Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Quản lý hành chính nhà nước về báo chí tại tỉnh điện biên – thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.15 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ THỊ THÚY LAN

QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VỀ BÁO CHÍ
TẠI TỈNH ĐIỆN BIÊN - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ THỊ THÚY LAN

QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC VỀ BÁO CHÍ
TẠI TỈNH ĐIỆN BIÊN - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành : Luật hiến pháp và Luật hành chính
Mã số


: 8 38 01 02

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Hiền

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tơi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Thị Thúy Lan


MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ BÁO CHÍ

6


1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trị của báo chí trong quản lý hành
chính nhà nước

6

1.2. Quản lý hành chính nhà nước về báo chí trong q trình phát
triển của tỉnh Điện Biên

10

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ BÁO CHÍ TẠI
ĐIỆN BIÊN

30

2.1. Những yếu tố đảm bảo hiệu quả quản lí nhà nước về báo chí
trên địa bàn tỉnh Điện Biên

30

2.2. Hoạt động báo chí tại tỉnh Điện Biên

33

2.3. Hoạt động quản lý nhà nước về báo chí tại tỉnh Điện Biên

41

2.4. Đánh giá kết quả công tác quản lý nhà nước về báo chí tại tỉnh
Điện Biên


45

Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN BÁO CHÍ; GIẢI PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ BÁO CHÍ TẠI
TỈNH ĐIỆN BIÊN

3.1. Quan điểm phát triển báo chí tại tỉnh Điện Biên

57
57

3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về báo chí
tại Điện Biên

61

KẾT LUẬN

71

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Qua thực tiễn lịch sử, ngành báo chí cách mạng nước ta có những
đóng góp to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trước đây cũng

như trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Chủ trương đổi mới do Đảng khởi xướng
cùng với những thành tựu vĩ đại của cơng nghệ thơng tin, làm cho ngành báo
chí nước ta trong những năm gần đây phát triển nhanh cả về số lượng và chất
lượng. Chính vì vậy, cơng tác quản lý nhà nước về báo chí cần được tăng
cường trong giai đoạn hiện nay.
Ngày 17/10/1997, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa VIII đã ban hành Chỉ thị 22/CT-TƯ về tiếp tục đổi mới và tăng cường
sự lãnh đạo, quản lý cơng tác báo chí, xuất bản. Cùng với những quan điểm
chỉ đạo quan trọng về hoạt động báo chí, quan điểm "phát triển đi đơi với
quản lý tốt" là một nguyên tắc cơ bản định hướng cho nội dung quản lý nhà
nước về báo chí trong tình hình mới. Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa X cũng đã
thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí ngày
12/6/1999. Đến ngày 5/4/2016, Quốc hội khóa XIII đã ban hành Luật Báo chí
2016 trên cơ sở sửa đổi, bổ sung Luật Báo chí 1999. Việc thơng qua luật Báo
chí 2016 tạo cơ sở hoàn chỉnh về hành lang pháp lý cho hoạt động báo chí,
đảm bảo sự bình đẳng, dân chủ trong thơng tin, bảo đảm quyền tự do báo chí,
tự do ngơn luận trên báo chí của cơng dân. Đây cũng là điều kiện mới để báo
chí Việt Nam phát triển và hội nhập với báo chí trong khu vực nói riêng và
báo chí trên tồn thế giới nói chung.
Cùng với q trình đổi mới của đất nước, hơn 30 năm qua, báo chí
nước ta đã chuyển hướng kịp thời để phát triển và đã đạt được những thành
tựu quan trọng. Chưa thời điểm nào mặt trận báo chí phát triển phong phú cả
về số lượng và chất lượng như hiện nay. Báo chí đã bám sát đời sống xã hội;


2
cung cấp thơng tin đa chiều, chính xác; tạo sự đồng thuận của quần chúng
nhân dân với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Hầu hết các cơ
quan báo chí đều bám sát tơn chỉ, mục đích, tập trung tuyên truyền chủ

trương, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; tích cực
tuyên truyền, nêu gương người tốt - việc tốt; sản phẩm mới, cơng trình mới,
rút ra những kinh nghiệm hay, bài học tốt, thúc đẩy phong trào thi đua, xây
dựng xã hội phát triển lành mạnh. Đặc biệt trên lĩnh vực chống tham nhũng,
lãng phí, nhiều cơ quan báo chí đã dũng cảm vạch trần sai phạm của nhiều cá
nhân, tổ chức mà trong đó có cả Ủy viên Bộ Chính trị, lãnh đạo chủ chốt các
bộ, ngành và các tướng lớn trong công an, qn đội…
Tuy nhiên, bên cạnh đó thì thời gian qua báo chí cũng bộc lộ nhiều
hạn chế, sai sót cần sớm khắc phục. Đó là xu hướng thương mại hóa báo chí,
xa rời tơn chỉ mục đích, đối tượng phục vụ; làm lộ bí mật, an ninh quốc gia.
Nhiều tờ báo đăng bài, ảnh dung tục, thiếu văn hóa đi ngược thuần phong mĩ
tục của dân tộc. Có nhiều phóng viên báo chí bộc lộ sự non nớt về chính trị,
phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, thiếu tính chuyên nghiệp khi tác nghiệp làm
ảnh hưởng xấu đến uy tín tờ báo và giới báo chí cả nước. Ở một số nơi, báo
chí cịn chưa đến được đơng đảo nhân dân lao động ở nông thôn, miền núi,
vùng sâu vùng xa.
Những tồn tại trên một phần là do hệ thống văn bản pháp luật trong
hoạt động quản lý nhà nước về báo chí cịn thiếu, chưa đồng bộ; ngun tắc
"Phát triển báo chí đi đơi với quản lý tốt" chưa được quán triệt, thực hiện một
cách nghiêm túc, đầy đủ. Đặc biệt với địa bàn tỉnh miền núi, biên giới như
Điện Biên, dù khơng có nhiều cơ quan báo chí song việc thực hiện các quy
định quản lý nhà nước về báo chí cịn bộc lộ nhiều hạn chế. Vì vậy, việc
nghiên cứu thực tiễn công tác quản lý nhà nước về báo chí tại tỉnh Điện Biên
để chỉ rõ nguyên nhân của tồn tại, hạn chế, đồng thời đề xuất giải pháp khắc
phục, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về báo chí trên địa bàn tỉnh Điện
Biên là vô cùng cần thiết trong giai đoạn hiện nay.


