Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.09 MB, 93 trang )

y
o

c u -tr a c k

.c

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THANH GIANG

B¶o đảm quyền bào chữa của ng-ời bị buộc tội
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

LUN VN THC S LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018

.d o

m

o

w

w



w

.d o

C

lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w

w

N


O
W

!

h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w

m

h a n g e Vi
e


w

PD

XC

er

F-

c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k

.c

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THANH GIANG


B¶o đảm quyền bào chữa của ng-ời bị buộc tội
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

LUN VN THC S LUẬT HỌC

Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 8 38 01 04

Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Gia Lâm

HÀ NỘI - 2018

.d o

m

o

w

w

w

.d o

C


lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w

w

N

O
W

!

h a n g e Vi
e


N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w

m

h a n g e Vi
e

w

PD

XC

er


F-

c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k

.c

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.
Tơi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thanh Giang

.d o

m


o

w

w

w

.d o

C

lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w


w

N

O
W

!

h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w


m

h a n g e Vi
e

w

PD

XC

er

F-

c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k

.c

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU


1

Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO
CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG XÉT XỬ SƠ
THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

7

1.1. Khái niệm bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự

7

1.2. Ý nghĩa của bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.3

12

Mối quan hệ giữa bảo đảm quyền bào chữa với bảo đảm các quyền
khác của người bị buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

15

Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG VÀ THỰC TRẠNG
BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI
TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

2.1.


23

Quy định của pháp luật tố tụng hình sự để bảo đảm quyền bào chữa
của người bị buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

23

2.2. Thực trạng bảo đảm, kết quả đã đạt được, những tồn tại, hạn chế và
nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong việc bảo đảm quyền
bào chữa của người bị buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

43

Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA
CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ
ÁN HÌNH SỰ

58

3.1. Giải pháp lập pháp

58

3.2. Các giải pháp khác

64

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÀO


72

.d o

m

o

w

w

w

.d o

C

lic

k

to

bu

y
bu
to

k
lic
C

w

w

w

N

O
W

!

h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC

er


O
W

F-

w

m

h a n g e Vi
e

w

PD

XC

er

F-

c u -tr a c k

.c


y
o


c u -tr a c k

.c

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

HĐXX

: Hội đồng xét xử

TTHS

: Tố tụng hình sự

.d o

m

o

w

w

w


.d o

C

lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w

w

N

O
W


!

h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w

m

h a n g e Vi
e

w

PD


XC

er

F-

c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k

.c

DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
2.1


Thống kê số bị cáo có người bào chữa trong xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự tại Tịa án các cấp tại tỉnh Điện Biên

2.2

44

Số vụ án có người bào chữa được chỉ định trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Điện Biên các năm từ 2013-2017

45

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Số hiệu

Tên biểu đồ

Trang

biểu đồ
2.1

So sánh số lượng bị cáo có người bào chữa trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm tại tỉnh Điện Biên các năm từ 2013-2017

44

.d o


m

o

w

w

w

.d o

C

lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w


w

w

N

O
W

!

h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC

er

O
W

F-


w

m

h a n g e Vi
e

w

PD

XC

er

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

w

N
y
bu

k

to

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có và khách quan của mọi
người, được ghi nhận và bảo vệ bởi pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Ở Việt
Nam, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những giá trị bất biến về quyền con người được
ghi nhận trong Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, Công ước quốc tế về các quyền dân
sự và chính trị năm 1966 và những quy định về quyền công dân trong các bản Hiến
pháp trước đây, Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện rõ ràng nhất quan điểm về tôn trọng
và bảo đảm quyền con người và quyền công dân trong cả nội dung và kỹ thuật lập pháp.
Trong lĩnh vực tố tụng hình sự (TTHS), nơi mà các cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng tác động trực tiếp
đến quyền con người, quyền công dân thì những quyền này, đặc biệt là quyền của
người bị buộc tội trong đó có quyền bào chữa rất dễ bị xâm phạm. Ngày 02/01/2002,
Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 08-NQ/TW, xác định nhiệm vụ xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời gian tới địi hỏi cơng tác tư
pháp phải có những chuyển biến mạnh mẽ, phấn đấu thực hiện tốt mục tiêu nghiêm
minh, cơng bằng, dân chủ, trong đó đưa ra những quan điểm chung và chủ trương,
giải pháp cụ thể đối với việc cải cách, đổi mới các cơ quan tư pháp. Đối với công
tác bào chữa, Nghị quyết 08-NQ/TW đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề bảo đảm
quyền bào chữa qua việc nhấn mạnh vai trò của luật sư và xác định nhiệm vụ cho
các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm tốt nhất quyền bào chữa. Phán
quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ
sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào
chữa, bị cáo. Thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự những năm qua cho thấy, vẫn
cịn tồn tại tình trạng oan sai, xâm hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị buộc tội trong TTHS. Báo cáo kết quả giám sát về tình hình oan, sai

trong việc áp dụng pháp luật về hình sự, TTHS và việc bồi thường thiệt hại cho
người bị oan trong hoạt động TTHS của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho thấy,

.d o

m

w

o

m

o

.c

lic

1

lic
C
c u -tr a c k

w

w

.d o


w

w

w

C

k

to

bu

y

N

O
W

!

