Tải bản đầy đủ (.pdf) (876 trang)

Pháp luật việt nam trong tiến trình hội nhập quốc tế và phát triển bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.71 MB, 876 trang )

(SÁCH CHUYÊN KHẢO)


963-2009/CXB/28-275/CAND

2


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
(SÁCH CHUYÊN KHẢO)

NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN
HÀ NỘI - 2009
3


Chủ biên
GS.TS. LÊ MINH TÂM
Tập thể tác giả
TS. VŨ THỊ LAN ANH
TS. NGUYỄN HỒNG BẮC
TS. NGUYỄN CƠNG BÌNH
TS. BÙI NGỌC CƯỜNG
TS. LÊ ĐĂNG DOANH
TS. NGUYỄN THỊ DUNG
TS. TRẦN THÁI DƯƠNG
TS. BÙI THỊ ĐÀO


TS. NGUYỄN MINH ĐOAN
TS. ĐỖ ĐỨC HỒNG HÀ
GS.TS. NGUYỄN NGỌC HOÀ
TS. NGUYỄN QUỐC HOÀN
TS. TRẦN QUANG HUY
TS. BÙI THỊ HUYỀN
TS. NGƠ THỊ HƯỜNG
ThS. ĐỒN TRUNG KIÊN
TS. TRẦN TH LÂM
TS. DƯƠNG TUYẾT MIÊN
TS. NGUYỄN THỊ NGA
TS. LÊ ĐÌNH NGHỊ
TS. NGUYỄN THỊ KIM PHỤNG
TS. NGUYỄN HIỀN PHƯƠNG
TS. NGUYỄN VĂN PHƯƠNG
TS. ĐỖ THỊ PHƯỢNG
TS. NGUYỄN VĂN QUANG
TS. PHẠM HỒNG QUANG
GS.TS. LÊ MINH TÂM
TS. NGUYỄN THANH TÂM
PGS.TS. THÁI VĨNH THẮNG
ThS. BÙI THỊ THU
TS. NGUYỄN THỊ THUẬN
TS. TRẦN HỮU TRÁNG
TS. TRẦN ANH TUẤN
TS. NGUYỄN QUANG TUYẾN
ThS. NGUYỄN THỊ TUYẾT
TS. VŨ THỊ HẢI YẾN

4



LỜI GIỚI THIỆU
Thực hiện đường lối đổi mới đất nước, Việt Nam chủ trương phát huy nội lực,
đẩy mạnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân, vì dân; chủ động hội nhập quốc tế
và phát triển bền vững. Để đáp ứng yêu cầu đó, những nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu được đặt ra là phải xây dựng, hoàn thiện pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật
có hiệu quả, đào tạo nguồn nhân lực pháp luật có trình độ cao... Góp phần vào sự
nghiệp chung đó, Trường Đại học Luật Hà Nội - cơ sở đào tạo và nghiên cứu luật
học lớn của cả nước đã tiến hành nhiều hoạt động nghiên cứu khoa học nhằm trực
tiếp phục vụ nhu cầu nâng cao chất lượng giảng dạy, đào tạo đội ngũ cán bộ pháp
luật cũng như tham gia các hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Nhân dịp kỉ niệm 30 năm ngày thành lập (10/11/1979 – 10/11/2009), Trường
Đại học Luật Hà Nội chọn một số chuyên đề xuất bản thành tập sách chuyên khảo
có tên “Pháp luật Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế và phát triển bền
vững”. Tập sách bước đầu công bố kết quả nghiên cứu hơn 30 chuyên đề do các cán
bộ, giảng viên thực hiện theo các chuyên ngành luật học đang được giảng dạy,
nghiên cứu tại Trường.
Ngoài các chuyên đề chung về pháp luật Việt Nam ở phần đầu, các tác giả còn đi
sâu nghiên cứu nhiều vấn đề cụ thể thuộc các chuyên ngành luật học; phân tích, đánh
giá q trình phát triển, những tồn tại, bất cập của pháp luật hiện hành; đề xuất hướng
hoàn thiện theo yêu cầu hội nhập quốc tế và phát triển bền vững. Tuy các tác giả đã
dành khá nhiều tâm huyết và sự nỗ lực để nghiên cứu, viết các chuyên đề nhưng tập
sách cũng khó tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Trường Đại học Luật Hà
Nội xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc và hi vọng rằng tập sách sẽ chuyển đến
bạn đọc những quan điểm, ý tưởng khoa học nghiêm túc, lí thú về xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay cũng như các thông tin tham khảo bổ
ích khác. Tập thế tác giả rất mong nhận được các ý kiến trao đổi của bạn đọc.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI


5


BẢNG TỪ VIẾT TẮT

6

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHYT

Bảo hiểm y tế

BLDS

Bộ luật dân sự

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

BLTTHS


Bộ luật tố tụng hình sự

CNTB

Chủ nghĩa tư bản

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

PLHĐKT

Pháp lệnh hợp đồng kinh tế

TANDTC

Toà án nhân dân tối cao

TBCN

Tư bản chủ nghĩa

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


ĐỔI MỚI TƯ DUY PHÁP LÍ VÀ NHỮNG HIỆU ỨNG CƠ BẢN
CỦA ĐỔI MỚI TƯ DUY PHÁP LÍ TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG,
HỒN THIỆN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM

GS.TS. Lê Minh Tâm
Giảng viên cao cấp, Tổng biên tập Tạp chí Luật học
Trường Đại học Luật Hà Nội
Sau 23 năm đổi mới, đất nước Việt Nam đã có sự thay đổi cơ bản, toàn
diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội, an ninh quốc
phòng và đối ngoại; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế khơng ngừng
được nâng cao. Điều đó chứng tỏ đường lối đổi mới là đúng đắn, sáng tạo,
phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Từ thực tiễn sinh động đó, cơng cuộc đổi
mới của Việt Nam đã trở thành giá trị sáng tạo văn hoá mang đậm chất Việt
Nam. Hai chữ “đổi mới” đã trở thành thuật ngữ được quốc tế hố, hàm chứa
trong nó những nội dung hết sức phong phú: Đổi mới là đường lối chiến
lược, là chính sách phát triển, là sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt
Nam trong giai đoạn mới, là phong trào mạnh mẽ và rộng rãi có sức mạnh
lơi cuốn, động viên và tập hợp các tầng lớp nhân dân tham gia vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh…
Có nhiều yếu tố góp phần tạo ra tầm vóc và giá trị của cơng cuộc đổi
mới, trong đó đổi mới tư duy và đổi mới tư duy pháp lí có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng. Bởi vì, muốn đổi mới thắng lợi thì phải có hệ thống lí luận đúng
đắn, đầy đủ và sắc bén. Tư duy là sản phẩm cao nhất của bộ óc con người, là
q trình phản ánh tích cực hiện thực khách quan dưới dạng các khái niệm,
phán đoán, lí luận. Dựa trên sự so sánh các tài liệu thu được từ nhận thức
cảm tính hoặc các ý nghĩ với nhau, trải qua q trình khái qt hố, trừu
tượng hố, phân tích, tổng hợp để rút ra các khái niệm, phán đốn, giả
thuyết, lí luận, kết quả của tư duy luôn là sự phản ánh khái quát các thuộc
7


