Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT NHẰM CẢI THIỆN TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH CỦA CÔNG TY XNK THIẾT BỊ ĐIỆN ẢNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.12 KB, 15 trang )

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT NHẰM CẢI THIỆN
TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
VỐN KINH DOANH CỦA CÔNG TY XNK THIẾT BỊ ĐIỆN ẢNH -
TRUYỀN HÌNH.
---------------&---------------
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY:
Hơn 25 năm kể từ khi thành lập, Công ty XNK THIẾT BỊ ĐIỆN ẢNH -
TRUYỀN HÌNH đã trải qua không ít những khó khăn thử thách to lớn trong quá trình
tồn tại và phát triển. Trước những khó khăn về vốn, công nghệ, thị trường tiêu thụ sản
phẩm nhưng nhờ những chính sách đổi mới của Ban lãnh đạo Công ty, nhờ quyết tâm
đưa Công ty phát triển cao hơn nữa bằng nhiều khả năng và biện pháp, Công ty vẫn
đứng vững và phát triển ổn định cùng với các Công ty khác trên cả nước cung cấp
những sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng được ngày càng cao nhu cầu của thị trường.
Phân tích tình hình tài chính của Công ty là yêu cầu mang tính thường xuyên và là
mối quan tâm của nhiều nhóm người khác nhau như Ban lãnh đạo Công ty, các tổ chức
tín dụng, các khách hàng, nhà cung cấp và các đối tượng khác. Thông qua việc tiếp cận
với tình hình tài chính của Công ty trên cơ sở hệ thống báo cáo tài chính kế toán năm
2001 và năm 2002 với tư cách là một sinh viên chuyên ngành Tài chính, cá nhân em có
một số đánh giá về tình hình tài chính của Công ty XNK thiết bị điện ảnh - truyền hình
như sau:
• Nhìn chung, trong những năm gần đây, Công ty làm ăn có lãi. Năm 2001, Công ty
đã bị lỗ 117.587.364 VNĐ, nhờ những nỗ lực cố gắng của Công ty và nhờ chính sách
ưu đãi cả nhà nước, năm 2002 Công ty dần hồi phục và ổn định trở lại nâng mức lợi
nhuận trước thuế lên 68.728.424 VNĐ. Công ty luôn tìm mọi biện pháp để nâng cao
mức thu nhập cho công nhân viên và tìm mọi biện pháp khắc phục khó khăn đưa tình
hình tài chính của Công ty ổn định và khả quan hơn. Thực tế cho thấy tình hình tài
chính của Công ty tương đối lành mạnh và có nhiều triển vọng khả quan trong tương
lai. Xu hướng tích cực này càng góp phần làm cho Công ty có tro đứng vững trong cạnh
tranh và khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế thị trường.
• Những tồn tại về mặt tài chính của Công ty ngày càng được giảm xuống để thích
nghi với tình hình mới, làm tăng hiệu quả kinh doanh đưa mức tổng lợi nhuận ngày


