Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường thực tiễn và giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả áp dụng trên địa bàn tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN NGỌC LINH

PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH
VỰC MƠI TRƢỜNG. THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ ÁP DỤNG TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Định hƣớng ứng dụng

HÀ NỘI, NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN NGỌC LINH

PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH
VỰC MƠI TRƢỜNG. THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ ÁP DỤNG TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH



Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và luật Hành chính
Mã số: 8380102

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Định hƣớng ứng dụng

Người hướng dẫn khoa học: TS. Dƣơng Thanh An

HÀ NỘI, NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn theo đúng quy định.
Tơi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn
này.
Tác giả

Nguyễn Ngọc Linh


LỜI CẢM ƠN
Em xin cảm ơn các thầy, cô trong Khoa Hành chính - Nhà nước, các thầy
cơ giảng dạy tại trường Đại học Luật Hà nội đã giúp đỡ em trong suốt q
trình học tập và nghiên cứu.
Để hồn thành cơng trình khoa học này, em xin chân thành cảm ơn sự

giúp đỡ nhiệt tình của Phịng Cảnh sát môi trường - Công an tỉnh Nam Định
(PC 49), Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Nam Định, các đồng nghiệp, bạn
bè và đặc biệt là xin tỏ lòng biết ơn đến Tiến sĩ Dương Thanh An, người luôn
quan tâm, chỉ dẫn tận tình trong quá trình thực hiện luận văn.
Mặc dù đã rất cố gắng, song do đây là vấn đề khá phức tạp nên luận văn
chắc chắn khó tránh khỏi những hạn chế, khiếm khuyết về nội dung và cách
trình bày, em rất mong được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy, cô để bản luận
văn được hoàn thiện hơn./.
Hà Nội, tháng 08 năm 2018
Tác giả

Nguyễn Ngọc Linh


MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn
Mở đầu
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT XỬ PHẠT VI
PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC MƠI TRƢỜNG
1.1. Vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
mơi trường
1.1.1. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực mơi trường
1.1.2. Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực mơi trường
1.2. u cầu đối với pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực bảo vệ môi trường
1.3. Thực trạng của pháp luật về các biện pháp xử lý vi phạm hành chính

1
7

7
7
10
18
21

trong lĩnh vực mơi trường
1.3.1. Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực mơi trường
1.3.2. Quy định của pháp luật về đối tượng bị xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực môi trường
1.3.3. Quy định của pháp luật về chế tài xử phạt vi phạm hành chính

22
25

1.3.4. Quy định của pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

30

1.3.5. Quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính
Kết luận Chƣơng I
Chƣơng 2: THỰC TIỄN XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC MƠI TRƢỜNG CỦA TỈNH NAM ĐỊNH
2.1. Tình hình áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực mơi trường của tỉnh Nam Định
2.1.1. Đặc điểm của tỉnh Nam Định

34
39
40


2.1.2. Tình hình xử phạt vi phạm hành chính về mơi trường của

43

26

40
40

tỉnh Nam Định
2.2. Tình hình thực hiện các hoạt động xử phạt vi phạm hành chính
2.2.1. Kết quả đạt được
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân
Kết luận Chƣơng II

45
45
50
56


Chƣơng 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT NÂNG CAO
HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT XỬ PHẠT VI
PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC MƠI TRƢỜNG TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực mơi trường
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luận nâng cao hiệu lực, hiệu quả áp
dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực mơi trường

trên địa bàn tỉnh Nam Định
3.2.1. Nhóm giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực mơi trường
3.2.2. Nhóm giải pháp về nâng cao nhận thức
3.2.3. Nhóm giải pháp về tổ chức, cán bộ
3.2.4. Nhóm giải pháp về sử dụng linh hoạt, hợp lý một số biện pháp
nghiệp vụ phát hiện, xác minh, xử phạt vi phạm hành chính về mơi trường
Phần kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục

57

57
60

60
68
70
74
76


NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI

BLHS

: Bộ luật hình sự

BVMT


: Bảo vệ môi trường

CAND

: Công an nhân dân

CSND

: Cảnh sát nhân dân

UBND

: Ủy ban nhân dân

VPPL

: Vi phạm pháp luật

VPHC

: Vi phạm hành chính

XLVPHC : Xử lý vi phạm hành chính
XPVPHC : Xử phạt vi phạm hành chính
CTNH

: Chất thải nguy hại

ĐTM


: Đánh giá tác động môi trường

PC 49

: Phịng cảnh sát mơi trường


DANH MỤC BẢNG, BIỂU

Bảng 1: Số vụ VPHC về BVMT từ năm 2014- 6 tháng đầu năm 2018
trên địa bàn tỉnh Nam Định
Bảng 2. Tổng hợp số vụ VPHC do Sở Tài nguyên Môi trường xử lý
Bảng 3. Tổng hợp số vụ VPHC do Cảnh sát Môi trường Công an tỉnh Nam
Định xử lý
Bảng 4. Danh sách các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng tại tỉnh
Nam Định