tính, các mối liên hệ cơ bản, phổ biến, các quy luật không chỉ ở một sự vật
riêng lẻ mà cịn ở nhóm sự vật nhất định(1)... Tư duy xuất hiện do kết quả hoạt
động thực tiễn nhưng sau khi xuất hiện, sự phát triển của tư duy còn chịu ảnh

hưởng của tồn bộ tri thức nhân loại đã tích luỹ được trước đó, cũng như các lí
thuyết, quan điểm cùng thời với nó. Vì thế, tư duy có tính độc lập, sáng tạo
trong quá trình tìm kiếm tri thức mới, xây dựng cơ sở lí luận cho việc hoạch
định chính sách, quan điểm và định hướng cho các hoạt động thực tiễn. Chỉ có
dựa trên cơ sở của tư duy tồn diện, đúng đắn, sáng tạo mới có được những
khái niệm, quan điểm, lí luận đầy đủ, đúng đắn và sáng tạo.
Tư duy thể hiện trên ba phương diện cơ bản là nhận thức, tư tưởng và
phương pháp tư duy. Trước thời kì đổi mới, về mặt nhận thức, đã có nhiều
nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ, thậm chí lạc hậu, lỗi thời; về tư tưởng,
đã có những biểu hiện chủ quan, duy ý chí hoặc bảo thủ, trì trệ, vừa tả
khuynh vừa hữu khuynh; về phương pháp tư duy, lối suy nghĩ và hành động
còn giản đơn một chiều, xơ cứng(2)… Trong bối cảnh đó, tư duy pháp lí
cũng có tình trạng tương tự. Về nhận thức, nhiều vấn đề cơ bản về nhà nước
và pháp luật còn được nhận thức phiến diện, một chiều với quan điểm lạc
hậu, thậm chí giáo điều, máy móc. Ví dụ, về bản chất, vai trò, chức năng và
các nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước, đã chú trọng nhiều đến tính
chính trị, tính giai cấp, chức năng trấn áp, vai trị quản lí của nhà nước theo
phương pháp mệnh lệnh hành chính, chưa có sự nhận thức tồn diện, đầy đủ
và đúng đắn về bản chất xã hội và chức năng xã hội, về các phương pháp
dân chủ trong việc thực hiện chức năng quản lí, điều hành của nhà nước,
khơng phân biệt rõ chức năng quản lí nhà nước với quản lí sản xuất kinh
doanh…; về pháp luật, cũng còn nhiều nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về
bản chất, vai trò, chức năng và những giá trị xã hội của pháp luật, chưa có
sự phân tích tồn diện, sâu sắc và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
pháp luật với nhà nước, dân chủ, kinh tế, văn hoá, xã hội; giữa nhà nước với
pháp quyền và xã hội công dân… Về tư tưởng, đã tồn tại trong thời gian dài
những quan điểm lạc hậu, chủ quan, duy ý chí, bảo thủ về pháp luật, coi
pháp luật là do nhà nước sinh ra, áp đặt ý chí nhà nước một cách cứng nhắc,

(1).Xem: Từ điển bách khoa Việt Nam, Tập 3, Nxb. Bách khoa, tr. 701.

(2).Xem: Văn kiện Đại hội Đảng thời kì đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 21 - 27.

8


chưa chú trọng phân tích và thể hiện đầy đủ tính khách quan và những
nguyên tắc dân chủ trong xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật… Về
phương pháp tư duy pháp lí, cách suy nghĩ giản đơn một chiều, xơ cứng về
pháp luật XHCN, đối lập pháp luật XHCN với pháp luật tư sản, xây dựng
mơ hình pháp luật theo hướng lí tưởng hố, hành chính hố làm cho pháp
luật trở nên đơn điệu, xa rời thực tiễn và thiếu tính khả thi. Với cách tư duy
này, việc nghiên cứu để tiếp thu và vận dụng những yếu tố hợp lí trong các
quan điểm, học thuyết pháp lí tư sản cũng như những kinh nghiệm trong xây
dựng và thực thi pháp luật của các nước phát triển rất hạn chế, tình trạng
thiếu thơng tin pháp lí hoặc khơng chấp nhận một số nguyên tắc, giá trị của
pháp quyền đã diễn ra trong thời gian khá dài. Kiểu tư duy như vậy đã có
tác động, ảnh hưởng và mang lại những hiệu ứng tiêu cực đối với quá trình
phát triển của Nhà nước và pháp luật Việt Nam. Thực tế lịch sử xây dựng
Nhà nước và pháp luật Việt Nam trong những năm 70, 80 của thế kỉ trước
đã cho thấy rõ điều này.
Từ cuối năm 1986, công cuộc đổi mới tồn diện đất nước ở Việt Nam
chính thức được khởi động và cũng từ đó, trào lưu đổi mới tư duy pháp lí có
sự phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng mang lại những hiệu ứng tích cực, góp
phần to lớn vào việc thực hiện thắng lợi cơng cuộc đổi mới nói chung và cơng
cuộc xây dựng, hồn thiện Nhà nước và pháp luật Việt Nam nói riêng.
Nhìn một cách tổng quát, đổi mới tư duy pháp lí đã đạt được những
thành tựu cơ bản trên cả ba phương diện. Thứ nhất, đổi mới tư duy pháp lí
đã làm thay đổi căn bản trong nhận thức về nhiều vấn đề của nhà nước và
pháp luật. Trên cơ sở nắm vững và phát triển sáng tạo các tư tưởng, quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm,

đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật; kế thừa,
phát triển những kết quả nghiên cứu lí luận và kinh nghiệm xây dựng, phát
triển Nhà nước và pháp luật của Việt Nam đồng thời nghiên cứu, tham khảo
và tiếp thu có chọn lọc những kiến thức, kinh nghiệm của nước ngoài, nhiều
vấn đề lí luận, thực tiễn về nhà nước và pháp luật đã được nhận thức một
cách toàn diện, đầy đủ và đúng đắn hơn. Thứ hai, đổi mới tư duy pháp lí đã
tác động và làm thay đổi những tư tưởng, quan niệm lạc hậu, lỗi thời, chủ
quan duy ý chí trong tiếp cận và xử lí các vấn đề về nhà nước và pháp luật.
9