XC

er

O
W


F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

c u -tr a c k


w

N
y
bu
lic

nguyên nhân chính dẫn đến các trường hợp oan sai "Chủ yếu thuộc về lỗi chủ quan
của một số người tiến hành tố tụng (trình độ, năng lực yếu kém, trách nhiệm và đạo
đức nghề nghiệp hạn chế)…". Bên cạnh đó, một ngun nhân khác khơng kém phần
quan trọng được báo cáo nêu ra, đó là: "Khơng cử người bào chữa cho bị can chưa
thành niên; vi phạm quy định bảo đảm quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo… gần 80% vụ án hình sự hiện nay chưa có Luật sư tham gia nên chưa bảo
đảm tranh tụng để tránh oan, sai. Sự tham gia tố tụng của người bào chữa có trường
hợp khó khăn do người tiến hành tố tụng thực hiện không đúng quy định về cấp
Giấy chứng nhận bào chữa". Bên cạnh đó, một nguyên nhân rất quan trọng nữa là
các quy định pháp luật chưa thực sự thống nhất, còn chồng chéo, mâu thuẫn. Mặc
dù Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) Việt Nam đã trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ
sung, tuy nhiên mới chỉ phần nào khắc phục được những hạn chế, bất cập còn tồn
tại. Theo tinh thần của khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013, người bị bắt, tạm giữ,
tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (gọi chung là người bị buộc tội) có quyền
tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa, đây là quyền đặc thù của người bị buộc
tội, giúp họ có thể bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Trên cơ sở đó,
BLTTHS năm 2015 đã quy định bảo đảm bảo quyền bào chữa của người là một
nguyên tắc cơ bản của TTHS. Đồng thời xây dựng các chế định cụ thể giúp những
nội dung của nguyên tắc này được thực hiện. Việc nghiên cứu các quy định của
BLTTHS về vấn đề bảo đảm quyền bào chữa người bị buộc tội trong TTHS từ trước
đến nay vẫn là một vấn đề được giới khoa học pháp lý hết sức quan tâm, tập trung
nghiên cứu. Đã có khơng ít tác giả quan tâm, nghiên cứu về quyền bào chữa, bảo đảm
quyền bào chữa của người bị buộc tội trong TTHS. Tuy nhiên, chưa có một cơng trình

nào thật sự đi sâu nghiên cứu trực tiếp quyền bào chữa của người bị buộc tội trong
giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Để có cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về quyền bào
chữa của người bị buộc tội, cụ thể là trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên cả hai
phương diện lý luận và thực tiễn nhất là trong bối cảnh BLTTHS năm 2015 mới có
hiệu lực thi hành, tác giả đã chọn đề tài: "Bảo đảm quyền bào chữa của người bị
buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.

.d o

m

w

o

2

k

to
.c

C

m

o

.d o


w

w

w

w

w

C

lic

k

to

bu

y

N

O
W

!

XC


er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c



h a n g e Vi
e

w

N
y
bu
k

to

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, có khá nhiều cơng trình nghiên cứu đề cập đến quyền
bào chữa của bị can, bị cáo trong TTHS, trong đó phần lớn hướng đến vấn đề đảm
bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo; địa vị pháp lý của bị can, bị cáo; vai trò của
luật sư bào chữa trong việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo v.v… Có thể chia các cơng trình nghiên cứu liên quan đến quyền bào chữa
của người bị buộc tội, mà cụ thể là bị can, bị cáo thành các nhóm sau:
- Những nghiên cứu có tính lý luận chung có liên quan như: Bảo vệ quyền
con người trong tố tụng hình sự và một số đề xuất về hồn thiện pháp luật, Tạp chí
Luật học, số 1/2011, của Hồ Sỹ Sơn; TS. Nguyễn Văn Tuân (2015) với cuốn sách
Một số vấn đề về luật tố tụng hình sự Việt Nam; PGS.TS Nguyễn Hịa Bình (2016)
với cuốn sách Những nội dung mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Bài
tham luận của TS. Nguyễn Văn Tuân (2016) tại Hội thảo Những điểm mới của
BLTTHS năm 2015 do Trường Đại học Luật Hà Nội tổ chức tháng 06/2016 với tiêu
đề Những nguyên tắc cơ bản trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, v.v… Đây
điều là những nghiên cứu có tính lý luận, bao qt một cách khá toàn diện các vấn
đề cơ bản của TTHS Việt Nam, có giá trị tham khảo cao trong q trình nghiên cứu
luận văn của tác giả.

- Những nghiên cứu có liên quan đến quyền bào chữa, địa vị pháp lý của
người bị buộc tội có thể kể đến như: Luận văn thạc sĩ của Trần Thị Thanh Thúy
(2013): Quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội; TS. Lương Thị Mỹ Quỳnh (2013) với cuốn sách
Quyền có người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Hoa Kỳ; Nguyễn
Thị Hà Linh (2016), Quyền bào chữa của người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội…
Ngồi ra, cịn có các bài viết trên các tạp chí khoa học về vấn đề này, như: Về
nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, của Phan
Trung Hồi, Tạp chí Kiểm sát, số 6/2007; Sự tham gia bắt buộc của người bào chữa
trong tố tụng hình sự, của Nguyễn Thái Phúc, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4/2007;

.d o

m

w

o

m

o

.c

lic

3


lic
C
c u -tr a c k

w

w

.d o

w

w

w

C

k

to

bu

y

N

O
W


!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k


.c


h a n g e Vi
e

w

N
y
bu
k

to

Hoạt động bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, của Phan Thị Thanh Mai, Tạp
chí Luật học, số 7/2015,… Các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã đi sâu phân tích
các quy định của pháp luật hiện hành về quyền bào chữa, địa vị pháp lý của người
bị buộc tội, từ đó chỉ ra thực trạng thực hiện các quy định này, đồng thời đề xuất
giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện quyền của người bị buộc tội, bao gồm cả
quyền bào chữa trên thực tế.
- Những nghiên cứu trực tiếp về quyền bào chữa của người bị buộc tội
trong giai đoạn xét xử, cụ thể là bị can, bị cáo có thể kể tới như: "Bảo đảm quyền
bào chữa của người bị buộc tội" của Phạm Hồng Hải, Nxb Công an nhân dân, năm
1999; Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự, Luận án
tiến sĩ Luật học, của Hoàng Thị Minh Sơn (2003)… Đây là những cơng trình nghiên
cứu đề cập trực tiếp đến quyền bào chữa của bị can, bị cáo song do thời gian nghiên
cứu đã lâu, phần nào khơng cịn đáp ứng được yêu cầu thực tiễn pháp luật về quyền
bào chữa của bị can, bị cáo. Nguyễn Huy Cường (2013): Quyền bào chữa của

