Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Tải Phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm - Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.83 KB, 10 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<i><b>Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ</b></i>



Phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm để thấy được tâm trạng
<b>khát khao tình u của người chinh phụ, đoạn trích cịn bày tỏ sự oán ghét chiến tranh đã</b>
<b>ngăn cách hạnh phúc lứa đôi. Mời các bạn cùng tham khảo bài văn mẫu.</b>


Bài văn mẫu lớp 10 số 5 đề 1: Thuyết minh về tấm gương học tốt của lớp em
Bài văn mẫu lớp 10 số 5 đề 2: Thuyết minh về một món ăn đặc sản


<b>Phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm của </b>
<b>Đặng Trần Côn</b>


Chinh phụ ngâm được viết bằng chữ Hán, do tác giả Đặng Trần Côn sáng tác vào khoảng nửa đầu
thế kỉ XVIII. Đây là thời kì vơ cùng rối ren của xã hội phong kiến. Chiến tranh xảy ra liên miên, hết
Lê - Mạc đánh nhau đến Trịnh - Nguyễn phân tranh, đất nước chia làm hai nửa. Ngai vàng của nhà
Lê mục ruỗng. Nơng dân bất bình nổi dậy khởi nghĩa ở khắp nơi. Nhân dân sống trong cảnh loạn li
nồi da nấu thịt, cha mẹ xa con, vợ xa chồng. Văn học thời kì này tập trung phản ánh bản chất tàn
bạo, phản động của giai cấp thống trị và nỗi đau khổ của những nạn nhân trong chế độ thối nát ấy.
Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra đời đã nhận được sự đồng cảm rộng rãi của tầng
lớp Nho sĩ. Nhiều bản dịch xuất hiện, trong đó bản dịch sang chữ Nơm của bà Đồn Thị Điểm được
coi là hồn hảo hơn cả, thể hiện thành công giá trị nội dung và nghệ thuật của nguyên tác.


Nội dung Chinh phụ ngâm phản ánh thái độ oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đặc biệt là
đề cao quyền sống cùng khao khát tình u và hạnh phúc lứa đơi của con người. Đó là điều ít được
nhắc đến trong thơ văn trước đây.


Người chinh phụ vốn dòng dõi trâm anh. Nàng tiễn chồng ra trận với mong muốn người chồng sẽ
lập được công danh và trở về cùng với vinh hoa, phú quý. Nhưng ngay sau buổi tiễn đưa, nàng sống
trong tình cảnh lẻ loi, ngày đêm xót xa lo lắng cho chồng. Thấm thía nỗi cơ đơn, nàng nhận ra tuổi
xn của mình đang qua đi và cảnh lứa đơi đoàn tụ hạnh phúc ngày càng xa vời. Người chinh phụ
rơi vào tâm trạng cô đơn đến cùng cực. Khúc ngâm thể hiện rất rõ tâm trạng cô đơn ấy.



Đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (từ câu 193 đến câu 228) miêu tả những cung bậc và
sắc thái khác nhau của nỗi cô đơn, buồn khổ ở người chinh phụ đang khao khát được sống trong tình
u và hạnh phúc lứa đơi.


Đoạn trích có thể chia làm ba đoạn nhỏ:


Đoạn 1: Từ Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước… đến Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng:
Nỗi cô đơn của người chinh phụ trong cảnh lẻ loi; cảm giác về thời gian chờ đợi; cố tìm cách giải
khy nhưng khơng được.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Đoạn 3: Từ Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc… đến Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau!.
Cảnh vật xung quanh khiến lòng người chinh phụ rạo rực niềm khát khao hạnh phúc.


Sau buổi tiễn đưa, người chinh phụ trở về, tưởng tượng ra cảnh chiến trường đầy hiểm nguy, chết
chóc mà xót xa, lo lắng cho chồng. Một lần nữa nàng tự hỏi vì sao đơi lứa un ương lại phải chia
lìa? Vì sao mình lại rơi vào tình cảnh lẻ loi? Bấy nhiêu câu hỏi đều khơng có câu trả lời. Tâm trạng
băn khoăn, day dứt ấy được tác giả thể hiện sinh động bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế. Có thể
nói, sầu và nhớ là cảm xúc chủ đạo trong đoạn thơ này.


Trong mười sáu câu thơ đầu, tác giả tập trung miêu tả hành động và tâm trạng của người chinh phụ:
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước


Ngồi rèm thưa rủ thác địi phen.
Ngồi rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?


Đèn có biết dường bằng chẳng biết?
Lịng thiếp riêng bi thiết mà thơi.



Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!