3
Với lý do đó, tơi lựa chọn vấn đề: "Quản lý hành chính nhà nước về

báo chí tại tỉnh Điện Biên - Thực trạng và giải pháp" làm đề tài luận văn
Thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong q trình nghiên cứu lý luận báo chí, đề cập tới các khía cạnh
khác nhau của đề tài đã có nhiều bài báo nghiên cứu khoa học được đăng tải
trên các tạp chí chuyên ngành như: "Phạm vi bao quát và tăng cường hiệu
quả quản lý nhà nước thi hành Luật Báo chí" (Nguyễn Văn Dững - Tạp chí
Báo chí và Tuyên truyền, số 4/1998); "Quản lý nhà nước về Báo chí qua 8
năm thi hành Luật Báo chí" (Đỗ Q Dỗn - Chuyên san Nhà báo và Công
luận, số 4/1998); "Báo chí Việt Nam - nhìn lại để bước vào thế kỷ mới" (Đỗ
Q Dỗn - Tạp chí Người làm báo, số tháng 12/1999); "Vấn đề lãnh đạo
quản lý báo chí trong thời kỳ đổi mới" (Bùi Đình Khơi - Tạp chí Người làm
báo, số tháng 6/1997); "Quản lý Báo chí trong sự nghiệp đổi mới đất nước
hiện nay" (Lê Doãn Hợp - Báo Điện tử Nhân dân, ngày 18/6/2007)… Ngoài
ra, vấn đề quản lý nhà nước về báo chí ln luôn được đề cập trong các cuốn
sách nghiên cứu nghiệp vụ của các cơ sở đào tạo báo chí, trong các tác phẩm
của các tác giả nghiên cứu về lý luận báo chí của các nhà báo, như: nhà báo Hữu
Thọ, Tạ Ngọc Tấn, Hà Minh Đức… Tuy nhiên như trên đã trình bày, hầu hết các
tác giả trên mới dừng lại ở mức độ đề cập giải quyết một số khía cạnh của vấn
đề, những hiện tượng đơn lẻ của thực tiễn báo chí đất nước. Chưa có một cơng
trình nghiên cứu sâu, đầy đủ, có trọng tâm trọng điểm và toàn diện về vấn đề
này với tư cách là một đề tài nghiên cứu khoa học từ góc nhìn của nhà khoa
học luật - đi tìm cơ sở pháp lý của quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí.
Với thực tiễn cơng tác quản lý nhà nước về báo chí tại tỉnh Điện Biên,
tác giả đã dày cơng tìm hiểu, nghiên cứu các văn bản: Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Điện Biên; Đề án quy hoạch, phát triển báo chí tỉnh Điện Biên, giai đoạn
2015-2020, tầm nhìn 2030 do Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên ban hành; báo
cáo cơng tác quản lý nhà nước về báo chí các năm 2015, 2016, 2017 và 6 tháng



4
đầu năm 2018; báo cáo kết quả công tác phối hợp quản lý nhà nước về báo chí
giữa Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Điện Biên và Sở Thông tin - Truyền thông Điện
Biên, Hội Nhà báo Việt Nam tỉnh Điện Biên năm 2016, 2017; Đề án phát
triển Báo Điện Biên Phủ giai đoạn 2010-2015 và tầm nhìn 2025; báo cáo quá
trình xây dựng, trưởng thành của Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh Điện
Biên, sau 40 năm thành lập…
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực
tiễn của pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí nói chung,
từ đó soi rọi vào thực tiễn công tác quản lý nhà nước về báo chí tại tỉnh Điện
Biên nói riêng, để chỉ ra những tồn tại, hạn chế và giải pháp khắc phục, nâng
cao hiệu quả quản lý báo chí ở Điện Biên, giúp báo chí Điện Biên đóng góp
nhiều hơn trong cơng cuộc tun truyền, thực hiện chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước trên địa bàn tỉnh biên giới cịn nhiều khó khăn.
Từ mục đích đặt ra như trên, nhiệm vụ của luận văn là:
- Làm rõ sự cần thiết quản lý nhà nước về báo chí; vai trò của pháp
luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí.
- Nêu thực trạng quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí ở Điện Biên;
thành tựu và hạn chế, nguyên nhân của những mặt còn tồn tại và những vấn
đề đặt ra đối với báo chí Điện Biên hiện nay.
- Trên cơ sở đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị, các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí ở Điện Biên.
4. Cơ sở khoa học của đề tài
- Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối chính sách của
Đảng, Nhà nước ta về pháp luật quản lý nhà nước đối với tổ chức, hoạt động
của báo chí.
- Cơ sở thực tiễn: Hoạt động báo chí và cơng tác quản lý nhà nước về
báo chí tại tỉnh Điện Biên.



5
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật về quản lý nhà nước
trong lĩnh vực báo chí; thực hiện các quy định pháp luật về quản lý nhà nước
của các cơ quan chuyên môn tại tỉnh Điện Biên.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn khơng nghiên cứu về báo chí nói chung
mà chỉ đi sâu nghiên cứu quy định hiện hành về quản lý nhà nước đối với lĩnh
vực báo chí; từ đó đối chiếu với thực trạng của tỉnh Điện Biên để chỉ ra hạn
chế, bất cập về công tác quản lý nhà nước về báo chí tại Điện Biên; đồng thời
kiến nghị biện pháp khắc phục.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu, như: phân tích, tổng
hợp, thống kê, logic, so sánh, đối chiếu, khoa học dự báo để đánh giá pháp
luật, thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí nói
chung; quản lý báo chí tại tỉnh Điện Biên nói riêng.
7. Đóng góp mới của luận văn
Một là, làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước trong lĩnh
vực báo chí.
Hai là, bước đầu đánh giá thực trạng thực hiện quy định pháp luật về
quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí trong nước nói chung và tỉnh Điện
Biên nói riêng.
Ba là, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý
trong lĩnh vực báo chí, nâng cao hiệu quả cơng tác quản lý nhà nước về báo
chí tại tỉnh Điện Biên.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận, pháp lý của quản lý nhà nước về báo chí.

Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về báo chí tại tỉnh Điện Biên.
Chương 3: Quan điểm phát triển báo chí; giải pháp nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước về báo chí tại tỉnh Điện Biên.