Thứ ba, đổi mới tư duy pháp lí đã góp phần hình thành và phát triển những
phương pháp mới, lối suy nghĩ và hành động mới, nhìn nhận các vấn đề về
nhà nước và pháp luật trong sự vận động, phát triển, trong những mối liên
hệ phổ biến và trong những điều kiện lịch sử cụ thể…
Nhìn một cách cụ thể hơn, những kết quả của quá trình đổi mới tư duy
pháp lí và những hiệu ứng(1) mạnh mẽ của nó thể hiện ở nhiều mặt với nhiều
cấp độ và hình thức khác nhau, trong đó có những điểm chủ yếu sau đây:
1. Về bản chất của nhà nước: Trước đổi mới, những phân tích lí luận
đã hướng trọng tâm chủ yếu vào làm rõ và nhấn mạnh bản chất chính trị,
tính giai cấp của nhà nước,(2) chưa phân tích một cách toàn diện, đầy đủ
bản chất xã hội và những yêu cầu khách quan từ phía xã hội đối với nhà
nước với vị trí, vai trị là người đại diện chính thức của tồn xã hội. Đến
nay, bản chất của Nhà nước ta đã được xác định rõ: “Nhà nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông nhân và tầng lớp trí thức”.(3) Nhà nước là
đại diện, là tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị do nhân dân lập ra và
có trách nhiệm phải phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội; “Các cơ quan nhà
nước, cán bộ viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tuỵ phục vụ

nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám
sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu,
hách dịch, cửa quyền tham nhũng”.(4)
2. Về hệ thống chính trị và vai trị của Nhà nước trong hệ thống chính
trị: Khái niệm hệ thống chính trị đã được thay cho khái niệm chun chính
vơ sản. Cương lĩnh chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam năm 1991 đã
khẳng định: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta
trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện dân chủ
XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”. Hệ thống chính trị được
vận hành theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lí, nhân dân làm
(1). Thuật ngữ “hiệu ứng” được sử dụng với nghĩa là khả năng tác động, ảnh hưởng và đưa
lại những kết quả.
(2).Xem: Điều 2 Hiến pháp năm 1980 ghi nhận: “Nhà nước Cộng hồ XHCN Việt Nam là
Nhà nước chun chính vơ sản”.
(3), (4).Xem: Điều 2, Điều 8 Hiến pháp năm 1992.

10


chủ”. Trong hệ thống chính trị, Nhà nước có vị trí, vai trị và tầm quan trọng
đặc biệt, là trụ cột của hệ thống chính trị. Nhà nước bảo đảm quyền công
dân, quyền con người, nâng cao trách nhiệm pháp lí giữa Nhà nước và cơng
dân; thực hành dân chủ đồng thời tăng cường kỉ luật, kỉ cương. Trong tư
duy pháp lí mới, đã có sự nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về dân chủ hoá
đời sống xã hội và về việc giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước pháp
quyền với dân chủ XHCN…
3. Về quyền lực nhà nước và cách thức tổ chức quyền lực nhà nước:
Trên cơ sở nhận thức mới về bản chất, vai trò của nhà nước, kế thừa, phát
huy những kết quả đạt được về phương diện lí luận và thực tiễn tổ chức
quyền lực nhà nước XHCN Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm

nước ngồi, tư duy pháp lí mới đã góp phần hình thành quan điểm lí luận
quan trọng về tính chất, nội dung và cách thức tổ chức quyền lực nhà nước
đó là: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp”.(1)
4. Về chức năng của nhà nước: Trong đổi mới tư duy pháp lí về chức
năng của nhà nước, vấn đề chức năng kinh tế và chức năng xã hội của nhà
nước đã được nhận thức tồn diện và sâu sắc hơn cả về tính chất, nội dung
và hình thức. Mơ hình quản lí kinh tế tập trung, bao cấp đã chuyển sang mơ
hình quản lí kinh tế thị trường, phân định rõ chức năng quản lí nhà nước về
kinh tế với chức năng sản xuất kinh doanh. Nhà nước giữ vai trị quản lí,
điều tiết nền kinh tế thông qua pháp luật, kế hoạch, chính sách, các cơng cụ
kinh tế và năng lực vật chất cần thiết mà nhà nước nắm; có sự phân cấp
ngày càng nhiều hơn để phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương, cơ
sở; xố bỏ mọi hình thức bao cấp; xố bỏ độc quyền kinh doanh, khuyến
khích tự do kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh. Từ nhận thức mới về chức
năng xã hội của nhà nước, tư duy pháp lí mới đã góp phần giải quyết mối
quan hệ chính sách kinh tế với chính sách xã hội và đề cao vai trò của Nhà
nước trong việc bảo đảm sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với bảo đảm
bình đẳng và cơng bằng xã hội, coi phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để
thực hiện chính sách xã hội và thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực
(1).Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.

11


quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế. Theo đó, chức năng xã hội của nhà
nước ngày càng được đề cao, các chính sách về an sinh xã hội ngày càng
được xây dựng đầy đủ và hoàn thiện hơn.
5. Về xây dựng nhà nước pháp quyền và đổi mới tổ chức và hoạt động

của bộ máy nhà nước: Một trong những thành tựu quan trọng của đổi mới tư
duy pháp lí là đã xây dựng được cơ sở lí luận và thực tiễn cho việc hình
thành mơ hình Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Từ chỗ coi nhà
nước pháp quyền chỉ có trong các nhà nước tư sản, tư duy pháp lí mới đã
khẳng định nhà nước pháp quyền là khái niệm có giá trị phổ biến, có nhà
nước pháp quyền tư sản và có nhà nước pháp quyền XHCN; nhà nước pháp
quyền có những đặc điểm chung nhưng đồng thời cũng có những đặc điểm
riêng tuỳ thuộc vào nhận thức và điều kiện cụ thể của mỗi nước. Mơ hình
Nhà nước pháp quyền Việt Nam được hình thành từng bước: Từ những kết
quả nghiên cứu độc lập của các nhà khoa học, quản lí đến việc triển khai
nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện ở cấp độ các chương trình, đề tài
khoa học cấp quốc gia, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
đã được tổng kết và ghi nhận chính thức trong văn kiện của Đảng và Hiến
pháp.(1) Đến nay, mơ hình tổng thể của Nhà nước pháp quyền Việt Nam
XHCN của dân, do dân, vì dân đã được xây dựng trên cơ sở khoa học và
thực tiễn toàn diện, sâu sắc. Mơ hình Nhà nước pháp quyền Việt Nam
XHCN vừa mang những đặc điểm phổ biến của nhà nước pháp quyền nói
chung lại vừa mang những đặc điểm riêng, phù hợp với điều kiện của Việt
Nam, bao gồm: Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước của
dân, do dân, vì dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực
nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất trên cơ sở phân công và
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp; tôn trọng vị trí tối thượng của hiến pháp và luật trong đời
sống xã hội; nhà nước tổ chức và hoạt động trên cơ sở hiến pháp, pháp luật;
trách nhiệm qua lại giữa nhà nước và công dân là quan hệ chủ đạo trong xã
hội: nhà nước phục vụ nhân dân, nhân dân có trách nhiệm đầy đủ với nhà
(1). Thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền Việt Nam” được ghi nhận chính thức lần đầu tiên
trong Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì của Đảng (khố VII). Đến Hội
nghị lần thứ 8 (khoá VII) - Hội nghị chuyên đề bàn về nhà nước, đã đề ra 5 quan điểm cơ
bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.