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mơi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống của con người, sinh vật,
đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc và tồn nhân
loại. Giữ cho mơi trường trong lành ln là mối quan tâm tồn cầu. Vì mơi trường có
trong sạch lành mạnh thì mới đảm bảo được điều kiện sống của con người, đảm bảo
được sự phát triển của xã hội. Thế nhưng sự tác động ngày càng nhiều của con người
đã gây ra những tác động xấu đến mơi trường. Trong số đó, vấn đề ơ nhiễm mơi trường
là vấn đề nóng bỏng đang ngày càng diễn biến theo chiều hướng xấu làm nảy sinh

những nguy cơ hủy hoại nghiêm trọng cho môi trường. Do vậy, bảo vệ môi trường
(BVMT) gắn liền với sự phát triển bền vững đã trở thành một nội dung quan trọng
trong các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia. BVMT bằng pháp luật
là một định hướng cơ bản của các quốc gia trên tồn thế giới nói chung và của Việt
Nam nói riêng. Nhận thức tầm quan trọng của vấn đề này, Đảng và Nhà nước ta đã và
đang chú trọng rất nhiều cho công tác xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật và chính sách BVMT. Bằng pháp luật Nhà nước ta đã từng bước điều chỉnh
các hành vi của các cá nhân, tổ chức trong xã hội hướng đến mục tiêu BVMT, ngăn
chặn các hành vi gây ơ nhiễm, suy thối và sự cố môi trường.
Nhà nước ban hành khá nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm mục tiêu
BVMT trong đó phải kể đến Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi và bổ sung năm
2017; Luật bảo vệ mơi trường 2014; Luật xử lý vi phạm hành chính 2012; Nghị định
155/2016/NĐ-CP quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường;
các nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường trong
từng vấn đề riêng. Tuy nhiên, thực trạng vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ở
Việt Nam vẫn diễn ra khá phổ biến, ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường và sức khỏe
của con người, ảnh hưởng đến công cuộc phát triển đất nước, trật tự kỉ cương xã hội và
gây những thiệt hại nhất định về kinh tế.
Nam Định, mảnh đất giàu truyền thống văn hiến và cách mạng, có bề dày lịch sử
lâu đời, diện tích đất tự nhiên 1.668km2, dân số 1,85 triệu người (2016), thuộc vùng
kinh tế trọng điểm Bắc bộ, nằm trên huyết mạch giao thông Bắc - Nam với hệ thống


2

đường bộ, đường sắt, đường thủy (cảng sông, cảng biển) hết sức thuận lợi, tạo cho
Nam Định lợi thế mới để mở rộng giao lưu hợp tác với các tỉnh Đơng bắc và ra cảng
biển Hải Phịng. Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Nam Định giai đoạn
2016 - 2020 là: Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa nơng nghiệp theo hướng hiện đại, ứng
dụng khoa học công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp nâng cao giá trị gia tăng,

chuyển dịch mạnh lao động nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, làm nền
tảng để xây dựng Nam Định phát triển nhanh và bền vững; Tổng sản phẩm trong tỉnh
GRDP (giá so sánh 2010) tăng bình quân 7,5 - 8%/năm. Ước tính GRDP bình
qn đầu người (giá hiện hành) năm 2020 đạt 70 - 75 triệu đồng, thu ngân sách
tăng bình quân 15%/năm; phát triển mạnh thương mại, dịch vụ tạo động lực thúc đẩy
phát triển công nghiệp, đô thị và đưa Nam Định trở thành trung tâm dịch vụ chất lượng
cao cấp vùng về y tế, giáo dục và đào tạo vào năm 2020; đẩy mạnh cải cách thủ tục
hành chính, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các cơ chế, chính sách vào thực tiễn của tỉnh,
nâng cao năng lực cạnh tranh; phát triển toàn diện lĩnh vực văn hóa - xã hội, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, đảm bảo môi
trường, an sinh xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, nhất là dân cư nông thôn. Song
song với đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội là tăng cường, giữ vững ổn định quốc
phòng - an ninh. Chính vì vậy, Nam Định đặc biệt quan tâm đến chiến lược trong các
lĩnh vực kinh tế - xã hội trong đó là vấn đề mơi trường. Thực tiễn áp dụng pháp luật về
xử phạt VPHC trong lĩnh vực môi trường cho thấy, các cơ quan chủ quản đặc biệt là
Sở tài nguyên môi trường tỉnh Nam Định đã vận dụng rất tốt các văn bản về xử phạt
VPHC trong lĩnh vực môi trường. Đối với các hành vi vi phạm pháp luật về môi
trường, Sở tài nguyên môi trường tỉnh Nam Định đã tham mưu đề xuất cho UBND
tỉnh ban hành rất nhiều văn bản để răn đe cưỡng chế những hành vi vi phạm pháp luật
về môi trường đối với các cá nhân, tổ chức đặc biệt là Quyết định số 12/2017/QĐUBND về việc Ban hành Quy định trách nhiệm bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh
Nam Định ngày 16 tháng 05 năm 2017 đã chỉ rõ các hành vi VPPL môi trường diễn ra
khá phức tạp trong nhiều lĩnh vực như: sản xuất công nghiệp, vấn đề đô thị , xây dựng
cơ bản, vệ sinh an toàn thực phẩm, khai thác tài nguyên …


3

Vì vậy, để tăng cường hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm, vi
phạm pháp luật về mơi trường việc hoàn thiện hệ thống về xử phạt VPHC trong lĩnh
vực môi trường qua thực tiễn áp dụng của tỉnh Nam Định theo hướng đồng bộ, thống

nhất và hợp lý là một đòi hỏi khách quan, là yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Xuất phát từ nguy cơ môi trường của tồn cầu, từ vai trị của pháp luật về xử phạt
VPHC trong lĩnh vực BVMT cũng như từ thực tiễn của tỉnh Nam Định tôi đã chọn đề
tài: “Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường. Thực tiễn
và giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả áp dụng trên địa bàn tỉnh Nam Định” làm
đề tài luận văn thạc sĩ của mình với mong muốn đóng góp một phần khiêm tốn nhằm
khắc phục những hạn chế thiếu sót của pháp luật về xử phạt VPHC trong lĩnh vực môi
trường nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng, chống VPPL về mơi trường.
2. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật
xử phạt VPHC trong lĩnh vực mơi trường, trên cơ sở đó đánh giá thực trạng pháp luật
và thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này của tỉnh Nam Định nhằm
tìm ra những ưu điểm, hạn chế, bất cập, vướng mắc của chúng. Trên cơ sở nghiên cứu
lý luận và đánh giá thực trạng luận văn sẽ đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật về xử phạt VPHC trong lĩnh vực môi trường của tỉnh Nam Định,
hướng tới mục tiêu hoàn thiện pháp luật hiện hành về xử phạt VPHC trong lĩnh vực
môi trường và nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng, chống VPPL trong lĩnh
vực mơi trường.
3. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua đã có một số cơng trình khoa học liên quan đến đề tài nghiên
cứu của luận văn, tiêu biểu là:
Luận văn thạc sỹ luật học “Hoàn thiện các quy định pháp luật về các biện pháp
xử phạt vi phạm hành chính” của tác giả Nguyễn Trọng Bình, Trường Đại học Luật Hà
Nội (2000) phân tích các hình thức xử phạt vi phạm hành chính được đề cập trong các
văn bản pháp luật, những ưu điểm và hạn chế của chúng khi áp dụng trong thực tiễn và
kiến nghị hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.


