Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (699.64 KB, 82 trang )



KHOA LUẬT
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI




BÙI HUY TÙNG



HOÀN THIỆN PHÁP LUẬTVỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH

CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC





Người hướng dẫn PGS TS : PHẠM HỒNG THÁI





Hà nội: 2007






3
CHỮ VIẾT TẮT

NGHỊ ĐỊNH 49
NGHỊ ĐỊNH 49/2005/NĐ-CP NGÀY 11/4/2005 CỦA CHÍNH PHỦ
VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC
GIÁO DỤC

4
PHẦN MỞ ĐẦU

I. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trong thời kỳ đổi mới toàn diện về mọi mặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Theo đó, công cuộc đổi mới, công nghiệp
hóa và hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn hiện nay đã và đang đặt ra yêu
cầu tăng cường pháp luật và pháp chế trong quản lý xã hội trên những mức
độ và sắc thái mới phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Quản lý xã hội bằng pháp luật đã trở thành một nhu cầu cấp thiết, là
một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo thắng lợi công cuộc xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân ở nước ta hiện nay,
góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Giáo dục là một lĩnh vực đặc biệt quan trọng, thông qua hoạt động
giáo dục con người dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu
cầu đề ra. Ở Việt Nam, quan điểm “ phát triển giáo dục là quốc sách hàng
đầu” vẫn được ghi nhận là quan điểm xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX tiếp tục xác định
những quan điểm và phương hướng cơ bản để tiếp tục nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống

trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa,
xã hội hóa”, thực hiện công bằng trong giáo dục.
Luật Giáo dục 2005 khẳng định mục tiêu giáo dục là “ đào tạo con
người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm
mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công
dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Để thực hiện triệt để quan điểm chỉ đạo của Đảng, thực hiện thành
công mục tiêu giáo dục, đảm bảo nguyên tắc pháp chế, ngoài cơ chế tổ chức

5
quản lý giáo dục nhất thiết cần phải có cơ chế xử lý vi phạm phù hợp, mà
trong đó xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục là một nội dung
đặc biệt quan trọng.
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính được Ủy ban thường vụ Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X thông qua ngày 02-7-
2002, Nghị định số 49/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005định của Chính phủ quy
định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực giáo dục và các văn bản pháp lý
liên quan được ban hành đã đáp ứng một cách cơ bản yêu cầu về một hành
lang pháp lý cần thiết cho việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo
dục.
Mặc dù vậy, qua nghiên cứu cho thấy, các quy định về xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giáo dục ở nước ta phần lớn mới được ban hành,
còn tồn tại nhiều nội dung chưa phù hợp với thực tiễn, chưa thể đi vào thực
tiễn, có những quy định chưa bắt nguồn từ thực tiễn.
Xuất phát từ những tồn tại nêu trên, nhất thiết cần phải nghiên cứu
một cách toàn diện, có hệ thống nhằm từng bước hoàn thiện các quy định về
xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục, đưa những quy định này
trở thành công cụ pháp lý hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà
nước trong lĩnh vực giáo dục.

Cụ thể hơn, thông qua việc hoàn thiện các quy định về xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giáo dục sẽ góp phần đấu tranh phòng ngừa và
chống vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục một cách có hiệu quả,
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
II. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trước hết, cần khẳng định rằng đã có nhiều đề tài nghiên cứu về lĩnh
vực giáo dục của nhiều ngành khoa học khác nhau như Tâm lý học; Xã hội
học; Quản lý giáo dục….Kết quả nghiên cứu của các ngành khoa học này
phục vụ rất tốt cho hoạt động nghiên cứu đề tài đang lựa chọn.

6
Đối với ngành Luật học hiện có một số đề tài nghiên cứu về xử lý vi
phạm hành chính hay các đề tài với nội dung nhằm hoàn thiện pháp luật về
giáo dục, tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các bậc đào
tạo. Tuy nhiên các đề tài này nghiên cứu trên bình diện rộng, với hướng
hoàn thiện chung, chưa đề tài nào phân tích một cách chi tiết nội dung hoàn
thiện các quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục.
Có thể nói, đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu về xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giáo dục. Đề tài nghiên cứu chi tiết về một vấn đề hẹp
nhưng cụ thể, đảm bảo ý nghĩa khoa học và tính khác biệt so với các đề tài
khác trong cùng ngành nghiên cứu.
Mặc dù vậy, có thể nói, các công trình nghiên cứu trong cùng lĩnh vực
đề cập ở trên đều là những tài liệu tham khảo có giá trị cao để tác giả nghiên
cứu và hoàn thành luận văn này.
III. Phạm vi nghiên cứu
Xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giáo dục nói riêng là một vấn đề rộng lớn và phức tạp, trong
khuôn khổ có giới hạn, luận văn chỉ tập trung vào một số khía cạnh pháp lý
chủ yếu liên quan đến vấn đề xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo
dục, đặc biệt là quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo

dục.
IV. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
a. Mục đích nghiên cứu của Luận văn: Đề tài tập trung phân tích toàn
diện, có hệ thống các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giáo dục, thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về xử
lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục nhằm tìm ra hướng hoàn
thiện, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của nội dung quản lý nhà nước về giáo dục.
b. Nhiệm vụ của Luận văn:
- Tổng kết các cơ sở lý luận về xử lý vi phạm hành chính nói chung và
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục nói riêng.