6
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ
CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ BÁO CHÍ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trị của báo chí trong quản lý
hành chính nhà nước
1.1.1. Khái niệm báo chí
Ở Việt Nam hiện nay, có nhiều học giả đưa ra nhiều định nghĩa khác
nhau về báo chí.
Theo tác giả Dương Xuân Sơn, trong cuốn Cơ sở lý luận báo chí
truyền thơng đã trích dẫn triết học cổ Hy Lạp: "Chữ báo chí xuất phát từ chữ
information có nghĩa là thơng tin, thơng báo, báo tin và được hiểu như việc
tạo ra hình thái giúp cho sự hiểu biết của con người về thế giới xung quanh
đang tồn tại bằng việc lấy hiện thực khách quan để phản ánh một cách liên
tục, xuyên suốt trong quan hệ chặt chẽ giữa nhà báo - tác phẩm - công
chúng". Tác giả cuốn sách này cũng cho rằng: "Báo chí bao gồm tất cả các tổ
chức thông tin thuật ngữ những loại hình khác nhau (xuất bản, radio, vơ
tuyến truyền hình...) và ở những cấp độ khác nhau từ trung ương đến địa
phương, với ý nghĩa là tất cả phương tiện các thông tin đại chúng".
Trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngơn ngữ học định nghĩa, báo chí
là "báo và tạp chí; xuất bản phẩm định kỳ". Theo cuốn từ điển này thì báo chí
được định nghĩa là "xuất bản phẩm định kỳ in trên giấy khổ lớn, đăng tin, bài,
tranh ảnh để thông tin, bằng các bài viết, tranh vẽ trực tiếp trên giấy, trên
bảng, v.v…"; tạp chí được định nghĩa là "xuất bản phẩm định kỳ, đăng nhiều
bài do nhiều người viết, đóng thành tập thường có khổ nhỏ hơn báo".

Còn tác giả Trần Hữu Quang trong cuốn Xã hội học báo chí cho rằng,
báo chí là một loại hình truyền thơng đã định nghĩa: "Truyền thơng là một quá
trình truyền đạt, tiếp nhận và trao đổi thông tin nhằm thiết lập các mối quan
hệ giữa con người với con người".


7
Luật Báo chí năm 1989 đưa ra định nghĩa: "Báo chí của nước Cộng
hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu
đối với đời sống xã hội; là diễn đàn của nhân dân".
Từ quan điểm của các học giả nghiên cứu lý luận về báo chí và cách
tiếp cận của pháp luật hiện hành về báo chí, ở mức độ khái qt có thể đưa ra
định nghĩa: Báo chí Việt Nam là một phương tiện truyền đạt, chia sẻ thơng tin
mang tính đại chúng giữa các chủ thể trong xã hội với công chúng.
Hiện tại, theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Báo chí 2016 thì "Báo
chí là sản phẩm thơng tin về các sự kiện, vấn đề trong đời sống xã hội thể
hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được sáng tạo, xuất bản định kỳ và
phát hành, truyền dẫn tới đông đảo công chúng thông qua các loại hình báo
in, báo nói, báo hình, báo điện tử".
1.1.2. Đặc điểm của báo chí
- Đặc điểm về chính trị
Báo chí tác động sâu sắc vào tư tưởng, nhận thức, tình cảm và thái độ
của cơng chúng; góp phần hình thành và định hướng tư tưởng, nhận thức, tình
cảm và lối sống của độc giả. Bên cạnh việc giúp cho độc giả nâng cao tri thức,
thỏa mãn nhu cầu giải trí, ở nước ta, báo chí cịn là cơng cụ lợi hại trong đấu
tranh trên mặt trận tư tưởng, chính trị. Vì đặc điểm này, ở Việt Nam khơng có
báo chí tư nhân như một số nước trên thế giới.
Do vậy, những cơ quan báo chí xuất bản các ấn phẩm có chất lượng
cao, có lượng độc giả đơng đảo thường có vị thế cao trong xã hội, có khả năng
tác động đến chủ trương, chính sách của nhà nước.

Nhà nước ta cũng thơng qua các cơ quan báo chí để thơng tin đến
cơng chúng các chủ trương, chính sách, pháp luật của nhà nước. Điều này thể
hiện ở việc nhiều văn bản quy phạm pháp luật được ban hành đều được đăng
tải, phát sóng.
Đặc điểm này đã được thể hiện trong phần nhiệm vụ của báo chí là
"tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương,


8
chính sách, pháp luật của nhà nước" tại Khoản 2 Điều 6 Luật Báo chí và
"phản ánh hướng dẫn dư luận xã hội" tại Khoản 3 Điều 6 Luật Báo chí.
- Đặc điểm về hình thức thể hiện
Tùy từng loại hình báo chí mà hình thức thể hiện khác nhau. Ví như,
báo in chuyển tải nội dung thơng tin bằng văn bản in, bao gồm: chữ và hình
ảnh. Tồn bộ những nội dung này xuất hiện đồng thời và được người đọc tiếp
nhận bằng thị giác. Cách tiếp cận thông tin của người đọc là chủ động: từ việc
lựa chọn tờ báo có tơn chỉ, mục đích phù hợp với sự quan tâm của mình cho
đến thời gian đọc và trình tự đọc.
Truyền hình lại có hình thức thể hiện khác, đó là bằng hình ảnh và lời
dẫn. Cách tiếp cận thông tin của độc giả là chủ động: từ việc lựa chọn kênh
truyền hình có tơn chỉ, mục đích phù hợp với sự quan tâm của mình cho đến
thời gian.
Với phát thanh thì hình thức thể hiện là tiếng. Cách tiếp cận thông tin
của độc giả là chủ động: từ việc lựa chọn kênh truyền hình có tơn chỉ, mục
đích phù hợp với sự quan tâm của mình cho đến thời gian; nhưng cũng có khi
là bị động (hệ thống loa truyền thanh cơ sở).
Báo điện tử chuyển tải nội dung thơng tin bằng hình thức văn bản in,
bao gồm chữ và hình ảnh. Tồn bộ những nội dung này xuất hiện đồng thời và
được người đọc tiếp nhận bằng thị giác. Cách tiếp cận thông tin của người đọc
là chủ động: từ việc lựa chọn tờ báo có tơn chỉ, mục đích phù hợp với sự quan

tâm của mình cho đến thời gian đọc, trình tự đọc và cách thức đọc. Tuy nhiên
để đọc được báo điện tử thì người đọc cần có điều kiện nhất định, như: phải
có máy tính kết nối internet hoặc điện thoại smarkphone hay máy tính bảng.
- Đặc điểm là sản phẩm hàng hóa
Bên cạnh đặc điểm mang tính chính trị, mỗi một ấn phẩm báo chí là
một sản phẩm hàng hóa tn theo quy luật thị trường báo chí: Vừa mang tính
sáng tạo về tinh thần nhằm thỏa mãn nhu cầu thưởng thức thông tin của độc
giả, vừa là một loại dịch vụ xã hội.


