438 tỷ đồng so với năm 2003. Đó là do Ngân hàng No&PT Việt Nam là
một Ngân hàng quốc doanh có uy tín và tiềm lực tài chính mạnh, do vậy Ngân hàng thu
hút được một lượng khách hàng lớn đến thực hiện giao dịch. Chi nhánh Đông Hà Nội là
một cơ sở mới được thành lập, nhưng do nhu cầu về vốn trên thị trường có xu hướng
tăng nhanh qua các năm nên Hội sở chính đã thực hiện việc san sẻ sức ép cho các chi
nhánh, từ đó có thể giảm được sức ép tài chính và thực hiện tốt hơn vai trò điều chuyển
vốn của mình trên thị trường.
Cũng trong năm vừa qua, lượng tiền gửi huy động trong dân cư có tăng, nhưng
chỉ tiêu này tăng không đáng kể. Năm 2004, lượng tiền gửi Chi nhánh huy động được
từ dân cư đạt 157 triệu đồng, tăng 157 tỷ đồng, tăng hơn so với năm 2003 là 6,133 tỷ
tương đương với 4% tăng trưởng. Đó là do trong năm 2004, chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
tăng liên tục ở mức cao (6 tháng đầu năm 2004, chỉ số giá tiêu dùng tăng 9,5%, cao hơn
so với mức tăng cùng kỳ năm 2003 là 2.1%), lạm phát có nguy cơ tăng cao hơn các năm
trước đã khiến người dân có xu hướng phải giữ lại tiền để đề phòng sự mất giá của
đồng tiền. Bên cạnh đó, đời sống của người dân ngày càng được cải thiện, do đó nhu
cầu mua sắm và xây dựng của người dân ngày càng tăng và chưa có xu hướng chậm lại.
Sự biến động của các thị trường trong và ngoài nước cũng là một trong những nguyên
nhân; như thị trường nhà đất, thị trường lãi suất trên thị trường tiền tệ nói chung và trên
địa bàn Hà Nội nói riêng,… Vì vậy, lượng tiền gửi của dân cư không có được sự tăng
trưởng theo kỳ vọng trong năm qua.
- Xét về cơ cấu nguồn huy động :
Biểu 1b: Cơ cấu nguồn huy động
Đơn vị : tỷ đồng
Chỉ tiêu 31/12/2003 Tỷ trọng 31/12/2004 Tỷ trọng
Tổng nguồn 594 1513
Tiền gửi TCKT, TCXH 130,571 22% 492 33%
Tiền gửi TCTD 312,562 53% 864 57%
Tiền gửi dân cư 150,867 25% 157 10%
(Nguồn số liệu : báo cáo nguồn vốn của chi nhánh ngân hàng No&PTNT Đông
Hà Nội)
Qua biểu trên ta thấy có sự biến động khá lớn về cơ cấu nguồn vốn
- Tổng nguồn vốn đến 31/12 đạt 1513 tỷ đồng, tăng 919 tỷ (tăng 155%) so cùng
thời điểm năm 2003. So với kế hoạch năm tăng 526 tỷ ( tăng 53%).
- Trong đó nội tệ đạt 1379 tỷ, tăng 992 tỷ ( tăng 256%) so với 2003. Tăng 902 tỷ
(tăng 139%) so với kế hoạch năm. Ngoại tệ đạt 134 tỷ, giảm 73 tỷ so với năm 2003.
- Cơ cấu nguồn, so với năm 2003:
- Loại không kỳ hạn đạt 93 tỷ, giảm 38 tỷ, chiếm tỷ trọng 6%.
Loại có kỳ hạn dưới 12 tháng đạt 1164 tỷ, tăng 852 Tỷ, chiếm tỷ trọng 77%.
- Trên 12 tháng đạt 256 tỷ, tăng 105 tỷ, chiếm tỷ trọng 17 %.
- Nếu tính theo thành phần kinh tế, so với năm 2003:
- Tiền gửi của TCKT, TCXH đạt 492 tỷ, chiếm tỷ trọng 33 %.
- Tiền gửi của dân cư đạt 157 tỷ, chiếm tỷ trọng 10 %.
- Tiền gửi TCTD 864 tỷ, chiếm tỷ trọng 57%
Nói chung:
Nguồn vốn tăng trưởng cao, đến 31/12 chỉ tiêu nguồn đã vượt xa so với kế
hoạch, tốc độ tăng trưởng gấp 2,5 lần nếu so với cùng thời điểm 2003. Về cơ cấu
nguồn, nguồn tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng chiếm tỷ trọng cao nhất (77%). Ở kỳ
hạn này chi phí rẻ hơn so với loại dài hạn song tính ổn định kém. Xét về thành phần,
chủ yếu là của TCTD, chiếm tỷ trọng 57%. Nguồn trên có thuận lợi là số dư lớn song
lãi suất thường cao. Nguồn từ khu vực dân cư giảm và chiếm tỷ trọng thấp. Nguyên
nhân chủ yếu do tâm lý của người dân lo ngại sự mất giá của đồng tiền trước các biến
động tăng giá tiêu dùng. Mặt khác, trên địa bàn có quá nhiều ngân hàng cạnh tranh.