4


Luận văn thạc sỹ luật học “Hoàn thiện chế định thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính” của tác giả Nguyễn Thị Thủy, Trường Đại học Luật Hà Nội (2001) đi sâu
phân tích thực trạng pháp luật về thẩm quyền của các chủ thể được xử phạt vi phạm
hành chính và nêu ra giải pháp hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính.
Luận văn thạc sỹ luật học “Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
với người chưa thành niên” của tác giả Nguyễn Ngọc Bích, Trường Đại học Luật Hà
Nội (2003) đề cập đến những nguyên tắc, thực trạng pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính đối với người chưa thành niên và đề ra giải pháp hoàn thiện những quy định
pháp luật trong lĩnh vực này.
Luận văn thạc sỹ luật học “Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay - Một số vấn đề lý luận, thực tiễn và
phương hướng hoàn thiện” của tác giả Vũ Thanh Nhàn, Trường Đại học Luật Hà Nội
(2009) nghiên cứu thực trạng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thơng đường bộ ở Việt Nam từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật trong
lĩnh vực này.
Ngồi ra, cịn có các bài viết đăng tải trên Tạp chí luật học như: “Thủ tục xử phạt
vi phạm hành chính” của tác giả Bùi Thị Đào; “Hệ thống chế tài xử phạt vi phạm hành
chính - Những bất cập, hạn chế và phương hướng hoàn thiện” của tác giả Bùi Xuân
Đức; “Một số vấn đề hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính” của tác giả
Lê Vương Long; “Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính - Thực trạng quy định,
thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện” của tác giả Trần Minh Hương...
Trong các cơng trình nghiên cứu trên đây, trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn
có liên quan, các tác giả chỉ giới thiệu, phân tích, đánh giá về pháp luật và thực tiễn
hoạt động xử phạt vi phạm hành chính nói chung hoặc ở một số lĩnh vực quản lý nhà
nước khác chứ không đề cập chuyên sâu về vấn đề xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực môi trường qua thực tiễn áp dụng tại tỉnh Nam Định. Do vậy, luận văn sẽ tập
trung nghiên cứu vấn đề này nhằm cung cấp các luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc
hoàn thiện pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực mơi trường từ đó nâng
cao hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng, chống vi phạm pháp luật về môi trường.



5

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: các quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn thi hành
pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực mơi trường của tỉnh Nam
Định; và các quan điểm khoa học có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu: BVMT là nhiệm vụ vừa phức tạp, vừa cấp bách, có tính đa
ngành và liên vùng rất cao. Vì vậy, vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường vô
cùng phong phú, đa dạng và cơng tác xử lý cũng cực kỳ khó khăn và phức tạp, nhất là
trong điều kiện đất nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
như hiện nay. Do đó, trong luận văn này, tôi chỉ tập trung chủ yếu vào các quy định của
Luật BVMT năm 2014; Luật xử lý vi phạm hành chính 2012; Nghị định
155/2016/NĐ-CP quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường;
các nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và một
số quy định khác có liên quan cũng như thực tiễn thi hành các quy định này. Mặt khác,
luận văn cũng không đề cập tới toàn bộ nội dung của pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính mà tập trung vào một số nội dung cơ bản bao gồm: quy định về hành vi vi
phạm, hình thức xử phạt, mức phạt, các biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm quyền xử
phạt và thủ tục xử phạt.
Thời gian tiến hành khảo sát: 5 năm từ 2014 đến 6 tháng đầu năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và Pháp luật; các tư tưởng, quan điểm mang tính nguyên tắc của Đảng và
chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về hoàn thiện hệ thống pháp luật và xây dựng
Nhà nước pháp quyền và về vấn đề môi trường, đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích
các quan điểm khoa học có liên quan để giải quyết một số vấn đề lý luận cơ bản về vi
phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành chính nói chung và trong lĩnh vực về mơi
trường nói riêng.

Ngồi ra, đề tài cịn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so
sánh... để nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành, thực tiễn áp dụng pháp
luật và đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực mơi trường, nâng cao một bước hiệu lực, hiệu quả nhằm
ngăn chặn và xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm hành chính, tăng cường trật tự
kỷ cương trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội.