7
- Nghiên cứu thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy phạm trong quá trình xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục.
- Nghiên cứu và tìm ra những quy định chưa phù hợp, các chế định
chưa được đề cập tới hoặc có đề cập nhưng chưa đầy đủ, thiếu khả thi trong
văn bản pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục.
V. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu việc hoàn thiện các
quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục
ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu lực
của hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục.
b. Phạm vi nghiên cứu: Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo
dục bao gồm nhiều vấn đề lớn đặt ra cần quan tâm nghiên cứu. Đề tài nghiên
cứu của Luận văn tập trung chú ý vào việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn
để hoàn thiện các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giáo dục. Là một đề tài nghiên cứu lý luận, luận văn không đi quá sâu ở
từng nội dung trong hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo
dục. Tuy nhiên, luận văn có phân tích và khái quát hóa các yêu cầu thực tế

của từng nội dung để làm nổi bật vấn đề quan tâm chủ yếu là: Hoàn thiện
các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục.
VI. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt
Nam về xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giáo dục nói riêng.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của Triết học Mác-
Lênin như Phương pháp biện chứng, lịch sử; Phương pháp phân tích, tổng
hợp, hệ thống hóa; Phương pháp so sánh, thống kê; Phương pháp xã hội học,
xin ý kiến chuyên gia…

8
VII. Đóng góp mới và giá trị khoa học của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện, tập
trung và trực tiếp về vấn đề xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo
dục nhằm mục đích đưa ra phương hướng và đề xuất giải pháp hoàn thiện
quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu,
giảng dạy, học tập phục vụ việc hoàn thiện pháp luật về giáo dục nói chung
và pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục nói riêng.
VIII. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm : Lời mở đầu, 3 chương, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo.




9
CHƢƠNG I

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC

1. Khái niệm vi phạm hành chính và vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giáo dục; Các dấu hiệu của vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giáo dục; Cấu thành vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục
1.1. Khái niệm vi phạm hành chính và vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giáo dục.
Vi phạm hành chính là hành vi được thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý
bởi cá nhân, cơ quan, tổ chức, vi phạm các quy định của pháp luật về quản
lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải
bị xử lý vi phạm hành chính.
Bản chất của vi phạm hành chính là hành vi vi phạm các quy định của
pháp luật về quản lý nhà nước do cá nhân, tổ chức thực hiện và vi phạm này
không phải là tội phạm, tức chưa đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, trong đó
yếu tố có tính chất quyết định là mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi,
nói một cách khác, mức độ nguy hiểm của hành vi thấp hơn tội phạm.
Về giáo dục, hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau. Theo Từ điển
Tiếng Việt năm 1997 do Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản thì giáo dục là
hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần,
thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được
những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra.
Hiểu một cách rộng hơn, giáo dục là hoạt động có mục đích, có
chương trình, tác động vào con người thông qua một hệ thống các biện pháp
tác động nhằm truyền thụ tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và lối
sống, chuẩn bị cho đối tượng của giáo dục tham gia lao động, đi vào đời
sống xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. Giáo dục là hoạt động tất yếu

10
của phát triển xã hội loài người, là một bộ phận cơ bản của quá trình tái sản

xuất mở rộng lao động xã hội.
Như vậy, hiểu một cách chung nhất, vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giáo dục chính là vi phạm các nội dung hoạt động nhằm truyền thụ tri thức
và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và lối sống, chuẩn bị cho đối tượng của
giáo dục tham gia lao động, đi vào đời sống xã hội và nâng cao chất lượng
cuộc sống.
Hiểu theo phương diện pháp lý, vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giáo dục là một dạng của vi phạm hành chính nói chung được thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý bởi cá nhân, tổ chức, vi phạm các quy định quản lý nhà
nước trong lĩnh vực giáo dục mà không phải là tội phạm và theo quy định
của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và Nghị định của Chính phủ quy
định về xử phạm vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục phải bị xử phạt
vi phạm hành chính.
Pháp luật hiện hành đã quy định những nội dung, đối tượng cụ thể
thuộc lĩnh vực giáo dục là đối tượng bị xâm hại bởi hành vi vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giáo dục.
Căn cứ Luật Giáo dục 2005 và Nghị định số 49/2005/NĐ-CP ngày
11/4/2005 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giáo dục ta có thể hiểu lĩnh vực giáo dục là đối tượng xâm hại của hành
vi vi phạm hành chính ở 14 nội dung cơ bản.
Thông qua 02 khái niệm về vi phạm hành chính và vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giáo dục nêu trên, chúng ta thấy vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giáo dục thống nhất với vi phạm hành chính nói chung ở các dấu
hiệu pháp lý cơ bản của vi phạm hành chính: hành vi; tính trái pháp luật của
hành vi; tính có lỗi và tính bị xử phạt hành chính.
1.2. Các dấu hiệu của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục
Vi phạm hành chính nói chung và vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giáo dục nói riêng đều có những dấu hiệu cụ thể như sau:

11

Thứ nhất, vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục là một hành vi.
Theo Các-Mác thì “ con người chỉ tồn tại đối với pháp luật thông qua
hành vi của mình”. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục cũng như
mọi vi phạm khác, trước hết nó phải là hành vi, nó chỉ được thực hiện bởi
hành vi. Những suy nghĩ, quan niệm, tư tưởng, khi chưa thể hiện thành hành
vi thì dù xấu thế nào cũng chưa phải là vi phạm pháp luật. Hành vi có thể
thực hiện dưới hình thức hành động hoặc không hành động.
Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục là loại hành vi
xâm hại hoặc có nguy cơ xâm hại đến các quan hệ xã hội hình thành trong
lĩnh vực quản lý nhà nước về giáo dục. Các quan hệ này được nhà nước tác
động, điều chỉnh bằng pháp luật. Mặc dù có nội dung đa dạng nhưng các
quan hệ xã hội trong quản lý nhà nước được sắp xếp, phân loại thành những
nhóm nhất định do các quy phạm pháp luật hành chính điều chỉnh, tạo nên
trật tự quản lý nhà nước. Tĩnh xâm hại đến các quy tắc quản lý nhà nước
trong hoạt động giáo dục của hành vi vi phạm hành chính là việc làm tổn hại
đến các trật tự quản lý nhà nước trong hoạt động giáo dục được pháp luật
quy định và bảo vệ.
Thứ hai, tính trái pháp luật của hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giáo dục thể hiện ở chỗ, những hành vi do chủ thể vi phạm hành chính
thực hiện trái với quy định của pháp luật hành chính điểu chỉnh các quan hệ
trong lĩnh vực quản lý nhà nước về giáo dục. Cụ thể hơn, đó là hành động bị
pháp luật hành chính cấm, hoặc không thực hiện, hay thực hiện không đúng,
hành động mà pháp luật hành chính buộc phải thực hiện. Ví dụ: Pháp luật
quy định không được cấp văn bằng, chứng chỉ có nội dung sai gây trở ngại
cho người sử dụng mà vẫn cấp văn bằng chứng chỉ có nội dung sai gây trở
ngại cho người sử dụng, hoặc phải dạy đủ số tiết, nội dung kiến thức môn
học nhưng không dạy đủ theo quy định…thì đều là hành vi (hành động và
không hành động) trái pháp luật.

12

Tuy nhiên, một cá nhân, tổ chức khi thực hiện hành vi chưa được
ngành luật hành chính và các văn bản pháp luật quy định về quản lý nhà
nước ở lĩnh vực giáo dục quy định và bảo vệ (thể hiện trong các văn bản
pháp luật quy định về hành vi vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành
chính) thì không bị coi là trái pháp luật hành chính trong lĩnh vực giáo dục.
Trên cơ sở thừa nhận tính trái pháp luật hành chính là một dấu hiệu của vi
phạm hành chính, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 quy định:
“ Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt hành chính khi có vi phạm hành chính do
pháp luật quy định”.
Không phải mọi hành vi có tính chất trái pháp luật hành chính đểu là
vi phạm hành chính, nói cách khác, không phải mọi hành vi có tính trái các
quy định quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục đều là vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giáo dục. Một số tội phạm cũng là hành vi trái pháp
luật hành chính về giáo dục (tội chống người thi hành công vụ, tội kinh
doanh trái phép…) nhưng phải xử lý hình sự. Để phân biệt tội phạm với vi
phạm hành chính trong trường hợp hai loại vi phạm này cùng có chung
khách thể, người ta lấy tiêu chí là mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
để phân biệt.
Phạm vi của đề tài này không cho phép đi sâu vào phân tích, so sánh
để phân biệt giữa tội phạm và vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục,
tuy nhiên có thể thấy các tiêu chí để phân biệt giữa tội phạm và vi phạm
hành chính là:
- Loại khách thể bị xâm hại, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là
tiêu chí đầu tiên.
- Hành vi đó đã bị xử lý hành chính hay chưa? Theo quy định của Bộ
Luật Hình sự Việt Nam có rất nhiều tội danh có cấu thành “ đã bị xử phạt vi
phạm hành chính mà còn vi phạm”.
- Phần lớn các cấu thành vi phạm hành chính không bắt buộc phải có
dấu hiệu hậu quả thiệt hại của hành vi và quan hệ nhân quả giữa hành vi và


13
hậu quả của nó (chỉ cần hành động hay không hành động trái pháp luật là đủ
căn cứ áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính).
- Hành vi trái pháp luật và có lỗi phải được văn bản pháp luật quy
định là vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục và phải chịu trách nhiệm
hành chính (dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của vi phạm hành
chính).
Có thể dễ dàng nhận thấy, tính nguy hiểm cho xã hội của các hành vi
là tiêu chí cở bản để nhà làm luật tiến hành phân chia chúng thành các loại
khác nhau: tội phạm, vi phạm pháp luật hành chính, vi phạm pháp luật dân
sự…
Thứ ba, tính có lỗi của vi phạm hành chính. Mặt chủ quan của vi
phạm hành chính nói chung và vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục
nói riêng thể hiện ở tính chất có lỗi của nó. Lỗi là dấu hiệu cơ bản, bắt buộc
của vi phạm pháp luật, do các cá nhân thực hiện. Lỗi là trạng thái tâm lý, là
thái độ của người vi phạm đối với hành vi vi phạm và hậu quả của hành vi
đó tại thời điểm thực hiện hành vi của mình.
Hành vi được thực hiện phải là kết quả của sự tự lựa chọn, tự quyết
định của các cá nhân hoặc tổ chức. Nội dung của lỗi thể hiện sự nhận thức
của người vi phạm. Do đó, nếu là người không nhận thức được tính xâm hại
cho xã hội của hành vi thì coi như không có lỗi và không có vi phạm pháp
luật nói chung và vi phạm hành chính nói riêng.
Thứ tư, tính bị xử phạt vi phạm hành chính. Trong vi phạm hành
chính nói chung và vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục nói riêng,
tính bị xử phạt vi phạm hành chính được biểu hiện ở chỗ vi phạm hành
chính là cơ sở để áp dụng hình thức xử phạt vi phạm hành chính tương ứng
đối với chủ thể vi phạm.
Vì vậy có thể coi tính bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giáo dục là một dấu hiệu của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục.
Đây là dấu hiệu bắt nguồn từ tính xâm hại và tính trái pháp luật hành chính,