9
Là một sản phẩm, báo chí được sản xuất tuân theo một quy trình chặt
chẽ, từ việc tiếp nhận thơng tin, xử lý thông tin, viết, biên tập nội dung, trình
bày; lãnh đạo cơ quan báo chí duyệt, thẩm định tồn bộ nội dung trước in
(hoặc phát) rồi mới chính thức đến độc giả. Sản phẩm báo chí cũng được hạch
tốn như những sản phẩm hàng hóa trên thị trường, bao gồm các loại chi phí
theo định mức được nhà nước quy định và chi phí tăng thêm, lợi nhuận thu
được. Báo chí cịn là một sản phẩm hàng hóa đặc biệt vì được hưởng chính
sách trợ giá của nhà nước. Do thơng tin thường mang tính thời sự nên sản
phẩm báo chí khơng phải là loại sản phẩm có thể dự trữ. Chính về thế, báo chí
có một đặc tính rất đặc thù là tính thời sự nhanh, chính xác và kịp thời; cơ
quan báo chí nào đáp ứng được địi hỏi này thì lợi nhuận thu được từ bán báo,
tài trợ quảng cáo càng cao.
- Đặc điểm về cơ quan sản xuất báo chí
Ở nước ta, báo chí là sản phẩm được sản xuất bởi cơ quan báo chí
thuộc loại hình đơn vị sự nghiệp có thu hoặc doanh nghiệp kinh doanh có điều
kiện, khơng tồn tại độc lập và hoạt động theo mơ hình doanh nghiệp như ở
nhiều nước tư bản mà trực thuộc một cơ quan hoặc tổ chức (thuộc đối tượng
quy định trong Luật Báo chí) được gọi là cơ quan chủ quản báo chí. Cơ quan
chủ quản báo chí là tổ chức đứng tên xin cấp giấy phép hoạt động báo chí và

trực tiếp quản lý cơ quan báo chí.
Cơ quan báo chí hoạt động theo tơn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ
và phạm vi phát hành chủ yếu, thời gian xuất bản và ngôn ngữ thể hiện do cơ
quan chủ quản báo chí xác định và được cơ quan quản lý nhà nước chấp
thuận, cấp phép; những nội dung này được quy định trong giấy phép hoạt
động báo chí.
Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm người lãnh đạo cơ quan báo chí cũng do
cơ quan chủ quản báo chí thực hiện sau khi trao đổi ý kiến với cơ quan quản
lý nhà nước về báo chí, trên cơ sở các điều kiện, tiêu chuẩn về chức danh lãnh
đạo cơ quan báo chí do pháp luật quy định.


10
1.1.3. Vai trị báo chí trong quản lý hành chính nhà nước
Quản lý hành chính nhà nước là một hình thức hoạt động của Nhà
nước được thực hiện trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà
nước, có nội dung là bảo đảm sự chấp hành pháp luật, pháp lệnh, nghị quyết
của các cơ quan quyền lực nhà nước, nhằm tổ chức và chỉ đạo một cách trực
tiếp và thường xuyên công cuộc xây dựng kinh tế, văn hóa - xã hội và hành
chính - chính trị. Nói cách khác, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động
mang tính chấp hành và điều hành.
Quản lý hành chính ở nước ta có những đặc điểm: là hoạt động mang
quyền lực nhà nước; được tiến hành bởi những chủ thể có quyền năng hành
pháp; có tính thống nhất, được tổ chức chặt chẽ; có tính chấp hành - điều hành
và là hoạt động mang tính liên tục.
Trong cơng tác quản lý hành chính nhà nước, báo chí có vai trò đặc
biệt quan trọng. Được mệnh danh là cơ quan "quyền lực thứ tư" báo chí thực
hiện nhiệm vụ: tuyên truyền, phản ánh, giám sát và phản biện xã hội ở tất cả
các cơ quan, đơn vị, tổ chức. Điều đó cũng được hiểu là báo chí tham gia
quản lý hành chính nhà nước bằng việc thực hiện các nhiệm vụ trên.

1.2. Quản lý hành chính nhà nƣớc về báo chí trong q trình phát
triển của tỉnh Điện Biên
1.2.1. Khái niệm quản lý hành chính nhà nước về báo chí
Theo Luật Báo chí 2016, cơng tác quản lý nhà nước về báo chí, bao
gồm các nội dung sau: Xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí; Ban hành và tổ chức thực hiện các
văn bản quy phạm pháp luật về báo chí; xây dựng chế độ, chính sách về báo
chí; Tổ chức thơng tin cho báo chí; quản lý thơng tin của báo chí; Đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội
ngũ người làm báo của các cơ quan báo chí và cán bộ quản lý báo chí; Tổ
chức quản lý hoạt động khoa học, công nghệ trong lĩnh vực báo chí; Cấp, thu
hồi các loại giấy phép trong hoạt động báo chí và thẻ nhà báo; Quản lý hợp


11
tác quốc tế về báo chí, quản lý hoạt động của cơ quan báo chí Việt Nam liên
quan đến nước ngồi và hoạt động của báo chí nước ngồi tại Việt Nam;
Kiểm tra báo chí lưu chiểu; quản lý hệ thống lưu chiểu báo chí quốc gia; Chỉ
đạo, thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, thống kê và công tác khen thưởng,
kỷ luật trong hoạt động báo chí; Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp
luật về báo chí.
Từ những nội dung nêu trên, có thể thấy rằng hoạt động quản lý nhà
nước trong lĩnh vực báo chí ở nước ta xuất hiện chủ yếu là hoạt động của cơ
quan lập pháp và cơ quan hành pháp, nhưng còn thiếu vắng hoạt động của cơ
quan tư pháp (xét xử) khi có hành vi vi phạm pháp luật về báo chí.
Như các hoạt động quản lý nhà nước nói chung, quản lý nhà nước
trong lĩnh vực báo chí ln hướng tới phục vụ mục đích xây dựng trên quan
điểm của Đảng và Nhà nước là: Mọi chủ trương, đường lối hoạt động của
Đảng và Nhà nước và toàn xã hội đều nhằm mục đích vì cuộc sống và hạnh
phúc của nhân dân, vì nhân dân là cội nguồn của quyền lực. Vì vậy, hoạt động