6

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Trong thời gian qua đã có rất nhiều đề tài, luận văn nghiên cứu về pháp luật xử
phạt vi phạm hành chính, tuy nhiên đây là một cơng trình khoa học nghiên cứu pháp
luật một cách tương đối toàn diện và hệ thống về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực môi trường tại tỉnh Nam Định.
Luận văn không những chỉ rõ được những bất cập trong các quy định của pháp
luật mà cịn tìm ra được những hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực mơi trường của tỉnh Nam Định, từ đó đưa ra những
kiến nghị có thể là ý kiến đóng góp cho việc hồn thiện hệ thống pháp luật về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường và nâng cao hiệu quả của cơng tác xử
phạt vi phạm hành chính trên thực tế.
7. Cơ cấu của luận văn
Để giải quyết các yêu cầu đặt ra, ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài
liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương I. Một số vấn đề lý luận về pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực mơi trường.
Chương II. Pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường của tỉnh Nam Định.
Chương III. Hồn thiện pháp luật xử phạt vi phạm hành chính nhằm nâng cao
hiệu lục, hiệu quả đấu tranh phòng, chống vi phạm hành chính trong lĩnh vực mơi

trường áp dụng trên địa bàn tỉnh Nam Định.


7

Chƣơng 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT XỬ PHẠT VI PHẠM
HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC MƠI TRƢỜNG
1.1. Vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực mơi trƣờng
1.1.1. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực mơi trƣờng
1.1.1.1. Khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực mơi trường
Vi phạm hành chính xảy ra khá phổ biến trong đời sống xã hội, đặc biệt
trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh hội nhập quốc tế như
hiện nay. Với số lượng xảy ra đáng kể, mang tính thường xuyên, vi phạm hành
chính đã và đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà
nước, tập thể, lợi ích của cá nhân cũng như lợi ích chung của tồn thể cộng đồng
và là nguyên nhân làm nảy sinh tình trạng phạm tội nếu không được ngăn chặn
và xử lý kịp thời.
Xây dựng định nghĩa vi phạm hành chính có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
quan trọng. Định nghĩa này giúp chúng ta nhận thức được sự khác biệt giữa vi
phạm hành chính với các loại vi phạm pháp luật khác. Trên cơ sở đó, có thể xác
định chính xác các vi phạm hành chính cụ thể, đánh giá đúng tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi nhằm xử lý nghiêm minh, triệt để, đúng pháp
luật loại vi phạm pháp luật này. Khái niệm “vi phạm hành chính” lần đầu tiên
được định nghĩa một cách chính thức tại Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính
ngày 30/11/1989, Điều 1 của Pháp lệnh này quy định “vi phạm hành chính là
hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm quy
tắc quản lý Nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của
pháp luật phải bị xử phạt hành chính”. Theo Khoản 1, Điều 2 Luật xử lý VPHC
2012 thì “VPHC là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy

định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”. Một quan điểm khác
cho rằng “ VPHC là hành vi do chủ thể có năng lực trách nhiệm hành chính thực
hiện một cách cố ý hoặc vơ ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà không


8

phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành
chính”1.
Tuy có sự khác nhau về cách diễn đạt song các quan điểm trên đều thống
nhất ở dấu hiệu chung như: VPHC là hành vi vi phạm trật tự hành chính của thể
nhân, pháp nhân nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự; chủ thể
thực hiện hành vi VPHC là cá nhân hoặc tổ chức và hành vi thực hiện là hành vi
có lỗi cố ý hoặc vơ ý; theo quy định phải bị xử phạt hành chính.
Nếu khái niệm VPHC được tiếp cận dưới tư cách là cái chung thì khái niệm
VPHC trong lĩnh vực mơi trường được tiếp cận là VPHC trong một lĩnh vực cụ
thể. Trên cơ sở các phân tích và khái niệm VPHC nói chung, có thể hiểu khái
niệm VPHC trong lĩnh vực mơi trường như sau: VPHC trong lĩnh vực môi trường
là hành vi trái pháp luật do chủ thể có năng lực chủ thể thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm hại trật tự quản lý hành chính nhà nước về môi trường nhưng
chưa gây thiệt hại hoặc đã gây thiệt hại đến môi trường nhưng chưa đến mức bị
xử lý bằng các biện pháp hình sự và theo qui định của pháp luật phải bị xử lý
bằng biện pháp chế tài hành chính.
1.1.1.2. Đặc thù của vi phạm hành chính trong lĩnh vực mơi trường
Ngồi những dấu hiệu chung của vi phạm hành chính, vi phạm hành chính
trong lĩnh vực mơi trường cũng có những nét đặc thù cần được lưu ý.
Thứ nhất, tính chất phong phú đa dạng của các vi phạm hành chính trong
lĩnh vực mơi trường.
Do mơi trường được tạo thành bởi nhiều thành phần môi trường nên hoạt

động BVMT được pháp luật quy định rất đa dạng và phong phú, bao gồm hoạt
động BVMT nói chung và hoạt động bảo vệ từng thành phần môi trường nói
riêng. Điều này cũng sẽ dẫn đến sự phong phú, đa dạng của các vi phạm hành
chính trong lĩnh vực mơi trường. Ngồi hành vi vi phạm các quy định pháp luật
về BVMT nói chung cịn có các hành vi vi phạm quy định pháp luật về BVMT
trong từng thành phần mơi trường nói riêng như: hành vi gây ơ nhiễm môi
trường nước; hành vi vi phạm các quy định về quản lý chất thải; các hành vi vi
1

Đại học Luật Hà nội, Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, NXB Công an nhân dân, 2015, tr.212