người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam, là một cơng trình nghiên cứu gần đây song chỉ dừng ở quyền bào
chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên.
- Một số bài viết đăng trên các tạp chí khoa học có thể kể tới như: Quyền
bào chữa và việc đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự,
của Nguyễn Văn Trượng, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 12/2009; Bài 6 tham
luận của Trương Hồ Hải, Lê Thị Oanh (2014) về Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số
điều luật trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003 liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa
của bị cáo và bị hại tại phiên tịa hình sự theo tinh thần Hiến pháp 2013, tại Hội
thảo: "Hiến pháp 2013 và vấn đề đổi mới tố tụng hình sự ở Việt Nam", An Giang
30/5/2014; Tác giả Tôn Thiện Phương (2015) với bài viết "Quyền bào chữa của
người bị buộc tội trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015", Tạp chí Kiểm sát, số 10
(tháng 5/2015), v.v… Các bài viết kể trên đã đề cập phần nào đến quyền bào chữa
của bị can, bị cáo. Song hầu hết các bài nghiên cứu được thực hiện trước khi
BLTTHS năm 2015 ra đời và có hiệu lực thi hành nên chưa đề cập đến việc bảo

.d o

m

w

o

m

o

.c


lic

4

lic
C
c u -tr a c k

w

w

.d o

w

w

w

C

k

to

bu

y


N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD


F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

w

N
y
bu
k

to

đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử sơ thẩm theo quy
định của BLTTHS năm 2015. Trong bối cảnh BLTTHS năm 2015 đề cao nguyên
tắc bảo vệ quyền con người, quyền cá nhân, việc nghiên cứu đề tài "Bảo đảm quyền
bào chữa của người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự" là hết sức
cần thiết, phù hợp với chiến lược cải cách tư pháp, đặc biệt là trong lĩnh vực TTHS.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Luận văn phải giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền bào chữa của người bị
buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
- Làm rõ những quy định của pháp luật TTHS hiện hành về bảo đảm quyền

bào chữa của người bị buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
- Làm rõ thực tiễn thực hiện các quy định về bảo đảm quyền bào chữa của
người bị buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; những hạn chế, vướng mắc
trong bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội và nguyên nhân của những
hạn chế, vướng mắc đó
- Đề xuất được những giải pháp nào bảo đảm thực hiện tốt quyền bào chữa
của người bị buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về bảo
đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, quy
định của pháp luật TTHS nhằm bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và thực trạng thực hiện bảo đảm quyền bào chữa
của người bị buộc tội trong xét xử vụ án hình sự.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung làm rõ khái niệm khoa học về
bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự,
ý nghĩa của bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự. Nghiên cứu quy định của BLTTHS năm 2015 có so sánh với quy định
của BLTTHS năm 2003 về bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự, thực trạng bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội

.d o

m

w

o

m


o

.c

lic

5

lic
C
c u -tr a c k

w

w

.d o

w

w

w

C

k

to


bu

y

N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC


er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

w

N
y
bu
k

to

trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Điện Biên nói riêng trong
khoảng thời gian từ năm 2013 đến năm 2017. Luận văn cũng tham khảo ở mức độ
nhất định thực trạng bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự ở nước ta nói chung.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Tác giả đã sử dụng các

phương pháp cụ thể như phân tích, tổng hợp, phương pháp nghiên cứu lịch sử,
phương pháp so sánh, phương pháp phân loại và hệ thống hóa… để nghiên cứu bảo
đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn
Luận văn góp phần bổ sung những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền bào
chữa của người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, làm rõ các quy
định của pháp luật TTHS Việt Nam về bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc
tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, làm rõ thực trạng thực hiện bảo đảm quyền
bào chữa của người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự và đề xuất một
số giải pháp góp phần bảo đảm thực hiện bảo đảm quyền bào chữa của người bị
buộc tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung cùa
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền bào chữa của người bị
buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng và thực trạng bảo đảm quyền bào
chữa của người bị buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm bảo đảm quyền bào chữa của người bị
buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

.d o

m

w

o

m


o

.c

lic

6

lic
C
c u -tr a c k

w

w

.d o

w

w

w

C

k

to


bu

y

N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!


XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

w

N
y
bu
k

to

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA
CỦA NGƢỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm bảo đảm quyền bào chữa của ngƣời bị buộc tội trong
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Quyền bào chữa của người bị buộc tội được ghi nhận khá sớm trong pháp
luật nước ta. Điều 67 Hiến pháp năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa quy định: "Người bị cáo được quyền tự bào chữa hoặc mượn
luật sư". Những bản Hiến pháp tiếp theo đều quy định quyền bào chữa của bị cáo. Kế
thừa các bản Hiến pháp trước, Hiến pháp năm 2013 quy định rõ hơn về quyền bào
chữa. Tại khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: "Người bị bắt, tạm giữ,
tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc
người khác bào chữa". Theo đó, Hiến pháp năm 2013 đã mở rộng phạm vi các đối tượng
được đảm bảo quyền bào chữa, không chỉ bị cáo mới có quyền bào chữa như các bản
Hiến pháp trước đây, mà cả người bị bắt, bị tạm giữ cũng được quy định quyền này.
Bộ luật TTHS năm 2015 cũng đã sử dụng thuật ngữ pháp lý mới: "Người bị
buộc tội", thuật ngữ thường chỉ được sử dụng trong các cơng trình nghiên cứu khoa
học pháp lý trước đây, theo đó, "người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo"1.
Trên cơ sở cụ thể hóa nguyên tắc quy định tại Điều 31 Hiến pháp năm
2013, Điều 16 BLTTHS năm 2015 quy định về bảo đảm quyền bào chữa của người
bị buộc tội như sau: "Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc
người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách
nhiệm thơng báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực
hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của
Bộ luật này". Trong những trường hợp luật định, nếu người buộc tội hoặc người đại
diện của họ khơng mời người bào chữa thì các cơ quan nói trên phải yêu cầu chỉ
1. Điều 4. Giải thích từ ngữ của BLTTHS năm 2015.