Nàng lặng lẽ <i>dạo hiên vắng thầm gieo từng bước</i> trong nỗi cô đơn đang tràn ngập tâm hồn. Nhịp thơ
chậm gợi cảm giác như thời gian ngưng đọng.


Giữa không gian tịch mịch, tiếng bước chân như gieo vào lòng người âm thanh lẻ loi, cô độc. Nỗi
nhớ nhung sầu muộn và khắc khoải mong chờ khiến bước chân người chinh phụ trở nên nặng trĩu.
Nàng bồn chồn đứng ngồi không yên, hết buông rèm xuống rồi lại cuốn rèm lên, sốt ruột mong một
tiếng chim thước báo tin vui mà chẳng thấy.


Nàng khát khao có người đồng cảm và chia sẻ tâm tình. Khơng gian im ắng, chỉ có ngọn đèn đối
diện với nàng. Lúc đầu, nàng tưởng như ngọn đèn biết tâm sự của mình, nhưng rồi lại nghĩ: <i>Đèn có</i>
<i>biết dường bằng chẳng biết</i>, bởi nó là vật vơ tri vơ giác. Nhìn ngọn đèn chong suốt năm canh, dầu
đã cạn, bấc đã tàn, nàng chợt liên tưởng đến tình cảnh của mình và trong lịng rưng rưng nỗi thương
thân tủi phận: Hoa đèn kia với bóng người khá thương!


Hình ảnh người chinh phụ thầm gieo từng bước ngoài hiên vắng và suốt năm canh ngồi một mình
bên ngọn đèn chong, khơng biết san sẻ nỗi niềm tâm sự cùng ai đã miêu tả được tâm trạng cô đơn
tột độ của người chinh phụ.


Tác giả đặc tả cảm giác cô đơn của người chinh phụ trong tám câu thơ. Đó là cảm giác lúc nào và ở
đâu cũng thấy lẻ loi: ban ngày, ban đêm, ngồi phịng, trong phịng. Nỗi cơ đơn tràn ngập không
gian và kéo dài vô tận theo thời gian luôn đeo đẳng, ám ảnh nàng.


Cảnh vật xung quanh không thể san sẻ mà ngược lại như cộng hưởng với nỗi sầu miên man của
người chinh phụ, khiến nàng càng đớn đau, sầu tủi:


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.



Tiếng gà gáy báo canh năm làm tăng thêm vẻ tĩnh mịch, vắng lặng. Cây hịe phất phơ rũ bóng trong
ánh sáng lờ mờ của ban mai gợi cảm giác buồn bã, hoang vắng. Giữa không gian ấy, người chinh
phụ cảm thấy mình nhỏ bé, cơ độc biết chừng nào!


Ở các khổ thơ tiếp theo, nỗi ai oán hiện rõ trong từng chữ, từng câu, dù tác giả không hề nhắc đến
hai chữ chiến tranh:


Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.


Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dày uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.


Người chinh phụ cố gắng tìm mọi cách để vượt ra khỏi vịng vây của cảm giác cô đơn đáng sợ
nhưng vẫn không sao thốt nổi. Nàng gắng gượng điểm phấn tơ son và dạo đàn cho khuây khỏa
nhưng càng lún sâu hơn vào sự tuyệt vọng. Chạm đến đâu cũng là chạm vào nỗi đau, chạm vào tình
cảnh lẻ loi đơn chiếc, Khi Hương gượng đốt thì hồn nàng lại chìm đắm vào nỗi thấp thỏm lo âu. Lúc
Gương gượng soi thì nàng lại khơng cầm được nước mắt bởi vì nhớ gương này mình cùng chồng đã
từng chung bóng, bởi vì phải đối diện với hình ảnh đang tàn phai xuân sắc của mình. Nàng cố gảy
khúc đàn loan phượng sum vầy thì lại chạnh lịng vì tình cảnh vợ chồng đang chia lìa đơi ngả, đầy
những dự cảm chẳng lành: Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng. Rốt cuộc, người chinh phụ
đành ngẩn ngơ trở về với nỗi cô đơn đang chất ngất trong lịng mình vậy.


Sắt cầm, un ương, loan phụng là những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho tình yêu nam nữ, tình
nghĩa vợ chồng. Nay vợ chồng xa cách, tất cả đều trở nên vô nghĩa. Dường như người chinh phụ
không dám đụng tới bất cứ thứ gì vì chúng nhắc nhở tới những ngày đoàn tụ hạnh phúc đã qua và
linh cảm đến sự chia xa đôi lứa trong hiện tại. Tâm thế của nàng thật chông chênh, chơi vơi khiến
cho cuộc sống trở nên khổ sở, bất an. Mong chờ trong nỗi sợ hãi và tuyệt vọng, nàng chí cịn biết
gửi nhớ thương theo cơn gió:



Lịng này gửi gió đơng có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.