này mang tính quyền lực đặc biệt của Nhà nước "của dân, do dân và vì dân".
Một là, hoạt động quản lý nhà nước về báo chí thực chất là sự tác
động mang tính tổ chức cao và được điều chỉnh bằng pháp luật. Để quản lý
tốt, cần biết tổ chức về mặt thực tiễn các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực báo
chí. Tính tổ chức cao thể hiện ở hai phương diện. Phương diện thứ nhất, đây
là hoạt động trực tiếp của các cơ quan Nhà nước được giao chức năng, nhiệm
vụ trong lĩnh vực báo chí. Thứ hai, đây là hoạt động phải được bảo đảm về tổ
chức (bộ máy) chuyên trách mà tổ chức này được hình thành xuất phát từ nhu
cầu quản lý nhà nước và đòi hỏi mang tính khoa học để đảm bảo tính hiệu quả
của hoạt động. Thực tiễn cho thấy, khơng có tổ chức thì quản lý sẽ bị lỏng, sơ
hở và kém hiệu quả; thậm chí có thể dẫn tới tình trạng vơ chính phủ.
Để quản lý nhà nước về báo chí có hiệu quả, pháp luật được nhà nước
sử dụng như một kênh để tổ chức bộ máy và định chi tiết các khuôn mẫu xử
sự của các cơ quan quản lý cũng như công dân trong mối quan hệ thể hiện


12
quyền và nghĩa vụ giữa Nhà nước và công dân. Trong hoạt động quản lý nhà
nước về báo chí, các cơ quan nhà nước luôn đụng chạm tới quyền tự do báo
chí, tự do ngơn luận của cơng dân cho nên phải căn cứ vào các quy định của
pháp luật để giải quyết. Do vậy cũng giống như quản lý hành chính nhà nước
nói chung, quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí được điều chỉnh bằng
pháp luật theo phương pháp mệnh lệnh (biểu hiện rõ nhận thấy nhất là các
quy định về điều kiện thành lập cơ quan báo chí; các quy định về phát hành,
lưu chiểu; chi trả chế độ nhuận bút trong cơ quan báo chí).
Hai là, quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí là hình thức quản lý
nhà nước vừa mang tính phổ quát vừa mang tính đặc thù. Điều này được thể
hiện trên hai phương diện: Thứ nhất, quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận là
một quyền cơ bản của công dân. Các nhà nước trên thế giới không thể không
ghi nhận trong hiến pháp và tạo ra cơ chế pháp lý để bảo đảm thực hiện nó

trong đời sống xã hội. Các Nhà nước đều thực hiện chức năng quản lý nhà
nước trong lĩnh vực báo chí, đồng thời luôn coi việc thực hiện chức năng quản
lý trong lĩnh vực này là hoạt động có mục tiêu, chiến lược, có chương trình và
có kế hoạch để thực hiện mục tiêu nhằm mở rộng dân chủ, thúc đẩy quá trình
giao lưu và hội nhập, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho người dân…
Đặc điểm này đòi hỏi hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí phải
có chương trình, kế hoạch dài hạn, trung hạn và hàng năm; có tiêu chí vừa
mang tính định hướng vừa mang tính pháp lệnh và có biện pháp cơ bản để tổ
chức thực hiện các tiêu chí đó. Vì vậy, quản lý báo chí là quản lý mang tính
phổ quát tồn cầu. Thứ hai, do báo chí có vai trị hết sức to lớn trong việc
thông tin, tư tưởng, phát triển văn hóa và giải trí; là vũ khí tư tưởng sắc bén
nên mỗi nhà nước với các thể chế chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa
khác nhau sẽ quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí với những nét đặc thù.
Ba là, quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí là quản lý trên lĩnh
vực tư tưởng văn hóa. Quản lý nhà nước trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa khác
với quản lý nhà nước trong hoạt động vật chất như: quản lý hoạt động xuất


13
nhập cảnh, kinh doanh, du lịch… Lĩnh vực báo chí liên quan trực tiếp đến con
người - thực thể xã hội cụ thể với tư tưởng, trạng thái, nhận thức cụ thể. Hơn
nữa, quản lý nhà nước trên lĩnh vực báo chí gắn liền với thể chế chính trị nhất
định, thể hiện mục tiêu, lợi ích của nhà nước nên tính định hướng chính trị
của nội dung thơng tin được quan tâm đặc biệt.
1.2.2. Nội dung quản lý hành chính nhà nước về báo chí
Theo quy định Luật Báo chí 2016, cơng tác quản lý nhà nước về báo
chí, bao gồm các nội dung sau: Xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí; Ban hành và tổ chức thực hiện
các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí; xây dựng chế độ, chính sách về
báo chí; Tổ chức thơng tin cho báo chí; quản lý thơng tin của báo chí; Đào

tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp
cho đội ngũ người làm báo của các cơ quan báo chí và cán bộ quản lý báo chí;
Tổ chức quản lý hoạt động khoa học, cơng nghệ trong lĩnh vực báo chí; Cấp,
thu hồi các loại giấy phép trong hoạt động báo chí và thẻ nhà báo; Quản lý
hợp tác quốc tế về báo chí, quản lý hoạt động của cơ quan báo chí Việt Nam
liên quan đến nước ngoài và hoạt động của báo chí nước ngồi tại Việt Nam;
Kiểm tra báo chí lưu chiểu; quản lý hệ thống lưu chiểu báo chí quốc gia; Chỉ
đạo, thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, thống kê và công tác khen thưởng,
kỷ luật trong hoạt động báo chí; Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp
luật về báo chí.
Ngồi quy định tại Luật Báo chí 2016 cịn nhiều văn bản do Chính
phủ, các Bộ, ngành ban hành quy định về các khía cạnh của cơng tác quản lý
nhà nước về báo chí, ví dụ như: Luật Ngân sách, Luật Xuất bản; Luật Thanh
tra, khiếu nại, tố cáo… Do vậy, để tránh sự trùng lặp quá nhiều, trong khi
khảo sát, luận văn không thể liệt kê chi tiết nội dung các văn bản. Vì vậy,
trong mục này, luận văn chỉ đi sâu phân tích, làm rõ một số quy định của pháp
luật hiện hành về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí theo những nhóm
sau: Quy định quản lý nhà về phát hành báo chí (giấy phép hoạt động, thẻ nhà