9

phạm các quy định về BVMT trong hoạt động nhập khẩu máy móc, thiết bị,
phương tiện giao thơng vận tải, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, phế liệu...
Do tính chất này, vi phạm hành chính trong lĩnh vực mơi trường không chỉ được
quy định tại một văn bản quy phạm pháp luật chung về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực mơi trường mà cịn được quy định ở một số văn bản quy phạm pháp
luật khác. Đây là những văn bản quy phạm pháp luật quy định xử phạt vi phạm hành
chính xâm phạm đến từng yếu tố, thành phần môi trường như: Nghị định số
33/2017/NĐ-CP ngày 03/04/2017 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực tài nguyên nước và khoáng sản; Nghị định số 115/2016/NĐ-CP ngày 08/07/2016
Nghi định sửa đổi một số điều của Nghị định 163/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11
năm 2013 của Chính phủ Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hóa
chất, phân bón, vật liệu nổ cơng nghiệp; Nghị định số 41/2017/NĐ-CP ngày 05 tháng
04 năm 2017 Nghị định sửa đổi bổ sung một số điều của các nghị định về xử phạt vi
phạm hành chính trong hoạt động thủy sản, lĩnh vực thú ý, giống vật nuôi, thức ăn
chăn nuôi, quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản;...
Thứ hai, vi phạm hành chính trong lĩnh vực mơi trường phần lớn đều liên

quan đến các quy định mang tính kỹ thuật và đặc trưng cho việc quản lý và
BVMT.
Khi quy định vi phạm hành chính trong lĩnh vực mơi trường, người ta thường
sử dụng “kết cấu dẫn chiếu”. Để xác định vi phạm hành chính trong lĩnh vực
BVMT phải xác định xem hành vi đó có vi phạm các quy định về khai thác, sử
dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên và BVMT hay không. Những quy định này
thường nằm rải rác ở những văn bản pháp luật chuyên ngành khác nhau. Ví dụ,
muốn khẳng định hành vi vi phạm về thải khí, bụi theo Điều 15 Nghị định số
155/2016/NĐ-CP thì cần căn cứ trên cơ sở giới hạn tối đa được phép thải các chất
độc hại và khơng khí. Giới hạn này được quy định cụ thể trong Quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia về khí thải cơng nghiệp đối với một số chất hữu cơ (QCVN
20:2009/BTNMT) hay trong Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải lị đốt chất
thải rắn y tế (QCVN 02:2008/BTNMT) do Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành.


10

Thứ ba, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm hành chính
trong lĩnh vực mơi trường phụ thuộc chủ yếu vào những thiệt hại mà hành vi đó
gây ra cho mơi trường, sức khỏe và tính mạng của con người nhưng việc xác
định những thiệt hại này không phải là công việc đơn giản. Lý luận cũng như
thực tiễn cho thấy việc xác định các thiệt hại về mơi trường gặp rất nhiều khó
khăn và điều này xuất phát từ nhiều lý do. Trước hết, thiệt hại do mơi trường gây
ra rất khó chứng minh đầy đủ. Do môi trường được cấu thành bởi rất nhiều thành
phần khác nhau, có mối liên hệ mật thiết và tác động tương hỗ lẫn nhau nên một
hành vi vi phạm hành chính về mơi trường có thể gây ra nhiều thiệt hại: thiệt hại
đối với từng thành phần môi trường cũng như đối với tổng thể môi trường, thiệt
hại đối với tài sản, sức khỏe, tính mạng của con người. Đồng thời, do môi trường
là đối tượng khai thác, sử dụng của rất nhiều người nên trên thực tế có những
thiệt hại về mơi trường có thể do sự tác động đồng thời của nhiều người, nhiều

nguyên nhân gây nên và những tác động này thường mang tính tiềm ẩn, đan xen.
Thêm vào đó, trong một số trường hợp không thể xác định được ngay mối quan
hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả xảy ra, vì hậu quả xảy ra có thể do
nhiều ngun nhân gây nên hoặc hậu quả không xảy ra ngay sau khi có hành vi
vi phạm mà phải trải qua một thời gian rất dài mới xuất hiện (ví dụ: các trường
hợp bị nhiễm chất độc hóa học...).
1.1.2. Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực mơi trƣờng
1.1.2.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực mơi trường
Cho đến nay, trong khoa học pháp lý nói chung và khoa học luật hành chính
nói riêng, khái niệm XPVPHC chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm luận giải
một cách thấu đáo. Xét dưới góc độ xã hội thì xử phạt các vi phạm trong xã hội
thuộc trách nhiệm của cả cộng đồng, trong đó có nhà nước. Xem xét thuật ngữ
XPVPHC phải bắt đầu đi từ thuật ngữ “xử phạt VPPL” nói chung. Trong Đại từ
điển Tiếng Việt, thuật ngữ “xử phạt” được thể hiện qua cụm từ như: “xem xét và
giải quyết một vụ phạm lỗi nào đó như xử lí các vụ vi phạm pháp luật”.2, theo đó
ở góc độ chung nhất XPVPHC cũng có thể hiểu nó ln gắn với một vụ trái pháp
2

Hồng Phê, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2002, tr.639.


11

luật hành chính cụ thể của đối tượng cụ thể, địi hỏi chủ thể có thẩm quyền là nhà
nước phải xem xét và giải quyết vụ vi phạm pháp luật hành chính cụ thể đó.
Về phương diện lý luận pháp lý, XPVPHC là việc chủ thể có thẩm quyền nhà
nước áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính cụ thể đối với chủ thể thực hiện
hành vi vi phạm hành chính trên thực tiễn nhằm bảo vệ và duy trì trật tự quản lý hành
chính nhà nước trên các lĩnh vực. Thực chất, XPVPHC là hoạt động thực thi pháp
luật nhằm bảo vệ pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền quản lý hành chính nhà