12


nước; nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nhà
nước pháp quyền gắn với xã hội công dân (xã hội dân sự); nhà nước thực hiện
nghiêm chỉnh và có thiện chí các cam kết quốc tế. Nhà nước do Đảng cộng
sản Việt Nam lãnh đạo.
Thực tiễn những năm đổi mới đã cho thấy hiệu ứng tích cực và mạnh
mẽ của tư duy mới về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam với hàng loạt
các hoạt động cụ thể và những thành tựu to lớn đạt được. Quốc hội đã có
những bước đổi mới quan trọng, từ bầu cử đại biểu Quốc hội đến hoàn thiện
cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động; tăng cường bộ phận làm chuyên
trách; các chức năng lập pháp, giám sát tối cao và quyết định các vấn đề
trọng đại của đất nước đã được tăng cường, nhất là chức năng lập pháp;
trong 23 năm đổi mới, Quốc hội đã ban hành được một số lượng lớn các văn
bản luật, gấp hơn 3 lần toàn bộ số văn bản luật được ban hành trước thời kì
đổi mới.(1) Quốc hội hoạt động thường xuyên hơn, ngày càng dân chủ hơn;
tranh luận, thảo luận một cách thẳng thắn, thiết thực; mở rộng chất vấn; tăng
cường lắng nghe và tiếp xúc cử tri; hiệu quả, hiệu lực hoạt động của Quốc
hội được nâng cao, được nhân dân quan tâm nhiều hơn.(2) Bộ máy hành
pháp đã được kiện toàn nhiều so với trước thời kì đổi mới. Cơ cấu của
Chính phủ đã có những cải cách quan trọng theo hướng hình thành các cơ
quan quản lí đa ngành, đa lĩnh vực, giảm bớt đầu mối các cơ quan hành
pháp; so với thời kì trước đổi mới, số lượng các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ
quan thuộc Chính phủ đã giảm hơn 50%;(3) việc phân định chức năng, thẩm
quyền và phân cấp quản lí đã có những bước tiến quan trọng, đã tách chức
năng quản lí nhà nước với chức năng quản lí sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp; phân biệt cơ quan hành chính cơng quyền với đơn vị sự nghiệp, dịch
vụ cơng cộng. Cơng cuộc cải cách hành chính đã được triển khai toàn diện

trên các lĩnh vực (cải cách thể chế hành chính, trong đó cải cách thủ tục
(1). Trong 23 năm đổi mới, Quốc hội đã ban hành hơn 188 luật, bộ luật và hoàn thiện các
quy chế hoạt động của Quốc hội (tăng gấp hơn 3 lần so với thời kì trước đổi mới); Uỷ ban
thường vụ Quốc hội đã ban hành 170 pháp lệnh.
(2).Xem: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lí luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (19862006), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.87.
(3). Bộ máy Chính phủ đã giảm từ 76 đầu mối xuống cịn 30, trong đó có 18 bộ, 4 cơ quan
ngang bộ và 8 cơ quan thuộc Chính phủ; uỷ ban nhân dân cấp tỉnh từ 40 đầu mối xuống còn
trên dưới 20 đầu mối và uỷ ban nhân dân cấp huyện từ 20 xuống còn trên dưới 10 đầu mối.

13


hành chính được chọn làm khâu đột phá; cải cách tổ chức bộ máy hành chính;
đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính
cơng). Hệ thống cơ quan tư pháp đã có nhiều cải cách, đổi mới. Chức năng,
nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp đã được điều chỉnh và phân định rõ ràng
hơn; hệ thống tồ án đã có bước phát triển mới, các toà án chuyên trách (toà
kinh tế, toà lao động, tồ hành chính) đã được thành lập; hệ thống viện kiểm sát
cũng đã điều chỉnh theo hướng tập trung vào thực hiện chức năng công tố và
giám sát hoạt động tư pháp. Các tổ chức bổ trợ tư pháp (luật sư, công chứng,
giám định tư pháp) đã được hình thành và ngày càng phát triển. Các ngun tắc
cơng khai dân chủ trong hoạt động tư pháp đã được đề cao hơn.
Đặc biệt, ngày 2/6/2005, Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã được đề ra. Đây là lần đầu
tiên ở nước ta, vấn đề cải cách tư pháp được đặt ra ở tầm chiến lược, thể
hiện một cách toàn diện và sâu sắc các vấn đề về cải cách tư pháp. Nghị
quyết xác định rõ mục tiêu của Chiến lược cải cách tư pháp là: “Xây dựng
nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ cơng lí,
từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam
XHCN; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến

hành có hiệu quả và hiệu lực cao”. Nghị quyết đã đề ra 5 quan điểm chỉ
đạo quá trình cải cách tư pháp; xác định rõ 5 phương hướng và 8 nhiệm vụ
cải cách tư pháp, trong đó có nhiều vấn đề lần đầu tiên được đề ra theo
tinh thần và tư duy chính trị-pháp lí mới, thể hiện rõ tính khoa học, tính
hiện đại và tính khả thi.
6. Về bản chất, vai trò và giá trị xã hội của pháp luật: Trước thời kì đổi
mới, những phân tích lí luận về pháp luật đã hướng trọng tâm chủ yếu vào
làm rõ và nhấn mạnh bản chất giai cấp và tính ý chí của pháp luật, chưa
phân tích một cách tồn diện và đầy đủ bản chất xã hội, chức năng xã hội và
những giá trị xã hội của pháp luật. Theo đó, khái niệm pháp luật thường
được hiểu theo nghĩa cụ thể và nhiều khi đồng nhất với khái niệm pháp luật
thực định, gắn với bản chất giai cấp và tính quyền lực thể hiện ý chí của nhà
nước trong hệ thống quy phạm pháp luật thực định. Đổi mới tư duy pháp lí
đã mang lại những nhận thức mới toàn diện hơn và sâu sắc hơn. Trên cơ sở
phương pháp luận biện chứng duy vật và phương pháp tiếp cận hệ thống,
14


các vấn đề của pháp luật đã được xem xét trong mối liên hệ khách quan, phổ
biến, trong sự vận động, phát triển phù hợp với yêu cầu, điều kiện lịch sử cụ
thể ở trong nước và quốc tế. Tính khách quan, bản chất xã hội và vai trò xã
hội của pháp luật đã được đề cao hơn, các giá trị xã hội của pháp luật đã
được làm rõ hơn trên nhiều phương diện; việc tiếp cận và giải quyết các mối
quan hệ cơ bản của pháp luật với chính trị, kinh tế, văn hoá, đạo đức, phong
tục, tập quán, dân chủ, giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế... đã
được chú trọng nhiều hơn và các phương pháp xã hội học, luật học so sánh...
đã được sử dụng rộng rãi hơn. Những nhận thức mới trong đổi mới tư duy
pháp lí về bản chất và giá trị xã hội của pháp luật đã tạo ra hình ảnh mới của
pháp luật, khơi dậy tâm lí, tình cảm, niềm tin của nhân dân với pháp luật và
xác định trách nhiệm của Nhà nước đối với việc xây dựng và tổ chức thực