.d o

m

w


o

m

o

.c

lic

7

lic
C
c u -tr a c k

w

w

.d o

w

w

w

C


k

to

bu

y

N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e


!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

w

N
y
bu
k

to

định người bào chữa cho họ. Mặt khác, để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được
khách quan, tồn diện và đầy đủ, khơng để lọt người phạm tội, không làm oan

người vô tội thì việc bảo đảm quyền bào bào chữa của người bị buộc tội là cần thiết,
giúp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có điều kiện tốt nhất để xác định sự
thật khách quan của vụ án. Hơn nữa, theo yêu cầu của nguyên tắc xác định sự thật
của vụ án, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, nhiệm vụ của các cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng không chỉ là xác định các tình tiết buộc tội, các tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mà cịn phải xác định cả các tình tiết gỡ tội, các
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm bảo đảm
quyền bào chữa của người bị buộc tội (bị can, bị cáo) chính là một phương thức
giúp Tịa án giải quyết vụ án được chính xác, khách quan.
Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự có quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của
mình hoặc nhờ người khác bảo vệ lợi ích của mình nhưng xét về bản chất, đó khơng
phải là việc bào chữa. BLTTHS năm 2015 cũng như các văn bản pháp lý liên quan
chưa có sự giải thích chính thức như thế nào là quyền bào chữa. Tuy nhiên, qua
nghiên cứu lý luận và thực tiễn, chúng tôi thấy nội hàm quyền bào chữa của người
bị buộc tội bao gồm những vấn đề sau:
Về nội dung: Bào chữa là tất cả các hoạt động của người bị buộc tội và
người bào chữa từ khi có sự buộc tội đến khi bản án, quyết định của Tịa án có hiệu
lực pháp luật. Thông qua hành vi cụ thể, họ sử dụng các quyền luật định để làm
sáng tỏ những tình tiết chứng minh cho sự vơ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự cũng như những tình tiết khác có lợi cho người bị buộc tội. Đó có thể là
hành vi tố tụng hướng tới việc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội của cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc đưa ra chứng cứ nhằm làm giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự hay bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp được pháp luật bảo
vệ của người bị buộc tội kể cả khi chúng không trực tiếp liên quan tới việc làm giảm
trách nhiệm hình sự trong vụ án.
Về vị trí của quyền bào chữa: Bào chữa là một trong những chức năng cơ
bản của TTHS, đối trọng với chức năng buộc tội của cơ quan có thẩm quyền tiến

.d o


m

w

o

m

o

.c

lic

8

lic
C
c u -tr a c k

w

w

.d o

w

w


w

C

k

to

bu

y

N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w


PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

w

N
y
bu
k


to

hành tố tụng. Chính sự đối trọng này đảm bảo cho hoạt động TTHS được dân chủ,
khách quan. Chúng tơi đồng tình với quan điểm cho rằng "Có buộc tội mà khơng có
bào chữa thì hoạt động tố tụng sẽ mang tính chất một chiều và kết buộc chứ không
phải là tranh tụng. Tố tụng hình sự khơng thể được thừa nhận là dân chủ khi chức
năng buộc tội khơng có đối trọng là chức năng bào chữa…".
Về thời điểm bắt đầu và kết thúc quyền bào chữa: Quyền bào chữa xuất
hiện từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người, có quyết định tạm giữ
hoặc từ khi khởi tố bị can. Quyền bào chữa kết thúc khi vụ án được xét xử và bản án
có hiệu lực pháp luật. Trong một số trường hợp đặc biệt, khi những căn cứ của việc
buộc tội khơng cịn, các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ điều tra, đình
chỉ vụ án thì quyền bào chữa sẽ kết thúc sớm hơn.
Về chủ thể: Quyền bào chữa không chỉ thuộc về bị can, bị cáo mà cịn thuộc
về người bị tình nghi phạm tội, tức là những người bị bắt, bị tạm giữ nhưng chưa bị
khởi tố. Như vậy, chủ thể của quyền bào chữa là người bị buộc tội, bao gồm người
bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Vậy quyền bào chữa của người bị buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự là gì? Để làm rõ khái niệm này, trước hết cần phải hiểu "Quyền" là gì? "Bào
chữa" là gì và "Người bị buộc tội" bao gồm những người nào?
Theo Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2004, thì quyền là điều mà pháp
luật hoặc xã hội cơng nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi2.
Cũng theo Từ điển tiếng Việt - Nxb Đà Nẵng 2004 thì "bào chữa" được
hiểu là: dùng lý lẽ và chứng cớ để bênh vực cho một bên đương sự nào đó thuộc
một vụ án hình sự hay dân sự trước tịa án hoặc cho việc nào đó bị lên án 3. Đây là
cách hiểu bào chữa theo nghĩa rộng và về cơ bản độ chuẩn xác chưa thực sự bảo
đảm và thừa nhận rộng rãi. Bởi lẽ thuật ngữ "bào chữa" thường được đặt trong mối
quan hệ với việc "buộc tội" trong TTHS chứ không sử dụng trong tố tụng dân sự.
Chúng tôi cho rằng bào chữa là một thuật ngữ chỉ dùng trong TTHS. Đây là việc
2. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr. 815.

3. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Sđd, tr. 38.

.d o

m

w

o

m

o

.c

lic

9

lic
C
c u -tr a c k

w

w

.d o


w

w

w

C

k

to

bu

y

N

O
W

!

XC

er

O
W


F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

w

N

y
bu
k

to

dùng lý lẽ và chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội
chống lại sự buộc tội từ phía cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Về khái niệm người bị buộc tội, tại điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm
2015 có xác định như sau: Người bị buộc tội gồm người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Xuất phát từ những vấn đề nghiên cứu trên, có thể đưa ra khái niệm: Quyền
bào chữa của người bị buộc tội trong TTHS là điều mà người bị bắt, bị tạm giữ, bị
can, bị cáo hưởng, được làm, được đòi hỏi trong các giai đoạn khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử theo quy định của pháp luật nhằm chứng minh sự vô tội hoặc làm
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mình.
Người bị buộc tội bao gồm những người tham gia tố tụng với các tư cách
khác nhau tùy vào giai đoạn tố tụng cụ thể. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm người bị
buộc tội gồm bị can, bị cáo. Vì vậy quyền bào chữa của người bị buộc tội trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm chính là quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Do đó, theo chúng
tơi: Quyền bào chữa của người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự là điều mà bị can, bị cáo hưởng, được làm, được đòi hỏi từ khi Tòa án nhận
hồ sơ vụ án và quyết định truy tố của Viện kiểm sát chuyển sang cho đến khi hết
thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm chứng minh sự
vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mình.
Theo Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2004, thì "Bảo đảm" được hiểu là:
làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết 4.
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự là việc làm cho những điều mà bị can, bị cáo được hưởng, được làm, được địi
hỏi nhằm chứng minh sự vơ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mình
được thực hiện từ khi tòa án nhận hồ sơ vụ án và quyết định truy tố từ Viện kiểm sát

chuyển sang đến hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm.
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội đã được quy định trong
Hiến pháp và được cụ thể hóa thành nguyên tắc cơ bản của TTHS (Điều 16
BLTTHS năm 2015). Nguyên tắc này quy định người bị buộc tội (gồm người bị bắt,
4. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Sđd, tr. 38.

.d o

m

w

o

m

o

.c

lic

10

lic
C
c u -tr a c k

w


w

.d o

w

w

w

C

k

to

bu

y

N

O
W

!

XC

er


O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e


w

N
y
bu
k

to

bị tạm giữ, bị can, bị cáo) có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào
chữa theo quy định của pháp luật và việc pháp luật quy định địa vị pháp lý của bị
bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bào chữa (quyền và nghĩa vụ) trong TTHS,
trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là chính là những
biện pháp quan trọng để làm cho (bảo đảm) thực hiện quyền đó.
Từ khái niệm bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm ta có thể rút ra những nội dung của những bảo đảm này như sau:
Thứ nhất, Nhà nước bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội bằng
các quy định pháp luật mà cụ thể là quy định về quyền của người bị buộc tội, người
được người bị buộc tội lựa chọn hay được chỉ định theo quy định của pháp luật
nhằm thực hiện việc bào chữa (trong các điều luật quy định về tư cách tham gia tố
tụng, quyền và nghĩa vụ của họ).
Thứ hai, Nhà nước quy định trách nhiệm đảm bảo quyền bào chữa của
người bị buộc tội đối với từng cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
trong BLTTHS và các đạo luật khác. Trong đó thể hiện rõ:
- Sự bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội từ phía các cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng bao gồm:
Quy định quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án, của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và những người tiến hành
tố tụng khác trong việc bảo đảm, tạo điều kiện cho người bị bắt, tạm giữ, bị can, bị

cáo tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
- Quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng phải giải thích cho người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo về quyền bào
chữa, tạo điều kiện cho bị can, bị cáo nhờ người bào chữa, yêu cầu cử người bào
chữa trong trường hợp quy định.
- Quy định cụ thể về địa vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ của người bào chữa
trong quá trình tham gia tố tụng. Yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật, tôn trọng và tạo điều kiện để
người bào chữa thực hiện quyền tố tụng, trong đó "các cơ quan tư pháp có trách

.d o

m

w

o

m

o

.c

lic

11

lic
C

c u -tr a c k

w

w

.d o

w

w

w

C

k

to

bu

y

N

O
W

!


XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c



h a n g e Vi
e

w

N
y
bu
k

to

nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị
can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa…"; và các quy định
khác nhằm: "Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, đảm bảo
tranh tụng dân chủ giữa Kiểm sát viên tại phiên tòa với luật sư, người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác", để phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu
vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng
cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo.
1.2. Ý nghĩa của bảo đảm quyền bào chữa của ngƣời bị buộc tội trong
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.2.1. Ý nghĩa chính trị
Việc quy định quyền bào chữa của người bị buộc tội nói chung và người bị
buộc tội trong xét xử sơ vụ án hình sự nói riêng mang ý nghĩa chính trị sâu sắc. Một
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh được thể hiện thông qua việc ghi nhận, mở
rộng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trên thực tế. Trong các quyền cơ
bản của cơng dân thì các quyền về chính trị thể hiện rõ nhất tính dân chủ của chế độ
ta. Quy định bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội thể hiện sự đảm bảo

quyền công dân và quyền con người trong quá trình tham gia tố tụng, góp phần tích
cực bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, giúp Tòa án ra một bản án đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, hạn chế việc chỉ thiên về buộc tội và xem xét một chiều, là chế
định thể hiện rõ nét nhất của xã hội dân chủ.
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự là nội dung quan trọng trong chính sách vì con người của Đảng và Nhà
nước ra, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng dưới ánh sáng Nghị quyết của Đảng, pháp
luật của Nhà nước về việc tiếp tục dân chủ hóa cơng tác xét xử và tăng cường bảo
vệ quyền con người, quyền công dân trên cơ sở tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên
tắc TTHS của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, tạo nền móng vững chắc cho
cơng cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhìn vào thực trạng
pháp luật và thực trạng thực hiện hoạt động bào chữa trong TTHS ở một số quốc gia
ít nhiều có thể đánh giá được quan điểm, chính sách của đảng cầm quyền và quan