14
báo, lưu chiểu….); quy định quản lý nhà nước về nội dung, thơng tin trên báo
chí; quản lý nhà nước về báo chí trong hoạt động đối ngoại; xử lý vi phạm
pháp luật về báo chí và thực tiễn áp dụng.
Quy định quản lý nhà nước liên quan đến phát hành báo chí
Theo quy định tại Điều 14 Luật Báo chí 2016, cơ quan được cấp giấy
phép hoạt động báo chí gồm: Cơ quan của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức tôn giáo từ cấp tỉnh hoặc tương đương trở
lên, hoạt động hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam được thành lập

cơ quan báo chí.
Cơ sở giáo dục đại học theo quy định của Luật Giáo dục đại học; tổ
chức nghiên cứu khoa học, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển cơng
nghệ được tổ chức dưới hình thức viện hàn lâm, viện theo quy định của Luật
Khoa học Công nghệ; bệnh viện cấp tỉnh hoặc tương đương trở lên được
thành lập tạp chí khoa học.
Tại Điều 49, Luật Báo chí 2016 quy định: Cơ quan báo chí thực hiện
phát hành báo chí theo đúng quy định ghi trong giấy phép hoạt động báo chí.
Như vậy, với quy định tại Điều 14 và Điều 49, chúng ta hiểu chỉ những cơ
quan được cấp giấy phép hoạt động báo chí mới được sản xuất, phát hành báo
chí với điều kiện ấn phẩm, loại hình báo chí đó phải đúng với tơn chỉ, mục
đích ghi rõ trong giấy phép xuất bản. Về phương thức, cơ quan báo chí được
tổ chức phát hành hoặc ủy thác cho tổ chức, cá nhân phát hành.
Cơ quan chủ quản báo chí, cơ quan báo chí, tổ chức, cá nhân tham gia
phát hành báo chí, tổ chức được phép xuất khẩu, nhập khẩu báo chí có trách
nhiệm thực hiện quyết định thu hồi ấn phẩm báo chí của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền; Sở Thơng tin và Truyền thơng, cơ quan Cơng an cấp tỉnh có
trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện.
Cơ quan báo chí, tổ chức phát hành báo chí có ấn phẩm bị thu hồi phải
chịu tồn bộ chi phí cho việc thu hồi.


15
Bộ Thông tin và Truyền thông là cơ quan quy định giá cước tối đa với
dịch vụ phát hành báo chí cơng ích qua mạng bưu chính cơng cộng.
Quy định về cấp giấy phép hoạt động báo chí
- Một nội dung quan trọng của quản lý nhà nước về báo chí là cấp giấy
phép hoạt động báo chí, giấy phép xuất bản đặc san, số phụ (báo chí in),
chương trình đặc biệt, chương trình phụ (đối với truyền hình, nghe nhìn).
Theo quy định của pháp luật hiện hành, Bộ Thơng tin và Truyền thông

được giao nhiệm vụ chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà
nước về báo chí. Việc cấp giấy phép hoạt động báo chí hiện nay (tất cả loại
hình báo chí) do một cơ quan duy nhất trong nước thực hiện là Bộ Thông tin
và Truyền thơng.
Điều kiện cấp giấy phép hoạt động báo chí được quy định tại Điều 17
Luật Báo chí 2016. Theo đó, để được cấp giấy phép hoạt động báo chí cần có
các điều kiện sau:
- Cơ quan chủ quản báo chí phải xác định loại hình báo chí; tơn chỉ,
mục đích phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan chủ quản; đối tượng
phục vụ; khuôn khổ tờ báo, kỳ phát hành, đối tượng phục vụ (đối với báo in)
chương trình, thời gian, thời lượng, phương thức truyền dẫn, phát sóng (đối
với báo nói, báo hình); tên miền, nơi đặt máy chủ và đơn vị cung cấp dịch vụ
kết nối (đối với báo điện tử).
- Có phương án về tổ chức và nhân sự bảo đảm hoạt động của cơ quan
báo chí, có người đủ tiêu chuẩn theo quy định tại Điều 23 Luật Báo chí 2016
để đảm nhiệm chức vụ người đứng đầu cơ quan báo chí (là cơng dân Việt
Nam, có địa chỉ thường trú tại Việt Nam; Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên;
Có thẻ nhà báo cịn hiệu lực; Có phẩm chất đạo đức tốt; khơng trong thời
gian thi hành hình thức kỷ luật từ khiển trách trở lên theo quy định của pháp
luật về công chức, viên chức và pháp luật về lao động).
- Có tên, hình thức trình bày tên cơ quan báo chí; tên và hình thức
trình bày tên ấn phẩm báo chí; tên và biểu tượng kênh phát thanh, kênh truyền
hình; tên và hình thức trình bày tên chuyên trang của báo điện tử.


16
- Có trụ sở và các điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật; phương án tài
chính; có các giải pháp kỹ thuật bảo đảm an tồn, an ninh thơng tin; đối với
báo điện tử phải có ít nhất một tên miền ".vn" đã đăng ký phù hợp với tên báo
chí và sử dụng hệ thống máy chủ đặt tại Việt Nam; đối với báo nói, báo hình