nước. Dưới góc độ tiếp cận như vậy, có một số quan điểm về XPVPHC như sau:
Quan điểm thứ nhất, một số nhà khoa học đã đồng nhất XPVPHC với
“trách nhiệm hành chính theo nghĩa tiêu cực”, có nội hàm “đó là sự phản ứng
tiêu cực đối với người thực hiện VPHC, kết quả là chủ thể thực hiện VPHC phải
gánh chịu những hậu quả bất lợi, thiệt hại về vật chất và tinh thần so với tình
trạng ban đầu của họ.3
Trong quan điểm trên, khi đồng nhất XPVPHC với trách nhiệm hành chính
tiêu cực của chủ thể VPHC là chưa thoả đáng. Nói đến trách nhiệm hành chính
người ta chỉ nói đó là phản ứng của nhà nước đối với người vi phạm hành chính
và trách nhiệm hành chính là một chế định của luật hành chính. Cịn XPVPHC
khơng phải là một chế định của luật hành chính mà nó là hoạt động áp dụng pháp
luật hành chính của chủ thể có thẩm quyền quản lý nhà nước. Hơn nữa, quan
niệm XPVPHC - gánh chịu hậu quả bất lợi đối với người vi phạm không thể hiện
đặc điểm áp dụng pháp luật đối với đối tượng vi phạm hành chính của cơ quan
hành chính nhà nước, cá nhân được trao quyền hành chính. XPVPHC hướng đến
việc nhà nước phải áp dụng pháp luật để truy cứu trách nhiệm hành chính đối với
chủ thể vi phạm chứ không phải việc chủ thể VPHC phải chịu hậu quả bất lợi.
Nói cách khác, kết quả của XPVPHC chính là việc chủ thể vi phạm phải gánh
chịu hậu quả bất lợi như thế nào?.
Quan điểm thứ hai, xử phạt vi phạm pháp luật nói chung (trong đó có vi
phạm hành chính) thực chất là hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lý qua việc
phân tích sự khác nhau về nội hàm của hai khái niệm trách nhiệm pháp lý và
3

PGS.TS. Nguyễn Cửu Việt, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, tr.395


12

truy cứu trách nhiệm pháp lý. Trong đó trách nhiệm pháp lý là việc chủ thể

phải gánh chịu hậu quả bất lợi do có hành vi vi phạm pháp luật, còn xử phạt vi
phạm pháp luật là việc chủ thể có thẩm quyền của nhà nước tiến hành các biện
pháp cần thiết để buộc chủ thể vi phạm phải chịu hậu quả bất lợi. Theo quan
điểm này, nội hàm của khái niệm xử phạt vi phạm pháp luật, (trong đó có
XLVPHC) được xác định “là sự áp dụng những biện pháp cưỡng chế của nhà
nước với những chế tài pháp luật cụ thể, là một quá trình hoạt động của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền trong việc xem xét và giải quyết những vụ việc vi
phạm pháp luật (trong đó có VPHC), đồng thời tổ chức thực hiện những quyết
định giải quyết” 4. Nếu đặt khái niệm XPVPHC với nội dung của quan điểm
trên trong quá trình thi hành pháp luật của chủ thể mang quyền lực nhà nước để
xem xét thì có thể quan niệm này đã xem XPVPHC chỉ là quá trình xem xét và
giải quyết, tổ chức thực hiện quyết định xử lý, không coi hoạt động phát hiện ra
vi phạm hành chính là nội dung của khái niệm. Đồng thời, XPVPHC hoàn toàn
tách biệt với hoạt động xác minh VPHC, trong khi đó, xác minh VPHC là hoạt
động liên quan trực tiếp, mật thiết ảnh hưởng đến chất lượng của việc
XPVPHC, do đó có thể dẫn đến sự phiến diện, thiếu đầy đủ trong việc nghiên
cứu những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động XPVPHC.
Quan điểm thứ ba, XLVPHC là xử phạt vi phạm hành chính. Trong cách
tiếp cận, quan niệm “XLVPHC - phạt hành chính” đã phản ánh được mối quan
hệ giữa một bên là sự phản ứng cơ quan nhà nước có thẩm quyền qua việc áp
dụng các biện pháp chế tài phạt hành chính và bên kia là đối tượng VPHC. Tuy
nhiên, biện pháp phạt chủ yếu hướng đến trừng phạt chưa đạt được mục đích
khơi phục lại trật tự quản lý hành chính nhà nước đã bị phá vỡ do VPHC. Nếu
quan niệm XLVPHC là xử phạt hành chính thì dẫn đến việc coi nhẹ các biện
pháp khơi phục hành chính, điều đó làm cho mục đích XLVPHC khơng được
bảo đảm. Do đó, XLVPHC là khái niệm rộng, bao trùm, trong đó biện pháp xử
phạt hành chính và áp dụng các biện pháp khơi phục hành chính là hai “nhánh”
4

Học viện chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (1995), Nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa, Tập

1, Nxb Chính trị quốc gila, Hà nội, tr.145


13

chế tài xử lý vi phạm hành chính có sự khác biệt nhất định.
Quan điểm thứ tư, Luật xử lý VPHC của Việt Nam hiện hành không định
nghĩa trực tiếp XLVPHC nhưng trong phạm vi điều chỉnh của Luật đã gián tiếp
đề cập đến XLVPHC, theo đó: “XLVPHC là việc áp dụng xử phạt hành chính và
biện pháp xử lý hành chính”5. Trong đó, xử phạt vi phạm hành chính là việc
người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục
hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy
định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Biện pháp xử lý hành chính là
biện pháp được áp dụng đối với cá nhân vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an
toàn xã hội mà không phải là tội phạm, bao gồm biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Quan niệm này cho thấy, tên của Luật được
xác định theo nghĩa rộng (Luật XLVPHC), trong khi biện pháp xử lý đối với vi
phạm hành chính lại chia thành hai loại: biện pháp xử phạt và biện pháp xử lý
hành chính. Vấn đề đặt ra nếu xác định VPHC là cơ sở của XLVPHC thì biện
pháp chế tài XLVPHC chỉ cần là phạt hành chính, khơi phục hành chính là đủ.
Nếu theo cách tiếp cận của luật thì biện pháp phạt hành chính được tiếp cận theo
nghĩa hẹp, cịn biện pháp xử lý hành chính được hiểu theo nghĩa rộng (theo tên
của Luật), nên đã dẫn đến sự lộn xộn trong xác định phạm vi tác động của Luật.
Thực chất, vi phạm pháp luật thuộc trường hợp áp dụng các biện pháp xử lý
hành chính đều là vi phạm hình sự nhỏ, phải được áp dụng theo thủ tục xử lý tư
pháp đặc biệt. Việc xem các trường hợp, đối tượng vi phạm hình sự nhỏ thuộc
phạm vi của Luật XLVPHC đã dẫn đến hành chính hóa các quan hệ hình sự, làm
cho cách định nghĩa về XLVPHC trở lên mâu thuẫn và khơng đúng tính chất xử
lý hành chính.