hiện pháp luật có hiệu quả.
7. Về hệ thống pháp luật: Trước thời kì đổi mới, hệ thống pháp luật
Việt Nam kém phát triển và còn nhiều bất cập: Hệ thống pháp luật còn
phiến diện, các văn bản luật (xương sống của hệ thống pháp luật) hết sức
ít ỏi, chủ yếu tập trung vào lĩnh vực luật hình sự và hành chính; hệ thống
văn bản pháp luật về dân sự, kinh tế thiếu trầm trọng lại mang nặng tính
chất áp đặt và mệnh lệnh hành chính. Tình trạng mâu thuẫn, trùng lặp,
chồng chéo và không phù hợp với trình độ phát triển của kinh tế-xã hội,
điều kiện và yêu cầu thực tiễn đã diễn ra một cách phổ biến và kéo dài,
làm cho pháp luật kém hiệu lực và hiệu quả. Có những nguyên nhân
khách quan và chủ quan dẫn đến tình trạng này, trong đó có sự ảnh
hưởng rất lớn của chiến tranh nhưng một trong những nguyên nhân chủ
yếu là do ảnh hưởng của tư duy pháp lí cũ.
Từ năm 1986, những nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng về các
vấn đề của hệ thống pháp luật đã được triển khai và đã thu được những kết
quả quan trọng: Khái niệm hệ thống pháp luật đã được nhận thức rõ hơn,
đầy đủ và sâu sắc hơn, những tiêu chí để đánh giá, xác định mức độ hoàn
thiện hệ thống pháp luật đã được xây dựng và tiếp tục bổ sung, làm rõ. Với
tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, nhiều
cuộc hội thảo khoa học, nhiều cuộc khảo sát thực tiễn đã được tổ chức để
phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và đề xuất những quan điểm, giải
15


pháp mới cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm đáp ứng
nhu cầu của công cuộc đổi mới. Kết quả của các cuộc hội thảo và khảo sát
đó đã góp phần tích cực và to lớn vào việc đổi mới tư duy pháp lí. Trên cơ
sở của tư duy pháp lí mới, việc xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật
trong thời kì đổi mới đã có những bước phát triển vượt bậc: Tính tồn diện,
thống nhất, đồng bộ, phù hợp, công khai, minh bạch và khả thi của hệ thống

pháp luật ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới.
Sau 23 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhất là từ sau khi có Hiến
pháp năm 1992, hệ thống pháp luật nước ta đã có bước phát triển quan
trọng, từng bước hồn thiện, tạo hành lang pháp lí cho việc phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, xác định chế độ và các hình thức sở hữu,
địa vị pháp lí của các doanh nghiệp, thương gia, quyền tự do kinh doanh, tự
do hợp đồng, khuyến khích và bảo đảm đầu tư, giảm dần sự can thiệp bằng
các biện pháp hành chính của các cơ quan nhà nước vào các quan hệ dân sự,
kinh tế thương mại, xoá bỏ chế độ nhà nước độc quyền ngoại thương; tạo cơ
sở pháp lí cho việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, mở rộng dân chủ và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, từng bước thực hiện công bằng xã hội, phát
triển giáo dục, khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường, xây dựng và phát
triển văn hoá dân tộc và du lịch; tiến hành cải cách bộ máy nhà nước, từng
bước phân định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của nhà nước, các
cơ quan trong bộ máy nhà nước, chức năng của các tổ chức phi nhà nước và
hoạt động của các doanh nghiệp để Nhà nước tập trung thực hiện chức năng
quản lí vĩ mơ, phát huy quyền tự chủ của các tổ chức và doanh nghiệp, góp
phần để Việt Nam mở rộng hợp tác quốc tế, chủ động thực hiện quá trình
hội nhập quốc tế và khu vực...
8. Về kĩ thuật lập pháp và quy trình xây dựng pháp luật: Tư duy pháp lí
mới cũng đã mang lại nhiều hiệu ứng tích cực đối với việc phát triển kĩ thuật
lập pháp, cải tiến quy trình xây dựng và hồn thiện pháp luật. Từ sau khi có
Hiến pháp năm 1992, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trở thành một
trong những mặt hoạt động quan trọng không chỉ của Quốc hội, Chính phủ
mà cịn của nhiều cơ quan, ban, ngành, tổ chức, thu hút sự quan tâm của
nhiều người, nhiều giới, kể cả những người nước ngoài. Đặc biệt, do nhận
thức rõ tầm quan trọng của pháp luật trong việc thể chế hoá đường lối, chủ
16



trương, chính sách, quan điểm của Đảng và để thực hiện quản lí nhà nước,
Đảng ta đã tăng cường chỉ đạo công tác xây dựng pháp luật. Trong rất nhiều
văn kiện quan trọng của Đảng đều có nội dung đề cập vấn đề đẩy mạnh xây
dựng và hoàn thiện pháp luật, đồng thời Đảng cũng tăng cường chỉ đạo cụ
thể đối với công tác xây dựng pháp luật, nhất là đối với các văn bản quy
phạm pháp luật quan trọng.
Việc đề ra chương trình, kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật cũng đã có nhiều cải tiến nhằm phát huy dân chủ, phát hiện và đề xuất
các vấn đề cần thiết cho việc xây dựng mới hoặc sửa đổi, bổ sung pháp luật.
Quốc hội, Chính phủ, các ngành, các cấp đều chú trọng cơng tác lập chương
trình, kế hoạch lập pháp, lập quy. Vấn đề phân tích chính sách, khảo sát và
tổng kết thực tiễn để làm cơ sở cho việc xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật cũng đã được chú trọng hơn. Hoạt động rà soát, hệ thống hoá văn bản
quy phạm pháp luật được triển khai trên quy mô rộng và trở thành một trong
những nhiệm vụ thường xuyên của các cơ quan nhà nước ở trung ương và
địa phương; hoạt động pháp điển hoá pháp luật cũng được chú trọng. Bên
cạnh đó, việc đẩy mạnh công tác đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ cho cán
bộ pháp lí và tăng cường cán bộ cho các cơ quan xây dựng pháp luật cũng là
yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của kĩ thuật xây dựng văn bản quy
phạm pháp luật.
Ngày 12/11/1996, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã được
thông qua tại kì họp thứ 10 Quốc hội khố IX. Luật này góp phần tạo ra sự
chuyển biến nhanh chóng về mặt nhận thức và tổ chức thực hiện việc xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật bảo đảm quy trình, thủ tục luật định,
trong đó có vấn đề phải nâng cao trình độ kĩ thuật pháp lí. Luật ban hành
văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể những vấn đề quan trọng:
Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật; các hình thức và nội
dung của từng loại văn bản quy phạm pháp luật; trình tự soạn thảo, thảo
luận, xem xét, thông qua văn bản quy phạm pháp luật; phương thức thẩm
định, kiểm tra, giám sát, giải thích và xử lí đối với văn bản quy phạm pháp