.d o

m

w

o

m

o

.c

lic


12

lic
C
c u -tr a c k

w

w

.d o

w

w

w

C

k

to

bu

y

N


O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-


c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

w

N
y
bu
k

to

điểm chính trị của giới lãnh đạo của nhà nước đó về vấn đề quyền con người trong
TTHS, đặc biệt là bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội. Trong tiến trình
cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam,
Đảng ta rất chú trọng đến việc tăng cường tranh tụng dân chủ trong TTHS và tăng
cường hoạt động bào chữa. Hoạt động bào chữa đáp ứng yêu cầu của Nhà nước
pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước pháp quyền địi hỏi
phải bảo đảm tơn trọng pháp luật, tạo được ý thức coi trọng pháp luật, chống lại sự
tùy tiện của những người có quyền, xác định đúng đắn trách nhiệm qua lại giữa Nhà
nước và công dân và việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được
coi là yêu cầu trung tâm của nội dung của nhà nước pháp quyền. Nhà nước có trách
nhiệm tạo khung pháp lý và những điều kiện cần thiết khác để người bị buộc tội và
người bào chữa của họ thực hiện hoạt động bào chữa hiệu quả, phù hợp với yêu cầu

của xã hội, của nhà nước pháp quyền. Ngược lại, hoạt động bào chữa góp phần thực
hiện các địi hỏi nói trên của nhà nước pháp quyền. Bằng hoạt động bào chữa, người
bị buộc tội và người bào chữa góp phần vào việc đảm bảo pháp chế, bảo đảm pháp
luật được tôn trọng và thực thi một cách nghiêm chỉnh, góp phần bảo đảm quyền
con người trong TTHS.
1.2.2. Ý nghĩa xã hội
Việc BLTTHS quy định chi tiết các quyền của người bị buộc tội, trong đó
quan trọng nhất là bảo đảm quyền bào chữa tạo điều kiện cho người bị buộc tội có
điều kiện đưa ra các lý lẽ, chứng cứ, tài liệu nhằm chứng minh sự vơ tội hoặc giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình. Đồng thời thể hiện sự tôn trọng việc bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, nâng cao hơn nữa trách nhiệm của cơ quan
tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Quy định bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong giai đoạn xét
xử vụ án hình sự đảm bảo sự đối trọng trong hoạt động TTHS, giữa một bên là
người bị buộc tội với bên buộc tội là các cơ quan tiến hành tố tụng, đại diện thực
hiện quyền lực nhà nước. Quyền bào chữa góp phần bảo đảm cho công lý được thực
thi, bảo đảm việc thực hiện công bằng, dân chủ trong TTHS, không làm oan người

.d o

m

w

o

m

o


.c

lic

13

lic
C
c u -tr a c k

w

w

.d o

w

w

w

C

k

to

bu


y

N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er


PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

w

N
y
bu
k

to

vơ tội, qua đó bảo đảm cơng bằng xã hội. Có thể nói, quyền bào chữa là cơ sở quan
trọng mà pháp luật trao cho người bị buộc tội, giúp họ bảo vệ một cách tốt nhất
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đồng thời, trách nhiệm bảo đảm thực hiện
quyền bào chữa thuộc về phía các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng. Điều này đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải
luôn tuân thủ các quy định pháp luật về bảo đảm quyền bào chữa cho người bị buộc
tội, có tác dụng hạn chế sự lạm quyền và vi phạm pháp luật của cơ quan, người tiến
hành tố tụng. Làm được điều này, hiệu lực pháp luật sẽ được củng cố, pháp chế xã

hội chủ nghĩa sẽ được tăng cường, đồng thời, nâng cao uy tín của bộ máy nhà nước
mà đại diện là các cơ quan bảo vệ pháp luật, giúp củng cố lòng tin của nhân dân vào hệ
thống tư pháp hình sự, vào pháp luật và Nhà nước, góp phần ổn định trật tự xã hội.
1.2.3. Ý nghĩa thực tiễn
Bị can, bị cáo tham gia tố tụng với tư cách người bị buộc tội, có vị trí trung
tâm trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Họ là đối tượng bị pháp luật coi là
những người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị áp dụng các biện pháp
cưỡng chế hình sự, do đó, họ dễ bị xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp đến từ phía
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Việc quy định rõ quyền bào
chữa của người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử là căn cứ pháp lý vững chắc để
người bị buộc tội thực hiện một cách có hiệu quả quyền bào chữa trong giai đoạn
xét xử vụ án hình sự, khơng chỉ là cách hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị buộc tội mà cịn góp phần quan trọng trong việc xác định sự thật
của vụ án, đảm bảo việc giải quyết vụ án khách quan, tồn diện, đầy đủ và đúng
pháp luật. Thơng qua việc thực hiện quyền bào chữa, người bị buộc tội đã góp phần
tích cực vào việc thực hiện các nhiệm vụ của TTHS là phòng ngừa, ngăn chặn tội
phạm, phát hiện nhanh chóng và xử lý cơng minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vơ tội; góp phần bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, tổ
chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa; giáo dục ý thức tuân theo pháp luật,
đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

.d o

m

w

o


m

o

.c

lic

14

lic
C
c u -tr a c k

w

w

.d o

w

w

w

C

k


to

bu

y

N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!


XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

w

N
y
bu
k

to

Trên cơ sở quy định đầy đủ quyền bào chữa của người bị buộc tội trong giai
đoạn xét xử vụ án hình sự, BLTTHS sẽ tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho bị can, bị
cáo khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS, giúp họ bảo vệ được quyền lợi hợp
pháp của mình. Đồng thời, việc quy định quyền bào chữa của người bị buộc tội

trong giai đoạn xét xử cũng đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng phải nâng cao hơn nữa trách nhiệm, nghĩa vụ trong việc bảo đảm quyền bào
chữa của người bị buộc tội; là căn cứ pháp lý để phát sinh nhiệm vụ và xác định
trách niệm của Tòa án trong việc bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của người bị
buộc tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.
1.3. Mối quan hệ giữa bảo đảm quyền bào chữa với bảo đảm các quyền
khác của ngƣời bị buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.3.1. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong mối quan hệ
với quyền được suy đốn vơ tội
Ngun tắc suy đốn vơ tội nâng cao năng lực và trách nhiệm chứng minh
trong TTHS, loại trừ trường hợp chỉ chứng minh một chiều theo hướng suy đốn có
tội và định kiến người bị buộc tội. Ngun tắc suy đốn vơ tội còn bảo vệ được
quyền của người bị buộc tội, đem đến sự cân bằng trong hoạt động TTHS giữa một
bên là các cơ quan tiến hành tố tụng với chức năng buộc tội và một bên là người bị
buộc tội với chức năng bào chữa. Đây là nguyên tắc tiến bộ, thể hiện chính sách
nhân đạo của pháp luật TTHS và lợi ích của người bị truy cứu trách nhiệm hình sự
và xác định trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong
việc chứng minh tội phạm.
Hiến pháp và các văn bản pháp lý trước đây cũng đã có quy định một hoặc
một số nội dung thuộc nội hàm của ngun tắc suy đốn vơ tội. Trong Hiến pháp
sửa đổi, bổ sung năm 2001 nội dung của ngun tắc suy đốn vơ tội quy định tại
Điều 72 Chương V của Hiến pháp với tên gọi của chương là "Quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân": "Khơng ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản
án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố,
xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi

.d o

m


w

o

m

o

.c

lic

15

lic
C
c u -tr a c k

w

w

.d o

w

w

w


C

k

to

bu

y

N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD


h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

c u -tr a c k

w

N
y
bu
lic


danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt
hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh". BLTTHS năm 2015 cũng quy định:
"Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can,
bị cáo có quyền nhưng khơng buộc phải chứng minh là mình vô tội".
Quy định của Hiến pháp năm 2013, tinh thần của ngun tắc quy đốn vơ
tội đã được thể hiện rõ tại khoản 1 Điều 31: "Người bị buộc tội được coi là khơng
có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của
Tịa án đã có hiệu lực pháp luật". Cụ thể hóa tinh thần Hiến pháp năm 2013, Điều 13
BLTTHS năm 2015 lần đầu tiên quy định nguyên tắc suy đốn vơ tội: "Người bị
buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục
do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình
tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng phải kết luận người bị buộc tội khơng có tội".
Bộ luật TTHS năm 2015 là văn bản pháp lý đầu tiên ghi nhận chính thức
ngun tắc suy đốn vơ tội. Quy định như trên nhằm bảo đảm phù hợp với Công
ước của Liên hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 mà Việt Nam là
thành viên. Nguyên tắc này có mối quan hệ mật thiết với nguyên tắc bảo đảm quyền
bào chữa, cũng như bảo đảm quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo được
trình bày lời khai, trình bày ý kiến, khơng buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính
mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Quy định này giúp bảo đảm các quyền của
người bị buộc tội trong đó có quyền bào chữa, đồng thời cũng làm cho trách nhiệm
của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng được nâng lên.
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong xét xử sơ thẩm có
quan hệ chặt chẽ với quyền được suy đốn vơ tội. Bởi vì, nếu đã bị coi là có tội
ngay từ khi chưa xét xử thì việc thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội chỉ
cịn là hình thức. Ngồi việc bảo đảm cho người bị buộc tội tự bào chữa bằng việc
tạo điều kiện thuận lợi để họ thực hiện các quyền luật định như đưa ra chứng cứ, tài
liệu, đồ vật, yêu cầu… để chứng minh sự vô tội, giảm nhẹ tội thì việc bảo đảm


.d o

m

w

o

16

k

to
.c

C

m

o

.d o

w

w

w

w


w

C

lic

k

to

bu

y

N

O
W

!

XC

er

O
W

F-


w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

w

N
y

bu
k

to

thuận lợi cho việc tham gia tố tụng của người bào chữa là vô cùng cần thiết. Bởi vì,
người bào chữa là người được đào tạo chuyên nghiệp về nghiệp vụ bảo vệ các
quyền và lợi ích chính đáng của bị can, bị cáo. Sự có mặt của người bào chữa trong
giai đoạn xét xử, nhất là tại phiên tòa nhằm đưa ra các luận cứ chứng minh sự vô tội
của bị cáo hoặc đưa ra các lập luận bác bỏ quan điểm của Viện kiểm sát về tội danh
cũng như các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mà Viện kiểm sát buộc tội.
Đảm bảo quyền bào chữa là cơ sở quan trọng để bảo vệ quyền con người trong đó
có quyền được "suy đốn vơ tội". Vì vậy, trong giai đoạn xét xử Tịa án có trách
nhiệm bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo bao gồm quyền tự bào chữa hoặc
nhờ luật sư, người khác bào chữa hoặc yêu cầu chỉ định người bào cho bị can, bị
cáo theo quy định của pháp luật tố tụng. Muốn bảo đảm quyền bào chữa cho bị can,
bị cáo, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm đòi hỏi Thẩm phán khi nghiên cứu hồ sơ, Hội
đồng xét xử (HĐXX) khi xét xử vụ án tại phiên tòa phải quán triệt đầy đủ nội dung
của ngun tắc "suy đốn vơ tội" để tránh bỏ qua các cơ hội để bị can, bị cáo gỡ tội
hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của họ.
1.3.2. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong mối quan hệ
với quyền được chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ tội
Xác định sự thật khách quan là mục đích của q trình giải quyết vụ án hình
sự, là một nguyên tắc cơ bản xuyên suốt các giai đoạn TTHS. Theo quy định tại
Điều 15 BLTTHS 2015 thì "Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng khơng buộc phải
chứng minh mình là vô tội.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án
một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và