Non Yên dù chẳng tới miền,


Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.


Sau những day dứt của một trạng thái bế tắc cao độ, người chinh phụ chợt có một ý nghĩ rất nên thơ:
nhờ gió xn gửi lịng mình tới người chồng ở chiến trường xa, đang đối đầu với cái chết để mong
kiếm chút tước hầu. Chắc chắn, chàng cũng sống trong tâm trạng nhớ nhung mái ấm gia đình với
bóng dáng thân u của mẹ già, vợ trẻ, con thơ:


Non Yên dù chẳng tới miền,


Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

thức. Cách bộc lộ tâm trạng cá nhân trực tiếp như thế này cũng là điều mới mẻ, hiếm thấy trong vắn
chương nước ta thời trung đại:


Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.


Hai câu thất ngôn chứa đựng sự tương phản sâu sắc tạo nên cảm giác xót xa, cay đắng. Đất trời thì
bao la, bát ngát, khơng giới hạn, liệu có thấu nỗi sinh li đau đớn đang giày vò ghê gớm cõi lịng
người chinh phụ này chăng? Nói như người xưa: trời thì cao, đất thì dày, nỗi niềm uất ức biết kêu
ai? Biết ngỏ cùng ai? Bởi vậy nên nó càng kết tụ, càng cuộn xoáy, gây nên nỗi đớn đau cho thể xác:


Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.



Giữa con người và cảnh vật dường như có sự tương đồng khiến cho nỗi sầu thương trở nên da diết,
bất tận. Cảnh vật xung quanh người chinh phụ đã chuyển thành tâm cảnh bởi được nhìn qua đơi mắt
đẫm lệ buồn thương cho thân phận bất hạnh, cô đơn. Sự giá lạnh của tâm hồn làm tăng thêm sự giá
lạnh của cảnh vật. Cũng giọt sương ấy đọng trên cành cây, cũng tiếng trùng ấy rả rích trong đêm
mưa gió, nhưng cảnh ấy tình này lại gợi nên bao sóng gió, bao nỗi đoạn trường trong lịng người
chinh phụ. Tình cảnh ấy, tâm trạng ấy tự nó đã nổi lên bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ
không được sống hạnh phúc, đồng thời cũng phản ánh thái độ lên án chiến tranh của tác giả.


Bầu trời bát ngát không cùng và nỗi nhớ cũng khơng cùng, nhưng suy tưởng thì có hạn; người chinh
phụ lại trở về với thực tế cuộc sống nghiệt ngã của mình. Ý thơ chuyển từ tình sang cảnh. Thiên
nhiên lạnh lẽo như truyền, như ngấm cái lạnh đáng sợ vào tận tâm hồn người chinh phụ cơ đơn:


Sương như búa, bổ mịn gốc liễu,
Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngơ.


Hình như người chinh phụ đã thấm thía sức tàn phá ghê gớm của thời gian chờ đợi. Tuy nhiên đến
câu: Sâu tường kêu vắng chuông chùa nện khơi thì khơng khí đã dễ chịu hơn, cũng bởi người chinh
phụ chỉ mới thất vọng mà chưa tuyệt vọng.


Tám câu cuối là bức tranh tả cảnh ngụ tình đặc sắc nhất trong Chinh phụ ngâm:
Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc,


Một hàng tiêu gió thốc ngồi hiên.
Lá màn lay ngọn gió xuyên,


Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.



Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau!


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Từ thốc rất mạnh trong câu Một hàng tiêu gió thốc ngồi hiên báo hiệu sự chuyển sang một tâm
trạng mới ở người chinh phụ. Cảnh hoa – nguyệt giao hòa khiến lòng người rạo rực, khao khát hạnh
phúc lứa đôi. Những động từ dãi, lồng tốt lên cái ý lứa dơi quấn quýt gần gũi, âu yếm nồng nàn mà
vẫn tế nhị, kín đáo.


Tác giả lựa chọn và dùng từ rất kĩ, rất đắt: Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước, Sương như búa, bổ
mòn gốc liễu, Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngơ, Một hàng tiêu gió thốc ngồi hiên... Đặc biệt, tác
giả đã sử dụng thành công hàng loạt từ láy: eo óc, phất phơ, đằng đẵng, dằng dặc, mê mải, châu
chan, thăm thẳm, đau đáu... về nhạc điệu, tác giả đã phát huy một cách tài tình nhạc điệu du dương
của thể thơ song thất lục bát, giống như những đợt sóng dạt dào, diễn tả tâm trạng người chinh phụ
hết nhớ lại thương, hết thương lại nhớ trong tình cảnh lẻ loi đơn chiếc.


Bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện, tác giả đã diễn tả được những diễn biến phong phú, tinh vi các
cung bậc tình cảm của người chinh phụ. Cảnh cũng như tình được miêu tả rất phù hợp với diễn biến
của tâm trạng nhân vật.


Thông qua tâm trạng đau buồn của người chinh phụ đang sống trong tình cảnh lẻ loi vì chồng phải
tham gia vào những cuộc tranh giành quyền lực của các vua chúa, tác giả đã đề cao hạnh phúc lứa
đôi và thể hiện tinh thần phản kháng đối với chiến tranh phi nghĩa. Tác phẩm Chinh phụ ngâm đã
toát lên tư tưởng chủ đạo trong văn chương; một thời, đó là tư tưởng đòi quyền sống quyền được
hưởng hạnh phúc rất chính đáng của con người.


<b>Phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (Trích Chinh phụ ngâm)</b>
1. Đặng Trần Côn (chưa rõ năm sinh, năm mất) người làng Nhân Mục, tên nơm là làng Mộc,


huyện Thanh Trì, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xn, Hà Nội. Ơng sống vào
khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. về sáng tác, ngồi tác phẩm chính là Chinh phụ ngâm, ơng còn


làm thơ chữ Hán và viết một số bài phú chữ Hán. Theo các tài liệu lịch sử, đầu đời Lê Hiển
Tơng, có nhiều cuộc khởi nghĩa nơng dân nổ ra quanh kinh thành Thăng Long. Triều đình
cất quân đánh dẹp, nhiều trai tráng phải từ giã người thân ra trận. Đặng Trần Côn cảm động
trước nỗi khố đau mất mát của con người, nhất là những người vợ lính trong chiến tranh, đã
viết Chinh phụ ngâm. Khúc ngâm này gồm 476 câu thơ làm theo thể trường đoản cú (câu thơ
dài ngắn không đều nhau).


Tác phẩm đã được dịch ra chữ Nôm, và chưa biết ai là tác giả bản dịch hiện hành. Có người cho
rằng đó là bản dịch của Đồn Thị Điểm. Lại có người cho rằng Phan Huy Ích chính là dịch giả của
Chinh phụ ngâm.


Đoạn trích dưới đây thuộc bản dịch hiện hành, viết về tình cảm và tâm trạng người chinh phụ phải
sống cơ đơn, mịn mỏi trong thời gian dài người chồng đi đánh trận, không có tin tức, khơng rõ ngày
trở về.


1. Kể từ lúc tiễn chồng vào “cõi xa mưa gió” người chinh phụ trở về sống trong tình cảm đơn
chiếc, lẻ loi. Ngày cũng như đêm, sau khi công việc đã yên mọi bề, người chinh phụ


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>Ngoài rèm thước chẳng mách tin, </i>
<i>Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?</i>


Bốn câu thơ song thất lục bát với vần điệu chặt chẽ, thăng trầm như những nốt nhạc buồn càng làm
đậm thêm tình cảnh đơn chiếc, lẻ loi kia. Người trước có lúc sóng đơi vợ chồng thì nay “thầm gieo
từng bước" dưới mái hiên vắng vẻ. Ngày nào bàn chuyện làm ăn cùng chồng bên cửa sổ thì nay
bng xuống kéo lên nhiều lần mong ngóng nhưng chẳng thấy chim thước báo tin lành. Ngày thì
như thế, cịn đêm thì khơng ngủ được, một mình đối diện với ngọn đèn khuya. Tình cảnh của người
chinh phụ quá lẻ loi, đơn chiếc. Ngày thì khắc khoải chờ mong. Đêm dài câm lặng, biết riêng lòng
mình, Hoa đèn kia dẫu sao cịn lửa. Riêng lịng này với bóng lạnh lùng.


<i>Khắc giờ đằng đẵng như niên, </i>


<i>Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa. </i>


Hai câu lục bát, một câu miêu tả thời gian, một câu miêu tả nỗi buồn. Cả hai câu đều mang nghệ
thuật so sánh. Trong tình cảnh lẻ loi ấy thì một giờ là đợi dài tựa một năm, như người xưa thường ví
“Nhất nhật bất kiến như tam thu hề", ngày sau này Xuân Quỳnh tâm sự “Một ngày không gặp nhau /
Biển bạc đầu thương nhớ”. Thời gian chờ đợi càng dài thì nỗi sầu càng lớn "tựa miền biển xa”. Tình


cảnh đã bước qua tâm trạng. Đấy là tâm trạng nhớ thương của người chinh phụ gửi tới chồng ở miền
xa. Nỗi nhớ thương thật tha thiết.