càng tăng lên. Quy mô tài sản và nguồn vốn của Công ty nói chung năm 2002 tăng lên
10,68% so với năm trước. Tuy nhiên, cơ cấu tài sản và nguồn vốn chưa thật hợp lý và
phù hợp với đặc điểm ngành nghề kinh doanh của Công ty. Nhìn vào bức tranh tài
chính của Công ty ta thấy các khoản mục tài sản và nguồn vốn vẫn chưa có sự phân bố
hợp lý: Về phần tài sản của Công ty chỉ có TSCĐ hữu hình mà không có các tài sản
khác, các khoản ĐTDH và các khoản chi phí XDCB không có. Giá trị TSCĐ năm 2002
giảm so với năm 2001 do mức khấu hao khá lớn. Công ty bị thiếu vốn để đầu tư trang
bị cho TSCĐ, trong khi quy mô tài sản nói chung tăng 10,68% nhưng chủ yếu là do
TSLĐ và ĐTNH tăng, còn nguyên giá TSCĐ do mua sắm cũng tăng nhưng rất ít.. Bản
thân TSLĐ của Công ty cũng có những điểm đáng chú ý sau:
+ Vốn bằng tiền năm 2002 giảm so với năm 2001 được đánh giá là chưa tốt vì nó
chưa đáp ứng được khả năng thanh toán, đặc biệt là khả năng thanh toán nhanh của
Công ty. Trong vốn bằng tiền thì tiền gửi Ngân hàng chiếm chủ yếu do việc thanh toán
trong hoạt động kinh doanh chủ yếu được thực hiện thông qua chuyển khoản, séc....
Khoản tiền gửi Ngân hàng trong mục vốn bằng tiền cũng giảm so với năm trước.
+ Hàng tồn kho tăng đáp ứng được nhu cầu tăng vốn cho khâu dự trữ và khâu tiêu
thụ của Công ty. Tuy nhiên, sang năm tới Công ty có thể giảm vốn dự trữ cho các loại
sản phẩm theo định mức dự trữ đã được nghiên cứu phù hợp với năng lực tiêu thụ của
Công ty.
+ Các khoản phải thu của Công ty năm 2002 giảm đi, trong đó chủ yếu là giảm khoản
phải thu khác và trả trước cho người bán, chứng tỏ uy tín của Công ty một phần nào đã
được nâng cao, riêng khoản phải thu của khách hàng tăng lên nhưng tăng không đáng
kể, như vậy chứng tỏ Công ty ít bị chiếm dụng vốn từ phía khách hàng do đó cũng
tránh được tình trạng ứ đọng vốn trong khâu lưu thông.
+ Các khoản Nợ phải trả của Công ty năm 2002 tăng lên so với năm trước với tổng
số nợ phải trả là 9.334.290.136 VNĐ, trong đó chủ yếu là do tăng các khoản vay ngắn
hạn (960.189.143 VNĐ) và các khoản phải trả nhà cung cấp (187.716.155 VNĐ), các
khoản nợ các đối tượng khác như người mua cũng tăng nhưng chậm hơn. Nguyên nhân
chính làm cho các khoản nợ vay tăng lên là do Công ty tăng mức dự trữ hàng tồn kho,
đồng thời Công ty bán chịu cho khách hàng tăng. Để đảm bảo thanh toán cho nhà cung

cấp đúng hạn và đảm bảo chữ tín đối với họ cho nên Công ty phải vay tạm thời để thực
hiện mục tiêu này. Nếu so sánh với các khoản phải thu thì Công ty đi chiếm dụng nhiều
hơn là bị chiếm dụng, đồng thời nếu so với vốn chủ sở hữu thì các khoản phải thanh
toán cũng chiếm tỷ trọng lớn do đó khả năng thanh toán nợ của Công ty chưa thật cao.
Điều này có ảnh hưởng đến tâm lý của các chủ Ngân hàng, các nhà cho vay tín dụng
cũng như những người có quan hệ thanh toán với công ty. Nếu khả năng thanh toán
hiện hành ngắn hạn của Công ty rất tốt nhưng khả năng thanh toán nhanh của Công ty
lại giảm do vốn bằng tiền và các khoản có thể chuyển hoá nhanh thành tiền của Công ty
giảm do đó khả năng đầu tư vào những lĩnh vực kinh doanh có chu kỳ kinh doanh ngắn
của Công ty bị hạn chế.
• Nguồn vốn chủ sở hữu giảm so với kỳ trước (8.951.399 VNĐ tương đương giảm
0,1%) chủ yếu là do nguồn vốn quỹ giảm hay nguồn vốn kinh doanh giảm. Với nguồn
vốn tự có của mình Công ty chỉ đảm bảo tài trợ cho TSCĐ và một phần cho TSLĐ,
phần còn lại buộc Công ty phải huy động bên ngoài để bù đắp. Như vậy, tỷ lệ vốn vay
và vốn đi chiếm dụng cao hơn so với tiêu chuẩn của ngành sản xuất công nghiệp (mức
đảm bảo vốn phải đạt trên 50% thì mới an toàn và chủ động) cho thấy Công ty chưa chủ
động về vốn. Nhưng đây là tình hình chung của các doanh nghiệp Nhà nước vì nguồn
vốn chủ sở hữu của Công ty chủ yếu là do Ngân sách Nhà nước cấp dưới hình thức
TSCĐ ( Nhà cửa, vật kiến trúc,máy móc thiết bị...) nguồn vốn lưu động rất ít, vốn tự bổ
sung không nhiều. Chính vì vậy, Công ty đang thiếu vốn để mở rộng quy mô hoạt động
kinh doanh và để chủ động trong kinh doanh, Công ty đã phải huy động vốn vay vừa
bảo đảm vốn cho hoạt động kinh doanh, vừa đảm bảo đem lại lợi nhuận.
• Một vấn đề đáng quan tâm nữa là doanh thu thuần trong hoạt động kinh doanh của
Công ty năm 2002 tăng nhanh nên đã làm cho các giá trị của hiệu quả sử dụng và hiệu
quả sinh lợi của vốn kinh doanh, vốn chủ sở hữu và VCĐ đều tăng lên cao. Đây cũng là
điều kiện để gây lòng tin từ phía người cho vay. Công ty cũng đã sử dụng tiết kiệm và
có hiệu quả VCĐ, VLĐ và vốn sản xuất kinh doanh góp phần nâng cao chỉ tiêu lợi
nhuận.
Trên đây là những nhận xét đánh giá, chung nhất về tình hình tài chính của Công ty.
Qua các đánh giá trên cho thấy tình hình tài chính của Công ty trong năm 2002 tương