chứng cứ xác định vơ tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
của người bị buộc tội".
Nội dung nguyên tắc xác định sự thật vụ án cần được hiểu như một yêu cầu
của pháp luật đối với các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, phải có thái độ

.d o

m

w

o

m

o

.c

lic

17

lic
C
c u -tr a c k

w

w


.d o

w

w

w

C

k

to

bu

y

N

O
W

!

XC

er


O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e


w

N
y
bu
k

to

làm việc khách quan, toàn diện trong việc tìm kiếm và đánh giá chứng cứ. Trong
quá trình điều tra, truy tố, xét xử, những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải
tuân thủ các quy định của pháp luật, phải căn cứ vào điều kiện cụ thể của vụ án để
có quyết định chính xác trong những tình huống giữa có tội và khơng có tội, áp
dụng trách nhiệm hình sự hay miễn trách nhiệm hình sự. Việc đưa ra chứng cứ, lý lẽ
để chống lại sự buộc tội, chứng minh mình vơ tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự của người bị buộc tội vừa là nội dung vừa là mục đích của việc bào chữa. Vì vậy,
đảm bảo quyền bào chữa cũng chính là việc làm cho quyền của người bị buộc tội
được chứng minh là mình vơ tội theo ngun tắc xác định sự thật của vụ án trở
thành hiện thực. Việc đưa ra các chứng cứ, tài liệu, lý lẽ để bào chữa cũng đồng thời
là việc thực hiện quyền chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
của người bị buộc tội trong TTHS nói chung và của bị can, bị cáo trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm nói riêng.
1.3.3. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong mối quan hệ
với bảo đảm tranh tụng dân chủ, công khai, công bằng trong xét xử
Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên đưa nguyên tắc tranh tụng vào trong hoạt
động xét xử. Tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp quy định: "Nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử được đảm bảo". Đây là một nguyên tắc quan trọng giúp đảm bảo quyền
bào chữa của bị cáo được thực thi trên thực tế. Đồng thời đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ
với Viện kiểm sát, hướng tới việc thực hiện tranh tụng cơng khai, bình đẳng, nhằm
giải quyết vụ án khách quan, toàn diện.

Trên nền tảng nguyên tắc Hiến định, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung nguyên
tắc "Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm" (Điều 26). Đây là căn cứ pháp lý quan
trọng để đảm bảo quyền bào chữa, thể hiện cụ thể ở các nội dung sau: "Trong quá
trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có
thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc, người bào chữa và người tham gia tố
tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ,
đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án Tài liệu, chứng cứ trong hồ
sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp .

.d o

m

w

o

m

o

.c

lic

18

lic
C
c u -tr a c k


w

w

.d o

w

w

w

C

k

to

bu

y

N

O
W

!


XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c



h a n g e Vi
e

w

N
y
bu
k

to

Phiên tòa xét xử vụ án hình sự phải có mặt đầy đủ những người theo quy định của
Bộ luật này , trường hợp vắng mặt phải vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại
khách quan hoă ̣c trường hơ ̣p khác do Bơ ̣ l ̣t này quy đinh
. Tịa án có trách nhiệm
̣
tạo điều kiện cho Kiểm sát viên , bị cáo, người bào chữa , những người tham gia tố
tụng khác thực hiện đầy đủ quyền , nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ , bình
đẳ ng trước Tịa án. Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vơ tội, tình tiết
tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự , áp dụng điểm, khoản, điều của
Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại
đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án
đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tịa. Bản án, quyết định của
Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng
tại phiên tịa". Có thể thấy, BLTTHS năm 2015 đã quy định rõ mối quan hệ, vị trí
giữa người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong việc đưa ra chứng cứ,
đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án là bình
đẳng, đây là tiền đề quan trọng để các chủ thể thực hiện hoạt động tranh tụng bảo vệ

quan điểm, quyền lợi của mình khi tham gia tố tụng. Chỉ trên cơ sở bình đẳng trong
việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ thì hoạt động tranh tụng mới đảm bảo chất
lượng, hiệu quả và thực thi.
Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định thủ tục tranh tụng tại phiên tịa. Trong
đó, quy định cụ thể từ trình tự phát biểu tranh luận, đến phần đối đáp giữa người
tham gia tố tụng (người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác) với
kiểm sát viên giữ quyền công tố, quy định cho phép bị cáo được nói lời sau cùng để
tự bào chữa; trong chương này luật cũng quy định HĐXX không được hạn chế thời
gian đối đáp, tranh luận giữa các bên.
Việc tôn trọng và thực hiện đúng các quy định của pháp luật về quyền bào
chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong đó có quyền của người bào chữa từ
phía Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án là một đảm bảo quan trọng cho việc
thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Ðặc biệt việc thực
hiện và bảo đảm tốt quy định về tranh tụng tại phiên tòa, kết quả tranh tụng là cơ sở

.d o

m

w

o

m

o

.c

lic


19

lic
C
c u -tr a c k

w

w

.d o

w

w

w

C

k

to

bu

y

N


O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD


F-

c u -tr a c k

.c


×