14
có vi phạm hành chính thì phải có xử phạt hành chính theo quy định của
pháp luật. Tuy nhiên, không loại trừ khả năng áp dụng chế tài khác đối với
chủ thể vi phạm hành chính, chẳng hạn như khi có vi phạm xảy ra mà không
thể áp dụng biện pháp xử phạt nếu nó đã hết thời hiệu xử phạt. Do đó, tính
bị xử phạt vi phạm hành chính của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo
dục có ý nghĩa chủ yếu chỉ ở chỗ nó là tiêu chí để phân biệt với các vi phạm
pháp luật khác như: tội phạm, vi phạm kỷ luật…, khi chúng có chung khách
thể với vi phạm hành chính.
1.3. CÊu thµnh vi ph¹m hµnh chÝnh trong lÜnh vùc gi¸o dôc
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục là một dạng của vi phạm
pháp luật, do đó, những vi phạm này cũng có các yếu tố cấu thành pháp lý
gồm: Mặt khách quan; Mặt chủ quan; Chủ thể và Khách thể. Các yếu tố cấu
thành vi phạm hành chính nói chung và vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giáo dục nói riêng nằm trong một thể thống nhất và được coi là điều kiện
“cần và đủ” của một vi phạm hành chính, giữa các yếu tố này có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau.
Thứ nhất, mặt khách quan của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo
dục
Mặt khách quan của vi phạm hành chính nói chung là tổng hợp các
dấu hiệu bên ngoài của vi phạm hành chính, bao gồm: hành vi trái pháp luật,
tính nguy hiểm cho xã hội; hậu quả và mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả;
các dấu hiệu khác như công cụ, phương tiện, thời gian, địa điểm vi phạm.
Vi phạm hành chính trước hết là hành vi trái pháp luật do cá nhân và
tổ chức thực hiện. Hành vi đó chỉ được coi là trái pháp luật khi hành vi thực
hiện những việc mà pháp luật ngăn cấm hay không thực hiện những việc mà
pháp luật bắt buộc chủ thể phải làm.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục là hành vi trái pháp luật,
đã xâm hại đến các quy định quản lý nhà nước về giáo dục, xâm hại đến các

quan hệ xã hội và trật tự quản lý nhà nước được pháp luật bảo vệ. Vi phạm

15
hành chính trong lĩnh vực giáo dục thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi do tính trái pháp luật của nó. Các hành vi vi phạm hành chính này có
thể gây hậu quả không nghiêm trọng nhưng lại có thể xảy ra phổ biến, và
như vậy nhiều hành vi cùng thực hiện sẽ gây hậu quả nghiêm trọng cho xã
hội. Mặc dù vậy, tính nguy hiểm của hành vi vi phạm hành chính thấp hơn
so với tội phạm hình sự.
Như phần trên đã trình bày, phần lớn cấu thành vi phạm hành chính
nói chung và vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục nói riêng không
bắt buộc phải có dấu hiệu hậu qủa thiệt hại của hành vi. Tuy nhiên, đối với
cấu thành pháp lý của một số hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giáo dục thì hậu quả thiệt hại cho xã hội là bắt buộc.
Giữa hành vi vi phạm và hậu quả của vi phạm có mối quan hệ nhân
quả, trong đó hậu quả của vi phạm hành chính có tiền đề xuất hiện từ hành
vi khách quan của vi phạm hành chính. Quan hệ giữa hành vi vi phạm hành
chính và thiệt hại mà nó gây ra nhất thiết phải được xác định khi hậu quả
của hành vi được tính là cơ sở, là căn cứ để lựa chọn áp dụng các biện pháp
xử lý hành chính khác nhằm khắc phục hậu quả gây ra của hành vi.
Tuy nhiên để áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giáo dục một cách có hiệu quả, đúng người, đúng vi phạm trong
nhiều trường hợp rất cần đến việc xác định các dấu hiệu về thời gian, địa
điểm thực hiện hành vi. Nghiên cứu điều này tức là có thể xác định được
điều kiện thực hiện hành vi vi phạm của cá nhân, tổ chức vi phạm.
Thứ hai, mặt chủ quan của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo
dục:
Mặt chủ quan của vi phạm là dấu hiệu bên trong của vi phạm hành
chính. Một hành vi trái pháp luật không đồng nghĩa với vi phạm pháp luật,
nếu chưa xác định yếu tố chủ quan là lỗi, thái độ và đông cơ, mục đích của

người vi phạm đối với hành vi của mình. Lỗi là dấu hiệu cơ bản trong cấu
thành của mọi vi phạm hành chính. Lỗi là quan hệ tâm lý bên trong của cá