luật. Sau 12 năm phát huy hiệu lực, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật năm 1996 đã góp phần quan trọng vào việc tạo ra một cách làm mới
trong lĩnh vực xây dựng pháp luật. Tuy nhiên, trước yêu cầu ngày càng cao
17


về phát triển nền kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền và hội
nhập quốc tế, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 đã có
nhiều điểm khơng cịn phù hợp nữa, vì vậy ngày 3/6/2008, tại kì họp thứ 3,
Quốc hội khố XII đã thông qua Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
mới để thay thế cho Luật năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002. Đây cũng là một
trong những dấu hiệu quan trọng phản ánh hiệu ứng tích cực của tư duy
pháp lí mới ở nước ta.
9. Về xây dựng cơ chế bảo hiến: Bước tiến quan trọng của đổi mới tư
duy pháp lí là đã phân tích, xây dựng cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc
hình thành cơ chế bảo hiến ở Việt Nam. Thực tế đã cho thấy, mặc dù bảo
hiến được thừa nhận là quan trọng và có tính khách quan nhưng mỗi nước
lại có cách tiếp cận và giải quyết vấn đề khơng hồn tồn giống nhau. Điều
này có thể do những lí do sau đây: Thứ nhất, do tính chất, nội dung và ý
nghĩa đặc biệt của hiến pháp trong đời sống nhà nước, đời sống xã hội và
đời sống cá nhân của con người nên xét về mặt lí thuyết, bảo hiến ln là
nhu cầu khách quan và có những đặc tính chung. Nhưng bên cạnh những
đặc trưng chung thì hiến pháp của mỗi nước lại có những khác biệt riêng.
Đồng thời, cùng với sự phát triển của xã hội, phạm vi điều chỉnh của hiến
pháp không cố định mà ln có sự biến đổi tuỳ thuộc vào tình hình của mỗi
nước và quốc tế. Thứ hai, về mặt lí thuyết, do có sự khiếm khuyết của các
mơ hình tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, xây dựng và thực thi
pháp luật nên bảo hiến được xem là sự phát triển tiếp tục nhằm khắc phục
các khiếm khuyết đó. Thứ ba, thực tiễn tổ chức và thực hiện quyền lực nhà

nước, xây dựng và thực thi pháp luật cho thấy tình trạng vi hiến diễn ra khá
phổ biến trong các quốc gia và cơ chế bảo hiến hồn thiện, hoạt động có
hiệu quả đang được coi là một trong những giải pháp quan trọng để giải
quyết thực trạng đó.
Nội hàm của bảo hiến cũng mở rộng theo phạm vi điều chỉnh của hiến
pháp và khái niệm cơ chế bảo hiến cũng sẽ có nội hàm rất rộng, bao gồm
toàn bộ các thiết chế, phương tiện, nguyên tắc, hình thức, phương pháp,
biện pháp tổ chức và thực hiện các hoạt động: 1) Giải thích hiến pháp để
bảo đảm cho các nguyên tắc, quy định của hiến pháp được nhận thức và
18


thực hiện thống nhất; 2) Kiểm tra và giám sát các quá trình, hoạt động của
các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm bảo đảm sự phối hợp và
cân bằng quyền lực, làm cho quyền lập pháp phải phục tùng quyền lập
hiến; quyền hành pháp và quyền tư pháp phải phục tùng quyền lập hiến và
quyền lập pháp; hạn chế quyền lực của các cơ quan nhà nước và các cá
nhân được trao quyền lực nhà nước, bảo đảm cho các chủ thể quyền lực
hoạt động theo đúng giới hạn về thẩm quyền và trách nhiệm được hiến
pháp và pháp luật quy định; 3) Kiểm tra, giám sát tính hợp hiến và hợp
pháp của các văn bản quy phạm pháp luật và các điều ước quốc tế, bảo
đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật theo nguyên tắc bảo đảm tính
tối cao của hiến pháp; 4) Kiểm tra, giám sát việc tôn trọng và thực hiện
các quy định của hiến pháp về quyền con người, quyền công dân, bảo
đảm các giá trị nhân bản của hiến pháp, bảo đảm chủ quyền nhân dân và
giải quyết đúng mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân; 5) Phát hiện và
giải quyết các vấn đề phát sinh về thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước
và các cá nhân có thẩm quyền (chủ thể quyền lực); các xung đột pháp
luật có biểu hiện vi hiến; các khiếu kiện của công dân đối với cơ quan
nhà nước và các cá nhân có thẩm quyền về các quyết định, các hành vi có

biểu hiện vi hiến. Với những nội dung đó, bảo hiến bao gồm nhiều q
trình, nhiều hoạt động thường xun và khơng thường xun, có thể diễn
ra trước hoặc sau mỗi quá trình, hoạt động, vụ việc xác định, trong đó
q trình này, hoạt động này có thể được thực hiện trước quá trình kia,
hoạt động kia và ngược lại.
Từ những nhận thức đó, trên cơ sở đánh giá thực trạng của cơ chế bảo
hiến Việt Nam, những đề xuất mới về xây dựng cơ chế bảo hiến mới đã có
tác động tích cực. Văn kiện Đại hội Đảng X đã chính thức ghi nhận định
hướng quan trọng: “Xây dựng và hoàn thiện thể chế giám sát, kiểm tra tính
hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt động của các cơ quan công quyền…
Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm hiến pháp trong các hoạt
động lập pháp, hành pháp và tư pháp”.(1)
(1).Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ X, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 45, 127.

19


10. Về giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia và pháp luật
quốc tế: Thành tựu quan trọng của công cuộc đổi mới đã tạo cho Việt Nam
vị thế mới trên trường quốc tế. Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ với 172
nước,(1) mở rộng quan hệ thương mại với trên hơn 200 nước và vùng lãnh
thổ,(2) tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế lớn. Tình hình đó đặt ra những
u cầu và thách thức lớn, địi hỏi phải có sự nhận thức tồn diện, sâu sắc và
giải quyết đúng mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế.
Đổi mới tư duy pháp pháp lí mới đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện
nhiệm vụ này và đã mang lại những hiệu ứng hết sức tích cực. Nhiều hoạt
động phong phú, sơi động đã diễn ra như rà sốt, đối chiếu, đánh giá, phân
tích về các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, so sánh với các cam kết
quốc tế; xây dựng chương trình, kế hoạch lập pháp, lập quy để bảo đảm tính

khả thi, phù hợp với điều kiện Việt Nam và quốc tế; đẩy mạnh công tác soạn
thảo, thẩm định và ban hành hệ thống văn bản pháp luật để đáp ứng nhu cầu
phát triển và hội nhập; xây dựng các quan điểm và biện pháp nhằm thực
hiện tốt pháp luật và các cam kết quốc tế…
11. Về văn hoá pháp luật: Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành trung ương
Đảng (khoá VIII) đã ra Nghị quyết “Về xây dựng và phát triển nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, trong đó khẳng định: “Văn hoá
là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy
sự phát triển kinh tế-xã hội” đồng thời chỉ rõ: “Các nhân tố văn hoá phải
gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện
chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật, kỉ cương... biến thành nguồn lực nội
sinh quan trọng nhất của sự phát triển”.(3) Pháp luật là một trong những yếu
tố của văn hoá và văn hoá pháp luật là lĩnh vực văn hố chun ngành. Vì
vậy, để xây dựng được nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc thì tất yếu phải chú trọng phát triển văn hố pháp luật.
Nói một cách tổng qt, văn hố pháp luật là tổng thể những giá trị vật

(1).Xem: Thông tin cơ bản về các nước, khu vực và quan hệ với Việt Nam, nguồn: http://
www.mofa.gov.vn
(2).Xem: Quan hệ thương mại của Việt Nam với các nước và vùng lãnh thổ, nguồn:

(3).Xem: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành trung ương khố VIII, Nxb. Chính
trị quốc gia, H. 1998, tr. 55.