phải có phương án, kế hoạch thuê hoặc sử dụng hạ tầng truyền dẫn, phát sóng.
- Phù hợp với quy hoạch phát triển và quản lý báo chí tồn quốc được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Việc cấp giấy phép hoạt động báo chí phải căn cứ vào các điều kiện
quy định tại Điều 14, Điều 17 của Luật Báo chí 2016 gửi Bộ Thông tin và
Truyền thông đề nghị cấp giấy phép hoạt động báo chí. Hồ sơ xin cấp giấy
phép hoạt động báo chí do Bộ Thơng tin và Truyền thơng quy định.
Khoản 4 Điều 18 Luật Báo chí năm 2016 cũng quy định: Sau 03 tháng
đối với báo in và báo điện tử, 09 tháng đối với báo nói, báo hình, kể từ ngày
giấy phép hoạt động báo chí có hiệu lực, nếu cơ quan báo chí khơng được
thành lập hoặc khơng có sản phẩm báo chí thì giấy phép hết hiệu lực. Bộ
Thông tin và Truyền thông ra quyết định thu hồi giấy phép.
Đối với nhiều nước trên thế giới, việc cấp giấy phép là cơ chế để quản
lý quyền sở hữu và nội dung báo chí. Ở nước ta, báo chí cần phát triển theo
quy hoạch và Nhà nước cũng có cơ chế để quản lý nội dung báo chí.
Quy định về cấp, đổi thẻ nhà báo
Theo quy định tại khoản 7 Điều 28 Luật Báo chí 2016, Bộ Thông tin
và Truyền thông là cơ quan cấp, đổi, cấp lại và thu hồi thẻ nhà báo.
Thông tư 49/2016/TT-BTTTT ngày 26/12/2016 hướng dẫn cấp, đổi
và thu hồi thẻ nhà báo có quy định về đối tượng được cấp thẻ nhà báo, điều
kiện, tiêu chuẩn được cấp thẻ nhà báo, thủ tục và hồ sơ cấp thẻ nhà báo và
"Người đứng đầu cơ quan báo chí (Tổng biên tập, Tổng giám đốc, giám đốc)
duyệt bản khai, lập danh sách đề nghị cấp thẻ nhà báo cho những người đủ
điều kiện trong cơ quan báo chí mình và chịu trách nhiệm về toàn bộ hồ sơ
đề nghị cấp thẻ nhà báo.


17
Các nhà báo được đổi thẻ khi chuyển sang làm việc tại cơ quan, đơn vị
công tác khác mà cương vị công tác vẫn thuộc đối tượng được cấp thẻ nhà

báo; được cấp lại thẻ nhà báo khi làm mất, hư hỏng có đơn đề nghị có xác
nhận của cơ quan báo chí. Trường hợp người đang có thẻ nhà báo chuyển sang
cơ quan khơng thuộc ngành báo chí, người về hưu nhưng không tiếp tục cộng
tác với cơ quan báo chí để hoạt động báo chí, người đã hết hợp đồng lao động
nhưng không được ký tiếp hợp đồng lao động mới hoặc cơ quan báo chí bị thu
hồi giấy phép hoạt động thì người đứng đầu cơ quan báo chí chịu trách nhiệm
thu lại thẻ nhà báo và nộp cho Bộ Thông tin - Truyền thông (Cục Báo chí).
Với những điều, khoản được quy định cụ thể về cấp, thu hồi giấy
phép hoạt động báo chí và thẻ nhà báo trên đã thực sự trở thành công cụ, làm
cơ sở cho việc quản lý của Nhà nước đối với báo chí trong lĩnh vực này.
Về xuất bản, lưu chiểu báo chí
Một đặc điểm rất riêng mà chỉ có quản lý báo chí, xuất bản mới có đó
là quản lý việc nộp lưu chiểu.
Theo quy định tại điều 52 Luật Báo chí 2016, cơ quan báo chí phải
thực hiện chế độ lưu chiểu theo quy định sau đây:
a) Đối với báo chí Trung ương và báo chí in tại Hà Nội, cơ quan báo
chí phải nộp 5 bản cho cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở Trung ương
chậm nhất là 08 giờ sáng của ngày phát hành;
b) Đối với báo chí in tại địa phương, cơ quan báo chí phải nộp hai bản
cho cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở địa phương chậm nhất là 08 giờ
sáng của ngày phát hành; đồng thời nộp năm bản cho cơ quan quản lý nhà
nước về báo chí ở trung ương qua hệ thống bưu chính;
c) Cơ quan báo nói, báo hình có trách nhiệm lưu giữ tồn bộ chương
trình đã truyền dẫn, phát sóng, thơng tin về nguồn tín hiệu sử dụng để chuyển
tiếp sóng phát thanh - truyền hình trung ương trong thời hạn 30 ngày kể từ
ngày truyền dẫn, phát sóng; cung cấp tín hiệu truyền dẫn, phát sóng theo u
cầu của cơ quan có thẩm quyền để phục vụ cơng tác lưu chiểu điện tử;


18

d) Cơ quan báo điện tử phải thực hiện chế độ lưu trữ nguyên vẹn nội
dung thông tin đăng, phát trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đăng, phát để
phục vụ công tác kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước.
Điều kiện bắt buộc: Khi nộp báo in lưu chiểu, cơ quan báo chí phải
ghi rõ báo in nộp lưu chiểu, số lượng phát hành, ngày, giờ nộp lưu chiểu, chữ
ký của người đứng đầu cơ quan báo chí hoặc người được ủy quyền.
Báo in được in lại phải nộp lưu chiểu như in lần thứ nhất.
Báo in nộp lưu chiểu qua hệ thống bưu chính được ưu tiên chuyển
nhanh nhất đến cơ quan nhận lưu chiểu. Thời gian nộp lưu chiểu căn cứ vào
dấu bưu chính nơi chuyển đi.
Cơ quan báo in phải nộp năm bản ấn phẩm báo in để lưu giữ tại Thư
viện Quốc gia Việt Nam.
Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện việc lưu chiểu điện tử đối với
báo nói, báo hình và báo điện tử độc lập với cơ quan báo chí theo quy định
của Chính phủ; thực hiện việc đo kiểm và công bố số liệu liên quan đến hoạt
động báo chí.
Về chế độ nhuận bút
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định 18/2014/NĐ-CP ngày
14/3/2014 của Chính phủ thì nhuận bút là khoản tiền do bên sử dụng tác phẩm
trả cho tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả khi tác phẩm báo chí, xuất bản
phẩm (gọi chung là tác phẩm) được sử dụng.
Ngoài những quy định về nguyên tắc chung trả nhuận bút, Nghị định
18/2014/NĐ-CP cũng quy định rõ nhuận bút cho từng loại hình cụ thể. Tùy
theo thể loại, chất lượng tác phẩm, Tổng biên tập quyết định mức hệ số nhuận
bút của tác phẩm. Giá trị một đơn vị hệ số nhuận bút bằng 10% mức tiền
lương tối thiểu. Đối với cơ quan báo chí tự cân đối được kinh phí và có lãi do
hoạt động báo chí và các hoạt động kinh tế hỗ trợ, căn cứ vào chất lượng, thể
loại theo khung hệ số nhuận bút, Tổng biên tập có thể trả cho tác giả cao hơn
mức nhuận bút bình quân chung, nhưng không vượt quá nhuận bút cho phép.