16
nhân đối với vi phạm, hay nói cách khác, lỗi là thái độ tâm lý của người vi
phạm, biểu hiện thái độ động cơ và mục đích của người đó đối với hành vi
vi phạm của mình.
Lỗi được quy định rõ Khoản 2, Điều 1 Nghị định của Chính Phủ quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục gồm 02 hình
thức: lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý, thể hiện ở chỗ người có hành vi vi phạm
nhận thức được tính chất hành vi của mình nhưng vẫn thực hiện hoặc nhân
thức được nghĩa vụ pháp lý bắt buộc và hoàn toàn có khả năng xử sự theo
đúng nghĩa vụ đó nhưng lại có ý thức xem thường.
Lỗi vô ý có hai hình thức thể hiện: Vô ý do cẩu thả là việc ngưòi có
hành vi vi phạm không biết và không nhận thức được rằng hành vi của mình
là trái pháp luật, mặc dù cần phải biết và nhận thức được điều đó. Vô ý do
quá tự tin là việc ngưòi có hành vi vi phạm nhận thức được nhưng do khinh
suất hoặc tự tin cho rằng có thể ngăn ngừa dễ dàng hậu quả của hành vi trái
pháp luật đó của mình.
Thứ ba, khách thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục
Khách thể của vi phạm hành chính là cái mà hành vi vi phạm xâm hại
đến. Tại Khoản 2, Điều 1 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002
quy định khách thể của vi phạm hành chính nói chung là “ quy định của
pháp luật về quản lý nhà nước”.
Khách thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục cũng là
“các quy định quản lý nhà nước” nhưng thuộc “lĩnh vực giáo dục”. Khách
thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục thực chất là các quan hệ
xã hội được các quy định quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục bảo vệ.
Nghiên cứu sâu hơn, cần khẳng rằng, không phải toàn bộ các quan hệ
xã hội được các quy định quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục bảo vệ là

khách thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục, mà chỉ những
quan hệ được bảo vệ bằng các biện pháp trách nhiệm hành chính trong số đó
mà thôi. Nếu các quan hệ đó không được các quy phạm về trách nhiệm hành

17
chính bảo vệ thì đó không phải là khách thể của vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giáo dục, mà có thể là khách thể của tội phạm, vi phạm kỷ luật, vi
phạm dân sự, lao động, hành chính, kinh tế…
Thứ tư, chủ thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục
Theo quy định của pháp luật về vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giáo dục, chủ thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục là cá nhân,
tổ chức có năng lực chịu trách nhiệm hành chính. Cá nhân có thể chịu trách
nhiệm hành chính khi có đủ năng lực pháp lý trách nhiệm hành chính và
năng lực hành vi trách nhiệm hành chính, trừ những người mất khả năng
điều khiển hành vi như không bị bệnh tâm thần và các bệnh khác làm mất
khả năng nhận thức hoặc khả năng tự điều khiển hành vi của mình; những
người hành động trong các trường hợp thuộc tình thế cấp thiết, phòng vệ
chính đáng, sự kiện bất ngờ. (Khoản 5, Điều 3, Nghị định Xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giáo dục).
Điều 7 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và Điều 2 Nghị định Xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục quy định rõ: Người từ đủ
14 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hành chính về mọi vi phạm hành chính
do mình gây ra; Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính
thì bị phạt cảnh cáo; Người đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị áp dụng hình thức
xử phạt vi phạm hành chính trong giáo dục như người đã thành niên nhưng
mức phạt tiển không được quá một phần hai mức phạt đối với người thành
niên; trong trường hợp họ không có tiền nộp phạt thi cha mẹ hoặc người
giám hộ phải nộp thay; Người chưa thành niên vi phạm hành chính gây thiệt
hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Ngoài các cá nhân thông thường, quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị

trong thời gian tập trung huấn luyện và những người thuộc lực lượng Công
an nhân dân vi phạm hành chính thì bị xử lý như đối với các công dân khác.
Với quy định của pháp luật hiện hành, cán bộ, công chức có hành vi vi phạm
hành chính khi thi hành công vụ sẽ bị xác định trách nhiệm pháp lý sau khi

18
cơ quan, tổ chức nơi người đó công tác bị xử phạt hành chính về chính hành
vi của cá nhân đó.
Cá nhân, tổ chức nước ngoài vi phạm trong phạm vi lãnh thổ, vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thi bị xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ
trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định
khác.
Khi tổ chức của Việt Nam là chủ thể của vi phạm hành chính sẽ bị xử
phạt hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra. Việc xác định
trách nhiệm pháp lý đối với tổ chức là vấn đề hết sức phức tạp và sẽ tiếp tục
nghiên cứu ở phần sau.
2. Khái niệm xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục;
Nguyên tắc, đặc điểm của xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo
dục:
2.1. Khái niệm xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục:
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục cũng giống như vi phạm
hành chính nói chung và mọi vi phạm pháp luật khác đều là những hành vi
trái pháp luật, gây nguy hiểm cho xã hội ở mức độ thấp hơn tội phạm. Vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục xâm hại trực tiếp đến những quy
định quản lý nhà nước ở riêng lĩnh vực giáo dục, làm ảnh hưởng đến những
quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân khác.
Chúng ta có thể đưa ra khái niệm về xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giáo dục như sau: “ Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo
dục là một biện pháp cưỡng chế của Nhà nước áp dụng đối với cá nhân, tổ

chức có hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước
trong lĩnh vực giáo dục”
2.2. Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục:
Theo quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và
Nghị định của Chính phủ về Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực

19
giáo dục có thể thấy xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục cần
đảm bảo các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Khoản 2, Điều 3
Nghị định 49 quy định “Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giáo dục khi có hành vi vi phạm quy định tại Nghị định này
và các Nghị định khác của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành
chính có liên quan. Ngoài ra, theo Pháp lệnh về Xử lý vi phạm hành chính
năm 2002, việc xử lý vi phạm hành chính phải do người có thẩm quyền tiến
hành theo đúng quy định của pháp luật. Và nhiều quy định khác thể hiện
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trọng hoạt động xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giáo dục. Chủ thể có hành vi vi phạm chỉ bị xử phạt
hành chính khi pháp luật quy định hành vi đó phải bị xử lý và người xử lý
hành chính cũng phải tiến hành các trình tự theo đúng quy định về thẩm
quyền và thủ tục luật định.
Thứ hai, nguyên tắc kịp thời, nhanh chóng, triệt để. Mọi hành vi vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục phải được phát hiện kịp thời và
phải bị đình chỉ ngay. Việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo
dục phải được tiến hành nhanh chóng, triệt để, mọi hậu quả do hành vi vi
phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp
luật
Thứ ba, nguyên tắc xử lý công minh. Pháp luật quy định mọi hoạt
động xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giáo dục nói riêng phải đảm bảo công minh. Xử lý phải đúng

người, đúng với tính chất của hành vi, tính đến một cách toàn diện đầy đủ
mọi tình tiết có liên quan đến hành vi (tình tiết tăng nặng giảm nhẹ), mức độ
và hình thức lỗi, hậu quả của hành vi, các yếu tố nhân thân, nói chung tính
công minh thể hiện sự thỏa đáng, công bằng và đúng pháp luật.
Thứ tư, nguyên tắc bình đẳng, công khai, nhân đạo, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp, danh dự và nhân phẩm của công dân…Nguyên tắc này

20
được thể hiện ở hầu hết các văn bản pháp lý của Nhà nước ta. Trong quá
trình xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục cần căn cứ vào tính
chất, mức độ vi phạm, nhân thân người vi phạm và những tình tiết giảm nhẹ,
tình tiết tặng nặng để quyết định hình thức, biện pháp xử lý thích hợp;
Không xử lý vi phạm hành chính trong các trường hợp thuộc tình thế cấp
thiết, phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ hoặc vi phạm hành chính của cá
nhân mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác đã làm mất khả năng nhận thức
hoặc khả năng tự điều khiển hành vi của mình.
Thứ năm, các nguyên tắc kỹ thuật khác trong quá trình xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giáo dục, cụ thể:
- Một hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục chỉ bị xử
phạt vi phạm hành chính một lần…
- Áp dụng biện pháp xử phạt đối với một hoặc nhiều chủ thể khi thực
hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục…
- Cá thể hoá trách nhiệm tập thể, cá nhân…
Xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giáo dục nói riêng là một trong những hoạt động quản lý nhà
nước rất quan trọng. Theo quan điểm của Các- Mác thì: “ Hình phạt chằng
qua là sự tự vệ của xã hội đối với những hành vi xâm phạm đến điều kiện
tồn tại của nó”.
Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục bao gồm nhiều hoạt
động cụ thể khác nhau. Trong các hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong

lĩnh vực giáo dục thì hoạt động xử phạt vi phạm hành chính là một trong
những hoạt động quan trọng nhất, có ý nghĩa to lớn trong đấu tranh phòng
chống vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục, có tác dụng trực tiếp
củng cố, tăng cường trật tự quản lý nhà nước. Thực chất của việc xử phạt vi
phạm hành chính nói chung và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giáo dục nói riêng là việc áp dụng các chế tài hành chính có tính chất răn đe
do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành đối với cá nhân, tổ chức vi phạm

21
hành chính theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, việc áp dụng chế tài
hành chính không phải tập trung vào mục đích răn đe mà chủ yếu hướng tới
giáo dục người vi phạm và công dân nói chung.
Chúng ta có thể đưa ra khái niệm về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giáo dục như sau: “ Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giáo dục là hoạt động áp dụng các chế tài hành chính do các cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành theo thủ tục do pháp luật quy định nhằm
mục đích giáo dục và răn đe các chủ thể vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giáo dục cũng như các công dân nói chung để bảo vệ trật tự quản lý nhà
nước trong lĩnh vực giáo dục.”.
2.3. Đặc điểm của xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo
dục:
Hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục có những
đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, cơ sở để xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục
trước hết là hành vi vi phạm hành chính mà theo quy định của pháp luật
hành vi này vi phạm quy định quản lý nhà nước về giáo dục nhưng chưa
phải là tội phạm. Điều này có nghĩa là xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giáo dục chỉ được tiến hành khi có hành vi vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giáo dục.
Khoản 2, điều 3 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 quy

định: “Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt hành chính khi có vi phạm hành
chính do pháp luật quy định.”
Như vậy, để thực hiện xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục nói riêng, trước hết đòi hỏi các chủ
thể có thẩm quyền xử lý phải xem xét đã có hành vi vi phạm hành chính xảy
ra hay chưa? Hành vi vi phạm đó đã được quy định trong các văn bản pháp
luật về xử phạt hành chính hay không?