Nhiều hình thức huy động vốn với lãi suất cao, đặc biệt các NHTMCP có mức lãi suất
cao hơn hẳn so với các NHTM NN. Nhiều kênh huy động vốn của các tổ chức khác
cũng được tăng cường như trái phiếu Chính phủ, Kho bạc, giáo dục… được phát hành
với lãi suất hấp dẫn đã thu hút hàng nghìn tỷ đồng từ dân cư. Nhiều ngân hàng nếu
không tăng được lãi suất thì dùng nhiều hình thức như khuyến mại, dự thưởng để thu
hút khách hàng.
Trong điều kiện gặp nhiều khó khăn về huy động vốn, Chi nhánh đã dùng nhiều
biện pháp, như áp dụng nhiều thể thức tiết kiệm (Tiết kiệm bậc thang luỹ tiền theo số
dư tiền gửi, theo thời gian gửi, Tiết kiệm gửi góp, Tiết kiệm dự thưởng), tăng cường
quảng cáo, tiếp thị… Nắm bắt được nhu cầu của các đơn vị trong thời gian “nhạy cảm”
cần chu chuyển vốn nhanh, chi nhánh đã huy động cả những kỳ hạn ngắn. Kết quả là
ngoài chỉ tiêu kế hoạch huy động đã hoàn thành vượt mức, Chi nhánh còn huy động
giúp TW vào thời điểm những tháng cuối năm.
2.1.2.2. Sử dụng vốn
Hoạt động đầu tư của ngân hàng No&PTNT Đông Hà Nội trong năm qua giữ
một vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, thu nhập từ lượng tín
dụng chiếm 90% tổng thu nhập của ngân hàng.
Nhờ có nguồn vốn lớn, ổn định ngân hàng đã áp dụng nhiều hình thức tín dụng
đa dạng và phong phú phù hợp với mỗi loại khách hàng như cho vay ngắn trung dài
hạn. Việc thu hút khách hàng vay vốn được gắn liền với thu hút khách hàng mở tài
khoản tiền gửi và thiết lập mối quan hệ lâu dài, thông qua biểu số liệu sau :
- Tình hình sử dụng vốn
Biểu 2: Tình hình sử dụng vốn
Đơn vị : tỷ đồng
Chỉ tiêu
Tăng giảm
31/12/2003 31/12/2004 Số t/đối Tỷ lệ %
Doanh số cho vay 444 1336 892 200%
Doanh số thu nợ 178 938 760 427%
Dư nợ 300 700 400 133%
(Nguồn số liệu : báo cáo tổng kết của chi nhánh ngân hàng No&PTNT Đông Hà
Nội)
Nhìn vào bảng trên ta thấy tình hình sử dụng vốn năm qua có sự tăng trưởng
mạnh. Doanh số cho vay tính đến 31/12/2004 đạt 1.336 tỷ đồng, tăng 200% so với cùng
thời điểm năm trước với số tuyệt đối là 892 tỷ. Công tác thu nợ được thực hiện song
song, đạt 938 tỷ đồng, tăng 427% so với năm 2003. Đó là do mục tiêu của ngân hàng là
an toàn vốn và có lợi nhuận. Dư nợ trong năm qua tăng 133% so với cùng thời điểm
năm trước điều này chứng tỏ rằng chi nhánh ngân hàng No&PTNT Đông Hà Nội đã
tích cực mở rộng đầu tư tín dụng.
2.1.2.3. Hoạt động kinh doanh đối ngoại
Nghiệp vụ thanh toán quốc tế (TTQT) đối với chi nhánh cón khá mới mẻ. Đây là
nghiệp vụ đặc biệt đòi hỏi ngoài trình độ nghiệp vụ cần phải có trang thiết bị, công
nghệ hiện đại mới đáp ứng được yêu cầu. Sau khi trụ sở 91 Lý Thường Kiệt ổn định,
phòng TTQT đã triển khai hàng loạt các biện pháp vừa xây dựng các quy trình nghiệp
vụ, vừa lập các đề án lắp đặt mua sắm trang thiết bị. Cho đến nay, mang thanh toán
Western Union, Swift… đã đi vào hoạt động và sắp tới hệ thống thanh toán thẻ sẽ được
đưa vào sử dụng.
Trong kinh doanh ngoại tệ, thời gian đầu cung ngoại tệ chủ yếu do Tài sản có
song dần từng bước chi nhánh đã tiếp cận được nhiều nguồn cung khác nhau như đã ký
được hợp đồng làm đại lý thu đổi ngoại tệ với 2 doanh nghiệp và ngay từ khi ký, trung
bình mỗi tháng đã mua được trên 130000 USD.