đối ổn định, lành mạnh và khả quan hơn so với năm 2001. Tuy nhiên, để khắc phục
được những bất cập còn tồn tại trong bức tranh tài chính của Công ty, cần thiết phải đề
ra một số phương hướng, giải pháp mang tính đề xuất nhằm cải thiện tình hình tài chính
của Công ty trong những năm tiếp theo.
II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT NHẰM CẢI THIỆN TÌNH
HÌNH TÀI CHÍNH VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN KINH
DOANH CỦA CÔNG TY XNK THIẾT BỊ ĐIỆN ẢNH - TRUYỀN HÌNH
TRONG NHỮNG NĂM TỚI:
Những phân tích, đánh giá trên đây mới chỉ dừng lại ở những Đanh giá chung nhất
và những nét cơ bản nhất về tình hình tài chính của Công ty. Do vậy, những kiến nghị
mang tính đề xuất dưới chỉ có ý nghĩa trong một giới hạn nhất định nào đó nên cần phải
đặt trong mối quan hệ với tình hình thực tế luôn phát sinh và biến động tại Công ty thì
mới thực sự có giá trị.
1. Các kiến nghị đối với Công ty:
1.1. Kiến nghị về công tác quản lý:
Nhìn chung, bộ máy quản lý của Công ty đã đáp ứng được yêu cầu tinh giảm gọn
nhẹ của Nhà nước đảm bảo sự lãnh đạo tập trung và thống nhất của Ban lãnh đạo Công
ty tạo ra được hiệu quả cao. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, bộ máy quản lý của
Công ty vẫn còn trì trệ, yếu kém về hiệu quả. Cán bộ quản lý ở các mặt hoạt động, các
lĩnh vực của Công ty ngoài lực lượng lãnh đạo có trình độ chuyên môn cao, có nhiều
kinh nghiệm trong thời buổi nền kinh tế thị trường vẫn còn một số chưa đáp ứng được
yêu cầu của phát triển sản xuất kinh doanh. Do đó, để có thể phát triển nhanh hơn nữa,
Công ty cần phải tăng cường khả năng tổ chức lãnh đạo và quản lý hơn nữa bằng việc
chú trọng đào tạo một đội ngũ cán bộ quản lý năng động hơn, linh hoạt hơn và có trình
độ cao hơn để đáp ứng nhu cầu phát triển ngày nay. Muốn thực hiện được điều đó,
Công ty nên áp dụng các giải pháp sau:
• Thứ nhất, Công ty phải chấn chỉnh và sắp xếp lại bộ máy gián tiếp, phục vụ trong
Công ty theo hướng tinh giảm, gọn nhẹ hơn nữa, giải quyết chế độ cho số cán bộ, nhân
viên có điều kiện và thâm niên công tác nhưng không đáp ứng được yêu cầu về sức
khoẻ và trình độ năng lực. Ban lãnh đạo Công ty cần kiên quyết sàng lọc những người