22
Thứ hai, xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục là hoạt
động mang tính quyền lực nhà nước. Điều này thể hiện qua các khía cạnh
sau:
- Việc xử lý vi phạm hành chính chỉ do các cơ quan, người có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật tiến hành (Nghị định 49 dành 01 Chương
gồm 04 Điều quy định về thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giáo dục).
- Tính quyền lực nhà nước của xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giáo dục thể hiện ở tính bắt buộc thi hành quyết định xử lý đối với
người vi phạm. Cụ thể, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày được giao quyết
định xử lý, trừ trường hợp hoãn chấp hành quyết định phạt tiền, người vi
phạm phải chấp hành quyết định. Nếu cá nhân, tổ chức vi phạm không tự
nguyện chấp hành thì bị cưỡng chế thi hành và chịu mọi chi phí cho việc tổ
chức thực hiện các biện pháp cưỡng chế (Điều 27 Nghị định 49)
- Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục được tiến hành
theo thủ tục nhất định – đó là thủ tục hành chính do pháp luật quy định. Thủ
tục này đảm bảo cho việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục
được khách quan, chính xác, góp phần bảo vệ pháp chế, quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, tổ chức. (Điều 26 Nghị định 49).
3. Các hình thức xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo
dục: Xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả trong xử lý vi phạm

hành chính trong lĩnh vực giáo dục
Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục bao gồm các hình
thức xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả. Các hình
thức xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả là một
trong những nội dung quan trọng của xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giáo dục.
Hình thức xử phạt trong xử lý vi hành chính trong giáo dục thể hiện
sự răn đe, trừng phạt của pháp luật đối với những cá nhân, tổ chức có hành

23
vi vi phạm các quy tắc quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục thông qua
việc buộc người vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về vật chất
hoặc tinh thần.
Ngoài mục đích ngăn chặn hành vi vi phạm và răn đe, trừng phạt, các
quy định này còn mang tính giáo dục đối với cá nhân, tổ chức bị xử phạt,
góp phần nâng cao ý thức của công dân trong việc chấp hành pháp luật và
các quy tắc quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục, qua đó bảo vệ và duy
trì trật tự quản lý nhà nước.
Các biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giáo dục mang tính cưỡng chế nhà nước, được áp dụng nhằm
khắc phục triệt để hậu quả do vi phạm hành chính gây ra, bảo đảm lợi ích
chung của cộng đồng và hoạt động bình thường của xã hội. Các hình thức
xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh
vực giáo dục được quy định chi tiết tại Điều 7, Nghị định 49.
3.1. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo
dục
Theo Nghị định 49, hình thức xử phạt vi phạm hành chính trong giáo
dục gồm hai loại: hình thức xử phạt chính và hình thức xử phạt bổ sung.
3.1.1.Về hình thức xử phạt chính:
Đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục, cá

nhân, tổ chức vi phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính là
Cảnh cáo hoặc Phạt tiền.
Khi có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục do pháp
luật quy định, cá nhân, tổ chức vi phạm bắt buộc phải chịu một trong hai
hình thức xử phạt chính là Cảnh cáo hoặc Phạt tiền. Về nguyên tắc, mỗi cá
nhân, tổ chức vi phạm chỉ bị xử phạt bằng một hình thức xử phạt chính duy
nhất. Pháp luật quy định và áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo hay phạt
tiền đối với hành vi vi phạm hành chính trong giáo dục dựa trên sự đánh giá
của Nhà nước về tính chất và mức độ xâm hại của hành vi đó đối với các

24
quy tắc quản lý nhà nước về giáo dục, tuỳ theo nhân thân và tình tiết giảm
nhẹ, tăng nặng của người vi phạm.
Hình thức phạt tiền là một trong hai hình thức xử phạt chính được
coi là hình thức xử phạt chủ yếu trong xử phạt vi phạm hành chính nói
chung và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục nói riêng. Đây
là hình thức phổ biến với đa số hành vi vi phạm hành chính trong giáo dục.
Phạt tiền là việc tước bỏ của cá nhân, tổ chức vi phạm một khoản tiền nhất
định để sung quỹ nhà nước. Phạt tiền tác động trực tiếp đến vật chất, lợi ích
kinh tế của cá nhân, tổ chức vi phạm, gây cho họ hậu quả bất lợi về tài sản.
Vì lý do đó, hình thức xử phạt này có hiệu quả rất lớn trong việc đấu tranh
phòng chống vi phạm hành chính trong giáo dục. Mức phạt tiền trong xử
phạt vi phạm hành chính trong giáo dục tại Nghị định 49 được quy định ở
mức tối thiểu là 200.000 đồng và tối đa là 60.000.000 đồng (Phù hợp với
Điều 14, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002).
Mức phạt này được nghiên cứu dựa trên tính chất, mức độ xâm hại
của vi phạm đối với trật tự quản lý nhà nước trong giáo dục, đồng thời dựa
trên cơ sở tổng kết thực tiễn áp dụng hình thức phạt tiền, tính hiệu quả của
nó trong đấu tranh phòng chống vi phạm nhằm bảo đảm tính hợp lý, phù
hợp với điều kiện kinh tế, xã hội.