19
Nhìn chung, với một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về
nhuận bút, trong nhiều năm qua các văn bản này đã tạo được tính pháp lý và
phát huy hiệu quả trong việc chi trả và hưởng thụ thù lao nhuận bút cho các
tác giả có tác phẩm, đồng thời góp phần khuyến khích được sự sáng tạo nhiều
tác phẩm báo chí có giá trị.
Quản lý nhà nước về nội dung, thơng tin trên báo chí
* Về vai trị, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của báo chí
Điều 4, Luật Báo chí nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2016
quy định: "Báo chí ở nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương
tiện thơng tin thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của cơ
quan Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã
hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; là diễn đàn
của nhân dân".
Nhiệm vụ, quyền hạn của báo chí được quy định cụ thể: Thơng tin
trung thực về tình hình đất nước và thế giới phù hợp với lợi ích của đất nước
và của Nhân dân; Tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thành
tựu của đất nước và thế giới theo tơn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí; góp
phần ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu
cầu văn hóa lành mạnh của nhân dân, bảo vệ và phát huy truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa;
Phản ánh và hướng dẫn dư luận xã hội; làm diễn đàn thực hiện quyền tự do ngôn
luận của nhân dân; Phát hiện, nêu gương người tốt - việc tốt, nhân tố mới, điển
hình tiên tiến; đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật và các
hiện tượng tiêu cực trong xã hội; Góp phần giữ gìn sự trong sáng và phát triển
tiếng Việt, tiếng của các dân tộc thiểu số Việt Nam; Mở rộng sự hiểu biết lẫn
nhau giữa các nước và các dân tộc, tham gia vào sự nghiệp của nhân dân thế

giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, hữu nghị, hợp tác, phát triển bền vững.


20
Luật Báo chí 2016 cũng quy định trách nhiệm của Nhà nước đối với
quyền tự do báo chí, quyền tự do ngơn luận trên báo chí của cơng dân (Điều 13):
Tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự
do ngơn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trị của mình. Báo
chí, nhà báo hoạt động trong khn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ.
Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngơn luận trên báo
chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và
cơng dân. Báo chí khơng bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng.
Luật Báo chí cũng quy định cụ thể những điều không được thông tin
trên báo chí (Điều 9): Khơng được kích động nhân dân chống Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phá hoại khối đồn kết tồn dân; khơng được
kích động bạo lực, tuyên truyền chiến tranh xâm lược, gây hận thù giữa các
dân tộc và nhân dân các nước, kích động dâm ơ, đồi trụy, tội ác; khơng được
tiết lộ bí mật Nhà nước, bí mật quân sự, kinh tế, đối ngoại và những bí mật
khác do pháp luật quy định; không được đưa tin sai sự thật, xuyên tạc, vu
khống nhằm xúc phạm danh dự của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của công dân.
* Thông tin trên báo chí
Khác với Luật Báo chí 1999, Luật Báo chí 2016 quy định cụ thể việc
cung cấp thông tin cho báo chí, tại Điều 38, như sau: Trong phạm vi quyền
hạn, nhiệm vụ của mình, các cơ quan, tổ chức, người có trách nhiệm có quyền
và nghĩa vụ cung cấp thơng tin cho báo chí và chịu trách nhiệm trước pháp
luật về nội dung thông tin đã cung cấp. Việc cung cấp thơng tin cho báo chí
có thể bằng văn bản, trên trang thông tin điện tử tổng hợp, họp báo, trả lời
phỏng vấn và các hình thức khác. Cơ quan báo chí phải sử dụng chuẩn xác
nội dung thơng tin được cung cấp và phải nêu rõ xuất xứ nguồn tin.
Phát ngơn trên báo chí: Cơ quan hành chính nhà nước có trách nhiệm

cử người phát ngơn, thực hiện phát ngơn và cung cấp thơng tin cho báo chí
định kỳ và đột xuất, bất thường.
Chính phủ quy định chi tiết việc phát ngôn và cung cấp thông tin cho
báo chí của các cơ quan hành chính nhà nước.


21
Ngày 4/5/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
25/2013/QĐ-TTg ban hành Quy chế phát ngôn và cung cấp thơng tin cho báo
chí thay thế Quy chế năm 2007.
Theo đó, Quy chế quy định về một số nội dung: Người phát ngôn (cử
người phát ngôn; Ủy quyền phát ngôn; Công bố thông tin người phát ngôn
(Họ và tên, chức vụ, số điện thoại và địa chỉ mail.)
Chế độ phát ngơn gồm định kỳ: Do Chính phủ tiến hành họp báo
1 tháng/01 lần và đăng tải thông tin trên cổng thơng tin điện tử Chính phủ;
Các bộ, ngành: Hàng tháng cung cấp thơng tin định kỳ cho báo chí và cập
nhật thông tin trên Cổng thông tin điện tử hoặc Trang thơng tin điện tử của cơ
quan mình theo Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 quy định về
việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên thông tin điện tử hoặc
cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước. Ít nhất 3 tháng một lần tổ chức
họp báo cung cấp thơng tin kịp thời, chính xác cho cổng thơng tin điện tử của
Chính phủ theo quy định hiện hành.
Phát ngôn và cung cấp thông tin đột xuất, bất thường: Khi cơ quan
hành chính nhà nước thấy cần thiết phải thơng tin trên báo chí về các sự kiện,
vấn đề quan trọng, gây tác động lớn trong xã hội thuộc phạm vi của cơ quan
mình nhằm định hướng và cảnh báo kịp thời trong xã hội. Trường hợp xảy ra các
vụ việc cần có ngay ý kiến ban đầu của cơ quan hành chính thì phải chủ động
phát ngơn, cung cấp thơng tin cho báo chí trong thời gian chậm nhất 1 ngày
kể từ khi vụ việc xây ra.
Để đảm bảo quyền được cung cấp thông tin của cơ quan báo chí, Luật

Báo chí 2016 cũng quy định các trường hợp cụ thể cơ quan, tổ chức, cá nhân
có quyền từ chối cung cấp thơng tin cho báo chí, sau đây: Thơng tin thuộc
danh mục bí mật nhà nước, bí mật thuộc nguyên tắc và quy định của Đảng, bí
mật đời tư của cá nhân và bí mật khác theo quy định của pháp luật. Thơng tin
về vụ án đang được điều tra hoặc chưa xét xử, trừ trường hợp cơ quan hành
chính nhà nước, cơ quan điều tra cần thơng tin trên báo chí những vấn đề có


×