không đủ trình độ, năng lực và phẩm chất đồng thời phải có chế độ thưởng phạt phân
minh nhằm khuyến khích động viên kịp thời những người đã hoàn thành tốt nhiệm vụ.
• Thứ hai, Công ty nên bổ sung một lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật, nhân viên trẻ
và có những chính sách để thu hút họ. Ngoài ra, Công ty cũng nên tổ chức các lớp học
ngắn hạn về pháp luật và những cải cách đổi mới của Nhà nước, đặc biệt là những
chính sách về tiền lương, tiền thưởng để thực hiện quy chế dân chủ trong quản lý.
1.2. Kiến nghị về công tác kế toán:
• Kết quả cuối cùng của công tác kế toán là đưa ra được những báo cáo tài chính phản
ánh đúng tình hình, thực trạng tài chính của Công ty. Hiện nay, công tác kế toán rất phù
hợp với đặc điểm và quy mô kinh doanh của Công ty. Sự phân công trách nhiệm đối
với từng người trong phòng tài vụ là tương đối hợp lý, hạch toán kế toán theo đúng
chuẩn mực pháp lý phù hợp với chế độ kế toán hiện hành. Để giảm bớt công sức và thời
gian cho nhân viên kế toán và để đáp ứng với nền công nghiệp hiện đại ngày nay, Công
ty nên tiếp cận và áp dụng kế toán máy vào công việc thu nhận và xử lý thông tin kế
toán cho quản lý một cách kịp thời, chính xác. Có như vậy mới có thể giảm bớt được
việc tích trữ một lượng lớn tài liệu, sổ sách kế toán và công sức của nhân viên kế toán.
Nhưng, để có những báo cáo tài chính kế toán cuối kỳ trung thực thì đòi hỏi các kế toán
viên phụ trách từng phần hành kế toán trong Công ty phải phản ánh chính xác các
nghiệp vụ phát sinh. Do công tác hạch toán kế toán hàng ngày tại phòng tài vụ nhiều
phức tạp nên yêu cầu đặt ra là Công ty cần phải có một đội ngũ nhân viên kế toán có
chuyên môn và nghiệp vụ đồng đều. Từ nhiều năm trở lại đây, Công ty đã chú trọng
công tác đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn, trang bị thêm các phương tiện hỗ trợ
cho các cán bộ, nhân viên phòng tài vụ và các nhân viên hạch toán ban đầu tại các phân
xưởng. Tuy nhiên, trước những biến động và sự hoà nhập của nền kinh tế trong nước
với khu vực và thế giới, Công ty vẫn cần phải trang bị thêm những kiến thức về hệ
thống kế toán quốc tế cũng như các chuẩn mực kiểm toán trong nước và quốc tế cho đội
ngũ nhân viên kế toán.
• Kỳ lập Báo cáo tài chính: Để nắm bắt được tình hình tài chính của Công ty kịp thời
thông qua việc phân tích tình hình tài chính của Công ty thì Công ty phải tiến hành lập
Báo cáo tài chính đúng kỳ kế toán. Để thực hiện được điều này, Công ty cần có biện

pháp đốc thúc các đơn vị lập báo cáo đúng kỳ, đồng thời có biện pháp xử phạt cụ thể
đối với các đối tượng nộp sai kỳ hạn gây cản trở cho công tác phân tích tài chính của
Công ty và định hướng cho sự phát triển trong năm tới.
1.3. Kiến nghị về công tác phân tích tài chính:
1.3.1- Một số kiến nghị về hệ thống các chỉ tiêu phân tích tình hình tài chính:
Khi phân tích tình hình đầu tư, việc sử dụng chỉ tiêu tỷ suất đầu tư bằng cách lấy
Giá trị TSCĐ đã và đang đầu tư (mục B.I.III.TS) chia cho tổng tài sản chưa nói lên
được hiệu quả đầu tư của toàn bộ tài sản của doanh nghiệp. Vì vậy, ngoài tỷ suất trên
nên phân tích thêm một số chỉ tiêu khác như sau:
Từ công thức:
Tỷ suất đầu tư
chung
TSCĐ và ĐTDH (mục B.TS)
* 100%
Tổng tài sản
Ta tính thêm tỷ suất sau đây:
Tỷ suất đầu
tư tài chính
dài hạn
Giá trị các khoản đầu tư tài chính dài hạn
* 100%
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này phản ánh tính hợp lý của việc sử dụng vốn vào việc đầu tư dài hạn trong
từng thời kỳ.
Ngoài ra, có thể phân tích chỉ tiêu hiệu quả của công tác đầu tư XDCB thông qua chỉ
tiêu sau đây:
Mức độ hoàn
thành công tác
XDCB
Giá trị XDCB, mua sắm TSCĐ cuối kỳ

* 100%
Giá trị XDCB, mua sắm TSCĐ đầu kỳ

×