Hình thức phạt cảnh cáo là một trong hai hình thức xử phạt chính
trong xử phạt vi phạm hành chính trong giáo dục. So với hình thức phạt tiền,
cảnh cáo là hình thức xử phạt nhẹ hơn, mang ý nghĩa giáo dục nhiều hơn
trừng phạt. Tuy nhiên, cảnh cáo là hình phạt thể hiện thái độ răn đe nghiêm
khắc của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính, do đó, vẫn
mang tính cưỡng chế nhà nước, gây cho người bị xử phạt những tổn hại nhất
định về mặt tinh thần.
Cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính
nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành
chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện.

25
3.1.2.Về hình thức xử phạt bổ sung:
Ngoài 2 hình thức phạt chính nói trên, pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giáo dục tại Nghị định 49 quy định các hình thức
xử phạt bổ sung. Tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm, các nhân, tổ chức vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục có thể bị áp dụng một hoặc các
hình thức xử phạt bổ sung sau đây:
- Tước quyền sử dụng các quyết định thành lập, giấy phép, chứng chỉ
hành nghề có thời hạn hoặc không thời hạn đối với cá nhân, tổ chức vi phạm
nghiêm trọng quy định sử dụng quyết định, giấy phép, chứng chỉ hành nghề.
- Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng đề vi phạm.
- Trục xuất nếu người vi phạm là người nước ngoài.
Tước quyền sử dụng các quyết định thành lập, giấy phép, chứng chỉ
hành nghề là hình phạt bổ sung được áp dụng trong trường hợp cần tước
đoạt một điều kiện hành chính trong hoạt động giáo dục đã cho phép có thời
hạn hoặc không thời hạn nhằm hạn chế khả năng tiếp tục vi phạm và trừng
phạt do đã có hành vi vi phạm gây ra.
Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm là hình
phạt bổ sung được áp dụng trong trường hợp cần tước bỏ quyền sở hữu về

tang vật, phương tiên được sử dụng để vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giáo dục của người vi phạm chuyển sang quyền sở hữu của nhà nước (sung
vào công quỹ nhà nước). Tuy nhiên, đối với vật, tiền, phương tiện thuộc sở
hữu nhà nước hoặc thuộc sở hữu hợp pháp khác bị người vi phạm chiếm
đoạt, sử dụng trái phép thì không tịch thu mà chuyển về cho chủ sở hữu
hoặc người quản lý hợp pháp của chúng.
Trục xuất nếu người vi phạm là người nước ngoài là hình thức xử
phạt bổ sung được áp dụng trong trường hợp cần trục xuất người vi phạm là
người nước ngoài nhằm ngăn chặn và loại bỏ hoàn toàn khả năng tiếp tục vi
phạm và trừng phạt do đã có hành vi vi phạm gây ra.
3.2. Các biện pháp khắc phục hậu quả

26
Một trong những nguyên tắc quan trọng trong xử lý vi phạm hành
chính trong giáo dục được quy định tại Điều 3 Nghị định 49 là : “ mọi hậu
quả do hành vi vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng
quy định của pháp luật ”.
Nếu việc áp dụng các hình thức xử phạt nhằm mục đích trừng phạt đối
với người vi phạm, giáo dục họ và những người khác trong xã hội, khôi
phục lại trật tự quản lý nhà nước đã bị xâm hại, ngăn ngừa khả năng tái
phạm vi phạm thì việc áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả nhằm khắc
phục triệt để những hậu quả do vi phạm gây ra và lợi ích của cộng đồng bảo
đảm hoạt động bình thường của xã hội, đồng thời thể hiện tính kiên quyết và
triệt để trong xử lý vi phạm hành chính
Pháp luật quy định áp dụng biện pháp đối với cá nhân, tổ chức vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục để khắc phục hậu quả căn cứ vào
khả năng gây hậu quả của vi phạm, tính chất, đặc điểm và khả năng có thể
khắc phục của hậu quả đó.
Các biện pháp khắc phục hậu quả mà các nhân, tổ chức vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giáo dục bị áp dụng gồm:

- Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm
hành chính gây ra theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.
- Buộc đình chỉ hoặc chấm dứt hoạt động giảng dạy, giáo dục.
- Buộc huỷ bỏ kết quả các môn thi hoặc chấm lại bài thi.
- Buộc thực hiện giảng dạy, hướng dẫn thực hành, thực tập bổ sung đủ
số tiết, nội dung, chương trình theo đúng quy định; cung ứng tài liệu, thiết bị
theo đúng kế hoạch đã được phê duyệt.
- Buộc huỷ bỏ quyết định sai trái, trái với quy định của cơ quan có
thẩm quyền.
- Buộc khôi phục quyền học tập, lợi ích hợp pháp, kết quả đánh giá
đúng của người học, bảo đảm quyền của người được sử dụng văn bằng,
chứng chỉ.

×