20


chất và tinh thần mà con người đã sáng tạo ra trong lĩnh vực pháp luật bao
gồm hệ thống quy phạm pháp luật được ban hành trong các thời kì lịch sử,
những tư tưởng, quan điểm, luận điểm, nguyên lí, nguyên tắc, những tác

phẩm văn hoá pháp luật, những kinh nghiệm và thói quen tích luỹ được
trong q trình xây dựng và thực thi pháp luật... Xét theo quan điểm cấu trúc
hệ thống, văn hoá pháp luật được cấu thành từ ba bộ phận là: Ý thức pháp
luật, hệ thống pháp luật; các thiết chế, phương tiện pháp luật, khả năng,
trình độ sử dụng pháp luật để xử lí các quan hệ xã hội nhằm thoả mãn các
nhu cầu của cá nhân phù hợp với yêu cầu chung của xã hội.
Tư duy pháp lí mới đã góp phần làm thay đổi nhận thức về những giá trị
của pháp luật, về phương pháp tiếp cận, sử dụng và phát huy những giá trị
của văn hoá pháp luật để phục vụ cho nhu cầu của con người, của cộng
đồng, xã hội và nhà nước. Việc triển khai nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu
ứng dụng về văn hoá pháp luật ngày càng nhiều hơn và có chất lượng hơn.
Đời sống văn hố pháp luật của nước ta ngày càng trở nên phong phú và
sinh động hơn. Lối sống và làm việc theo pháp luật đang trở thành xu hướng
tích cực trong xã hội Việt Nam.
12. Về ý thức pháp luật và giáo dục ý thức pháp luật: Ý thức pháp luật
là yếu tố hết sức quan trọng của văn hoá pháp luật, là tiền đề tư tưởng trực
tiếp để xây dựng và hoàn thiện pháp luật, là cơ sở bảo đảm cho việc áp dụng
và thực hiện pháp luật một cách đúng đắn trong thực tiễn đời sống. Trên
thực tế, trước khi xây dựng đạo luật (văn bản pháp luật nói chung) cần phải
xác định rõ tư tưởng chỉ đạo, những quan điểm và nguyên tắc cơ bản thể
hiện trong đạo luật đó cũng như phải suy nghĩ về nội dung và những quy
phạm cụ thể sẽ ban hành. Các nhà chức trách và mọi cơng dân khi có sự
hiểu biết và nhận thức đúng, đầy đủ nội dung và yêu cầu của các quy phạm
pháp luật sẽ có ý thức tơn trọng và chủ động tuân thủ, chấp hành, sử dụng
và áp dụng pháp luật một cách có hiệu quả hơn trong thực tế.
Ý thức pháp luật bao gồm hệ tư tưởng pháp luật (toàn bộ những tư
tưởng, quan điểm, quan niệm khoa học về pháp luật) và tâm lí pháp luật
(phản ánh những tâm trạng, cảm xúc, thái độ, tình cảm đối với pháp luật và
các hiện tượng pháp luật cụ thể khác). Ý thức pháp luật còn thể hiện ở động
cơ hành vi, tinh thần sẵn sàng thực hiện những hành vi theo yêu cầu của

21


pháp luật. Ý thức pháp luật thể hiện ở những cấp độ khác nhau tuỳ thuộc
vào những điều kiện khách quan và năng lực nhận thức chủ quan của chủ
thể nhận thức. Theo cấp độ có ý thức pháp luật thơng thường, ý thức pháp
luật lí luận và ý thức pháp luật nghề nghiệp.
Ý thức pháp luật thông thường thể hiện mức độ nhận thức cịn hạn
chế, thơng qua sự phản ánh trực tiếp, giản đơn về các hiện tượng pháp luật.
Ý thức pháp luật thơng thường được hình thành dưới sự tác động trực tiếp
của những điều kiện khách quan và kinh nghiệm của cuộc sống cá nhân,
trong đó yếu tố tâm lí xã hội chiếm vị trí quan trọng. Ở cấp độ nhận thức
này, ý thức pháp luật nhìn chung mới chỉ biểu hiện ở sự thừa nhận, tiếp thu
và xử sự theo sự thừa nhận và tiếp thu đó. Ví dụ, dưới sự tác động của các
hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật hoặc tự học tập, mỗi cá nhân
có thể có được sự hiểu biết và nắm được những kiến thức pháp luật nhất
định; thông qua việc tham gia vào các hoạt động như bầu cử, góp ý kiến
vào các dự án luật và trực tiếp tham gia vào các quan hệ pháp luật cụ thể,
mỗi người cũng sẽ có được những hiểu biết và kinh nghiệm nhất định. Tuy
nhiên, đó mới chỉ là sự hiểu biết thơng thường, chưa tồn diện và sâu sắc.
Ý thức pháp luật lí luận thể hiện trình độ nhận thức cao, có hệ thống
và sâu sắc về các vấn đề có tính bản chất của pháp luật và các hiện tượng
pháp luật. Nói cách khác, đó là sự nhận thức có căn cứ khoa học, được
hình thành trong q trình đào tạo, học tập, nghiên cứu một cách có hệ
thống và được kiểm nghiệm trong thực tiễn đời sống. Ý thức pháp luật lí
luận có ưu thế đặc biệt, nó là cơ sở cho hoạt động sáng tạo pháp luật,
truyền bá tư tưởng, quan điểm pháp lí, cũng như những hoạt động pháp
luật thực tiễn.
Ý thức pháp luật nghề nghiệp là ý thức của các luật gia và của các
nhà chức trách mà nghề nghiệp có liên quan đến việc hoạch định chính

sách pháp luật, nghiên cứu, xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật. Ý
thức pháp luật nghề nghiệp là sự kết hợp hài hoà của những yếu tố tư
tưởng pháp luật và tâm lí pháp luật. Nó khơng những chỉ biểu hiện ở
trình độ hiểu biết cao về pháp luật mà cịn phản ánh trình độ nghiệp vụ,
kĩ năng sử dụng và áp dụng pháp luật vào việc giải quyết các công việc
của thực tế đời sống.
22