Tuy doanh số hoạt động chưa lớn so với các ngân hàng bạn, tỷ trọng từ nguồn
thu này chưa cao song doanh số và số lượng khách hàng tăng từng ngày. Tốc độ tăng
trưởng cao đã phần nào đánh gía được khả năng vươn lên trong công việc của cán bộ
thuộc mảng nghiệp vụ này.
2.1.2.4. Đổi mới công nghệ ngân hàng
Chi nhánh ngân hàng No&PTNT Đông Hà Nội tiếp tục thực hiện công cuộc đổi
mới hoạt động ngân hàng, đó là đổi mới về kỹ thuật, trang bị thêm máy móc thiết bị
phục vụ giao dịch với khách hàng nhanh chóng, chính xác và văn minh hơn năm trước
nối mạng phục vụ khách hàng lớn. Đổi mới về mặt nhân lực, nhất là cán bộ trẻ có năng
lực, nhiệt tình, có trình độ giao tiếp, đồng thời đổi mới phong cách giao dịch.
2.1.2.5. Công tác kiểm tra kiểm toán nội bộ
Công tác kiểm tra kiểm toán nội bộ đã được mgân hàng thực hiện nghiêm túc.
Trong năm qua ngân hàng đã kiểm tra được toàn bộ các hoạt động về tín dụng, công tác
kế toán ngân quỹ và các hoạt động khác. Qua kiểm tra các hoạt động việc thực hiện
theo đúng các quy định, công tác hạch toán kế toán đầy đủ, chính xác vầ kịp thời. chỉ
tiêu đảm bảo theo đúng chế độ hiện hành. các quy trình tín dụng được thực hiện đầy đủ.
Một số sai sót tồn tại đã chấn chỉnh và xử lý kịp thời, đảm bảo an toàn tài sản.
2.2. Thực trạng tín dụng trung – dài hạn tại Chi nhánh ngân hàng
No&PT Đông Hà Nội
Khi nền kinh tế ngày càng có xu hướng đổi mới đi lên nhờ sự nghiệp công
nghiệp hoá hiện - đại hoá thì tín dụng trung - đài hạn là đòi hỏi cấp thiết. Tuy nhiên tín
dụng trung - dài hạn trong các ngân hàng từ việc tìm nguồn đến việc nâng cao trình độ
hiểu biết toàn diện, sâu sắc trong nghiệp vụ cũng như các vấn đề liên quan áp dụng khi
xem xét, đánh giá doanh nghiệp, thẩm định dự án còn nhiều khó khăn. Bởi vì trong nền
kinh tế thị trường các doạnh nghiệp có vô vàn cách để vay được tiền mà ngân hàng
chưa chắc đã nhận ra. Chính vì vậy mà nghiệp vụ này không qúa dễ để mang lại hiệu
quả cho ngân hàng. Chi nhánh đã hiểu rõ được điều đó và đã có sự cải thiện nghiệp vụ
của mình, từ việc xác định nguồn cho vay trung dài đến việc thẩm định kiểm soát, xử lý
nợ quá hạn của mình. Chi nhánh đã khai thác tối đa các nguồn vốn trung - dài hạn cả
bằng VNĐ lẫn ngoại tệ, sử dụng các nguồn này như nguồn điều hoà của ngân hàng
No&PT Việt Nam. Chi nhánh đã mở rộng đầu tư trung dài hạn nhằm giúp các doanh
nghiệp trang bị lại máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ, tăng cường năng lực sản xuất
kinh doanh.
2.2.1. Tình hình tạo lập nguồn vốn để cho vay trung – dài hạn
Ngay từ những năm trước đây ngành ngân hàng No&PTNT đã đưa mục tiêu
nâng tỷ lệ cho vay trung dài hạn lên 45% so với tổng dư nợ. Đến nay mục tiêu này đã
được hoàn thành và hoàn thành vượt mức. Tuy nhiên, nguồn vốn cân đối cho vay trung
- dài hạn vẫn chưa được đảm bảo. Bởi vì, nguồn vốn cho vay trung - dài hạn của các
ngân hàng còn rất hạn chế. Tình hình thiếu vốn trung - dài hạn vẫn chưa có giải pháp
nào tối ưu, tất cả mới dừng lại ở giải pháp tình thế: Trích một phần nguồn vốn ngắn hạn
sang cho vay trung - dài hạn.
Nguồn vốn huy động chủ yếu tại chi nhánh ngân hàng No&PTNT Đông Hà Nội
là nguồn tiền gửi ngắn hạn từ các TCTD, TCKT, TCXH, dân cư thường có thời gian tối
đa là 1 năm nguồn này ổn định và lớn nhưng nếu trích quá nhiều từ nguồn này để cho