Mặc dù chưa có quan niệm chung về XPVPHC nhưng nhìn chung XPVPHC
đã được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong các quan điểm cũng đã nêu
lên những nội dung cơ bản có liên quan đến XPVPHC như khẳng định: XPVPHC
là hoạt động áp dụng một số biện pháp cưỡng chế hành chính của chủ thể mang
5

Quốc hội (2012), Luật Xử lý vi phạm hành chính, Hà nội.


14

quyền lực hành chính nhà nước trong trường hợp có VPHC trên thực tế xảy ra. Tuy
nhiên, có một số vấn đề cần trao đổi thêm để có được cái nhìn tồn diện và thấu đáo
về đặc điểm XLVPHC. Đó là:
Thứ nhất, XPVPHC là quá trình bao gồm hệ thống các hành vi (hoạt động)
của các chủ thể mang quyền lực nhà nước để lựa chọn biện pháp xử lý hành
chính với tính cách là kết cục cuối cùng mà chủ thể VPHC phải nhận lấy theo
quan hệ nhân - quả tương ứng với tính chất VPHC mà họ đã thực hiện. Bao gồm
từ phát hiện ra VPHC về môi trường đến tổ chức thực hiện quyết định xử phạt
VPHC về mơi trường.
Xử phạt VPHC có quan hệ trực tiếp đến quyền con người, quyền sở hữu tài
sản của cá nhân, tổ chức nên nó phải được tiến hành theo những giai đoạn cụ thể
với trình tự, thủ tục, cách thức thực hiện do pháp luật hành chính quy định. Quá
trình phát sinh nghĩa vụ của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền hành
chính trong XPVPHC phải bắt đầu từ khi có VPHC và kết thúc khi VPHC đó
được giải quyết triệt để, gồm các giai đoạn: phát hiện VPHC; xác minh vi phạm
hành chính; ra văn bản xử lý VPHC; thực hiện văn bản xử lý VPHC; cưỡng chế
thi hành quyết định xử lý vi phạm hành chính. Mỗi giai đoạn đều có những giới
hạn hành vi nhất định mà chủ thể có thẩm quyền xử lý phải tôn trọng để tránh sự
lạm quyền. Đồng thời, khi XPVPHC địi hỏi chủ thể có thẩm quyền phải lựa

chọn đúng đắn các thủ tục tương ứng với từng loại VPHC nhằm bảo đảm tính
đúng đắn trong việc xử phạt VPHC. Nếu lựa chọn không đúng thủ tục hoặc thiếu
các bước trong trình tự thủ tục thì việc xử phạt bị coi là vi phạm và kết quả xử
phạt VPHC khơng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thừa nhận và cấp có
thẩm quyền sẽ huỷ bỏ kết quả giải quyết.
Thứ hai, chủ thể có thẩm quyền XPVPHC thường thuộc về hệ thống cơ
quan thực hiện quyền hành pháp nhà nước (cơ quan hành chính nhà nước, cá
nhân có thẩm quyền hành chính) và được thực hiện theo thủ tục hành chính đơn
giản hơn so với thủ tục tố tụng được áp dụng trong lĩnh vực tư pháp. Giữa cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xử lý và cá nhân, tổ chức bị xử lý khơng có sự lệ
thuộc về mặt tổ chức.


15

Thứ ba, các biện pháp chế tài XLVPHC đều hướng đến việc buộc chủ thể
VPHC phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi tương ứng với VPHC gây ra, thể hiện
tính chất là kết cục cuối cùng dành cho chủ thể VPHC. Nó có thể là biện pháp xử
phạt về mặt vật chất hoặc tinh thần đối với chủ thể VPHC hoặc là biện pháp
hướng đến khôi phục lại trật tự quản lý nhà nước về môi trường đã bị xâm hại.
Trong đó, các biện pháp phạt sẽ gây cho chủ thể vi phạm hậu quả bất lợi, nhưng
so với biện pháp xử phạt hình sự, độ nghiêm khắc của biện pháp phạt hành chính
thấp hơn nhiều. Các biện pháp khơi phục hành chính có tính chất “đền bù” của
biện pháp xử lý dân sự nhưng nó được áp dụng trong quan hệ với một bên là Nhà
nước nên luôn mang quyền lực nhà nước.
Thứ tư, mục đích của XPVPHC là nhằm trừng phạt chủ thể VPHC, giáo
dục, phòng ngừa, khơi phục lại trật tự quản lý hành chính đã bị xâm phạm.
Từ những điều trình bày ở trên, có thể quan niệm, XPVPHC là hệ thống
hoạt động của chủ thể có thẩm quyền theo qui định của pháp luật áp dụng các
biện pháp chế tài xử lý hành chính đối với chủ thể vi phạm hành chính theo thủ

tục hành chính nhằm buộc chủ thể VPHC phải gánh chịu những hậu quả bất lợi
về vật chất, tinh thần tương ứng với vi phạm mà họ gây ra.
Trên cơ sở xem xét XPVPHC với tư cách là cái chung, còn xem xét
XPVPHC trong lĩnh vực môi trường là xem xét cái riêng, trong một lĩnh vực cụ
thể. Theo đó, khái niệm XPVPHC trong lĩnh vực môi trường được hiểu là “là hệ
thống các hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền
hành chính áp dụng những biện pháp xử phạt hành chính và khơi phục hành
chính đối với chủ thể VPHC trong lĩnh vực môi trường theo thủ tục hành chính
nhằm bảo vệ, duy trì trật tự quản lý nhà nước trong lĩnh vực môi trường”
1.1.2.2. Đặc thù của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực mơi trường
Ngồi những đặc điểm chung giống như xử lý vi phạm hành chính trong các
lĩnh vực khác, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực mơi trường có những
đặc thù gắn liền với những đặc thù của loại vi phạm này như đã phân tích ở phần
trên, cụ thể:


16

Một là, do vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường phần lớn đều gắn
với các quy định mang tính kỹ thuật và đặc trưng cho việc quản lý và BVMT nên
để có thể xử phạt đúng đắn loại vi phạm này cần phải vận dụng chính xác các
quy phạm pháp luật mơi trường, trong đó đặc biệt là các quy chuẩn kỹ thuật quốc
gia về môi trường. Xuất phát từ điều này, khi xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực mơi trường hầu như đều phải thực hiện thủ tục giám định chất lượng môi
trường. Đây là một hoạt động mang tính nghiệp vụ chun mơn kỹ thuật cao
nhưng lại là cơ sở để xác định vi phạm hành chính về mơi trường và đánh giá tính
chất, mức độ vi phạm gây ra. Ý kiến chuyên môn này của bộ phận giám định, vì
thế, có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Cũng chính từ đặc thù nói trên mà hoạt động xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực môi trường hầu hết được thực hiện trên cơ sở tiến hành các đợt

kiểm tra, thanh tra về môi trường bao gồm, thanh tra đột xuất, thanh tra định kỳ
theo quý, hoặc năm. Đây là một điểm đặc trưng của xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực mơi trường so với xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực
quản lý hành chính nhà nước khác.
Hai là, do vi phạm hành chính về mơi trường phong phú và đa dạng, cho
nên xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường được quy định trong
nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Có những văn bản quy phạm pháp luật quy
định xử phạt hành chính mang tính hệ thống (Nghị định số 155/2016/NĐ-CP
ngày 18 tháng 11 năm 2016 Nghị định về quy định xử phạt hành chính trong lĩnh
vực bảo vệ mơi trường), cũng có những văn bản quy phạm pháp luật quy định xử
phạt hành chính mang tính riêng lẻ theo từng thành phần của mơi trường (Ví dụ:
Nghị định 33/2017/NĐ-CP ngày 03 tháng 04 năm 2017 Nghị định về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản; Nghị định
41/2017/NĐ-CP ngày 05 tháng 04 năm 2017 Nghị định sửa đổi, bổ sung một số
điều của các Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thủy sản;
lĩnh vực thú ý, giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi; quản lý rừng, phát triển rừng,
bảo vệ rừng và quản lý lâm sản; Nghị định 119/2017/NĐ-CP ngày 01 tháng 11
năm 2017 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo


17

lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa; Nghị định 90/2017/NĐ-CP ngày 30
tháng 07 năm 2017 quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực thú y…).
Ba là, do đặc thù của vi phạm hành chính trong lĩnh vực mơi trường nên khi
xử phạt loại vi phạm này việc phân định giữa tội phạm mơi trường và vi phạm
hành chính trong lĩnh vực mơi trường cũng có nhiều vấn đề cần lưu tâm.
Vi phạm hành chính và tội phạm trong lĩnh vực môi trường đều là những
hành vi nguy hiểm cho xã hội và chứng chỉ khác nhau ở “mức độ nguy hiểm của
hành vi”. Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực mơi trường ít nguy hiểm cho

xã hội hơn so với hành vi bị coi là tội phạm về môi trường. Để xác định mức độ
nguy hiểm khác nhau cho xã hội của vi phạm hành chính và tội phạm nói chung,
có thể dựa trên những tiêu chí chung như tính chất của khách thể bị xâm hại, đặc
điểm cá nhân của chủ thể vi phạm, tính chất và mức độ lỗi, động cơ, mục đích vi
phạm, mức độ thiệt hại do vi phạm hành chính gây ra, mức độ tái phạm.
Về dấu hiệu “đã bị xử phạt hành chính”: cần nhận thức rằng mơi trường là
một thể thống nhất, các bộ phận của nó khơng thể tồn tại độc lập với nhau và với
mơi trường nói chung. Ý thức BVMT không thể chỉ là ý thức đối với một bộ
phận cấu thành nào đó của mơi trường. Để nâng cao ý thức và trách nhiệm giữ
gìn, BVMT của mọi người, việc áp dụng những biện pháp chế tài có tính chất
cứng rắn như chế tài hình sự đối với các hành vi xâm hại môi trường là điều cần
được quan tâm. Vì vậy, nhìn chung dấu hiệu tái phạm thông thường được hiểu là
cá nhân hay tổ chức đó đã bị xử phạt hành chính đối với hành vi xâm hại mơi
trường nói chung mà vẫn tiếp tục vi phạm chứ không nhất thiết phải là những
hành vi vi phạm cùng loại.
Về dấu hiệu “mức độ thiệt hại trực tiếp của hành vi”: Đây là tiêu chí mang
tính chất tương đối, rất khó xác định chính xác vì phụ thuộc vào nhiều yếu tố
khác như: tính chất của hành vi, quy mô của hành vi, thiệt hại vật chất, khả năng
khắc phục những thiệt hại cho môi trường... Đặc biệt, như đã nêu ở phần trên,
trong lĩnh vực môi trường, việc đánh giá mức độ của thiệt hại có những đặc thù
riêng. Do đó sẽ khơng hợp lý nếu chỉ đơn giản áp dụng những quy định của pháp
luật xác định mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm để khẳng định


×