Như vậy, ý thức pháp luật thơng thường có tính phổ quát, phong phú
được đặc trưng bằng yếu tố tâm lí xã hội; ý thức pháp luật lí luận thể hiện
tính tư tưởng và khoa học sâu sắc, tồn diện còn ý thức pháp luật nghề
nghiệp là sự kết hợp hài hồ của hai hình thái ý thức đó. Có thể coi ý thức
pháp luật nghề nghiệp là cầu nối giữa ý thức pháp luật lí luận và ý thức pháp
luật thơng thường. Xét ở góc độ văn hố, ý thức pháp luật thơng thường góp
phần tạo ra sự phong phú và đa dạng của văn hoá pháp luật, ý thức pháp luật
lí luận quy tụ, soi sáng và định hướng cho sự phát triển của văn hố pháp
luật, cịn ý thức pháp luật nghề nghiệp góp phần tạo ra sự phát triển hài hố
của văn hố pháp luật. Vì vậy, trong phát triển văn hoá pháp luật cần chú
trọng toàn diện cả ba mặt: Nâng cao ý thức pháp luật thơng thường, tăng
cường ý thức pháp luật lí luận và đề cao ý thức pháp luật nghề nghiệp.
Trên cơ sở của tư duy pháp lí, những vấn đề về ý thức pháp luật đã được
triển khai nghiên cứu một cách cơ bản để giải mã những vấn đề nêu trên
đồng thời việc nghiên cứu ứng dụng để tìm kiếm và tổ chức thực hiện các
giải pháp nhằm phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật đã
được triển khai mạnh mẽ hơn bất cứ thời kì nào trước đó. Kết quả là bên
cạnh những cơng trình, luận án được cơng bố, việc đưa chương trình giáo
dục pháp luật vào trong các nhà trường đã được thực hiện; Chính phủ đã có
các chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật và có sự đầu tư thoả đáng về
nhân lực và vật lực cho công tác này. Nhờ đó, cơng tác này đã đạt được

nhiều thành tựu quan trọng, góp phần tạo chuyển biến mạnh mẽ về ý thức
tôn trọng và chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Ngày 12/3/2008,
Thủ tướng Chính phủ đã kí Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg phê duyệt
Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến năm 2012. Mục
tiêu của Chương trình là tiếp tục tạo chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tôn
trọng và chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân; đổi mới phương thức tổ
chức thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; tuyên truyền kịp thời,
thường xuyên những nội dung pháp luật phù hợp với từng đối tượng, địa
bàn; tổ chức có hiệu quả cơng tác phổ biến giáo dục pháp luật trên tồn
quốc, góp phần thực hiện nếp sống và làm việc theo pháp luật, xây dựng,
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân
23


dân, vì nhân dân.(1)
13. Về cơ chế điều chỉnh pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và hiệu
quả pháp luật: Đây là những vấn đề có ý nghĩa hết sức thiết thực nhưng
cũng hết sức khó khăn và phức tạp, địi hỏi phải có sự nhận thức đúng đắn
và đủ các điều kiện, phương tiện pháp lí để thực hiện. Trên cơ sở của đổi
mới tư duy pháp lí, những nhận thức mới về các vấn đề nêu trên đã có
những hiệu ứng hết sức tích cực trong khoa học và thực tiễn. Nhiều đề tài,
luận án, đề án và giải pháp đã được triển khai nghiên cứu và áp dụng trong
thực tiễn và đã mang lại những kết quả quan trọng có giá trị cả về mặt lí
luận và thực tiễn. Những quan điểm mới đã được thừa nhận và trở thành
phổ biến như quan niệm về trạng thái động của pháp luật; về sự cần thiết
phải gắn kết các q trình xây dựng pháp luật, giải thích pháp luật, phổ
biến giáo dục pháp luật và thực hiện pháp luật; về các tiêu chí để đánh giá
mức độ hoàn thiện của cơ chế điều chỉnh pháp luật; kết quả, hiệu quả xây
dựng và thực thi pháp luật… đã được xác lập, tạo cơ sở cho việc phân tích,

đánh giá và thực hiện các giải pháp để phát huy vài trò, tác dụng của pháp
luật trong thực tiễn.
14. Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật: Ngày 24/5/2005,
Bộ chính trị đã ra Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020 với mục tiêu: “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ,
thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn
bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực
của pháp luật để góp phần quản lí xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát
triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh,
thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của cơng dân, góp phần

(1). Theo đó chương trình PBGDPL từ năm 2008 - 2012 sẽ tập trung tuyên truyền, giáo dục
pháp luật cho 6 nhóm đối tượng: cán bộ, cơng chức, viên chức; người dân thành phố, người
dân nông thôn, đồng bào dân tộc thiểu số; cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang; thanh
thiếu niên; người sử dụng lao động, người lao động trong các doanh nghiệp; người nước
ngoài ở Việt Nam và người Việt Nam ở nước ngoài.

24


đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020”. Đây là lần đầu tiên ở nước ta, vấn đề xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật được đề ra ở tầm chiến lược, thể hiện rõ nét tư duy pháp lí
mới, bảo đảm tính khoa học, tính thực tiễn và tính khả thi cao.
Nghị quyết đã xác định 5 quan điểm chỉ đạo đối với q trình xây dựng
và hồn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta trong giai đoạn này là: 1) Thể
chế hoá kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của Đảng, cụ thể hoá các quy

định của Hiến pháp về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; bảo đảm quyền con người,
quyền tự do, dân chủ của công dân; xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, phát triển văn hố-xã hội, giữ vững quốc phịng, an ninh;
2) Phát huy cao độ nội lực, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, thực hiện
đầy đủ các cam kết quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền, an
ninh quốc gia và định hướng XHCN; 3) Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam,
đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và tổ chức
thi hành pháp luật; kết hợp hài hoà bản sắc văn hoá, truyền thống tốt đẹp
của dân tộc và tính hiện đại của hệ thống pháp luật; 4) Phát huy dân chủ,
tăng cường pháp chế trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thi
hành pháp luật; 5) Tiến hành đồng bộ với cải cách hành chính, cải cách tư
pháp, với những bước đi vững chắc; coi trọng số lượng và chất lượng, có
trọng tâm, trọng điểm; dự tính đầy đủ các điều kiện bảo đảm hiệu lực, hiệu
quả thi hành của pháp luật.
Trên cơ sở của các quan điểm đó, Nghị quyết đã xác định 6 định hướng
chiến lược cho cơng tác xây dựng và hồn thiện pháp luật trên các lĩnh vực:
Pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị
phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; pháp luật về bảo đảm quyền con
người, quyền tự do, dân chủ của công dân; pháp luật về dân sự, kinh tế,
trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; pháp
luật về giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ, y tế, văn hố-thơng tin, thể
thao, dân tộc, tơn giáo, dân số, gia đình, trẻ em và chính sách xã hội; pháp
luật về hội nhập quốc tế.
25


×