<i>Lịng này gửi gió đơng có tiện?</i>
<i>Nghìn vàng xin gửi đến non Yên</i>


<i>Non Yên dù chẳng tới miền, </i>


<i>Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời. </i>


Bốn câu thơ trên là lời tâm sự của vợ gửi đến chồng. Nhưng chim thước khơng có để nhờ mang thư
đi. Vậy thì gửi lời nhớ thương theo gió. Nhưng gửi theo gió đơng thì gió có mang lời thủ thỉ đến
được tai chàng? Biết chàng đang ở nơi nào ngoài mặt trận? Thơi thì lịng thương q chàng xin được
gửi đến nơi xa nhất mà chàng tới như Đậu Hiến đời Hậu Hán đánh đuổi giặc Bắc Thiền Vu đến núi
n Nhiên, bởi vì:


<i>“Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại, </i>
<i>Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua. ”</i>


Đời chiến binh là như thế, là “ôm yên, gối trống đã chôn, / Năm vùng cát tráng ngủ cồn rêu xanh”,
chưa kể đời chiến binh mấy người đi trở lại. Tình thương, nỗi nhớ của nàng là như thế. Nhưng:


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i>Cảnh buồn người thiết tha lòng, </i>


<i>Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun. </i>


Dù là “Trời” thì Trời cũng khó mà hiểu thấu tình thương và nỗi nhớ da diết của người chinh phụ.
Các từ láy “thăm thẳm, đau đáu” càng làm tăng thêm sự không hiểu biết, khơng thấy được của Trời,
và chỉ có người trong cuộc (người chinh phụ) mới cảm nhận rõ lịng mình. Cảnh thì buồn, đến cả
cây cỏ và tiếng cơn trùng cũng não ruột. Cịn tình thì da diết thiết tha.


1. Thể thơ song thất lục bát vốn thích hợp với tự sự, trong đoạn trích, bản dịch lại dùng phép so
sánh, từ lặp và từ láy một cách tự nhiên càng làm tăng thêm giá trị nội dung.


Đọc đoạn trích người đọc cứ ngỡ ngàng rằng chỉ để miêu tả tình cảnh lẻ loi, thể hiện tâm trạng khát
khao tình yêu của người chinh phụ. Nhưng nếu nghĩ sâu xa hơn thì đoạn trích bày tỏ sự oán ghét
chiến tranh. Chiến tranh đã chia rẽ tình u, ngăn cách hạnh phúc lứa đơi của nhiều thế hệ, nhất là
thế hệ trẻ, có lẽ vì thế mà tác phẩm đã được độc giả cùng thời hết sức tán thưởng. Nhiều người còn
dịch Chinh phụ ngâm sang thơ Nôm (tức thơ tiếng Việt) để khúc ngâm được truyền bá rộng rãi hơn.
Bản diễn Nôm hiện hành là bản dịch thành công nhất.


<b>Bài tham khảo:</b>


Ra đời vào nửa đầu thế kỉ XVIII với nguyên tác bằng Hán văn của Đặng Trần Côn, Chinh Phụ
Ngâm đã mau chóng đi vào lịng mọi tầng lớp quần chúng. Trải qua hơn hai thế kỉ rưỡi cho đến nay,
Chinh Phụ Ngâm luôn giữ nguyên giá trị của một viên ngọc văn chương sáng ngời, một sản phẩm
đáng tự hào của xứ sở vốn "nổi tiếng thi thư". Trong đó, đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh
phụ cho thấy rõ tâm trạng cô đơn của người vợ nhớ chồng ra trận và nghệ thuật miêu tả tâm trạng
bậc thầy của hai tác giả Đặng - Đồn, với nghệ thuật diễn Nơm đặc biệt xuất sắc của nữ sĩ Đồn Thị
Điểm. Đoạn trích tinh cảnh lẻ loi của người chinh phụ viết về tình cảnh và tâm trạng người chinh
phụ phải sống cô đơn, buồn khổ trong thời gian dài người chồng đi đánh trận mà không rõ tin tức:


<i>“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước</i>
<i>Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”</i>



Như trong Kiều, Nguyễn Du đã từng để Kiều nói câu ‘phận gái chữ tịng’, hay như trong Tân Hơn
Biệt có câu ‘Thệ dục tùy quân khứ’, đã là phận vợ, dù đến chân trời góc bể cũng muốn theo chồng.
Nhưng ‘Hình thế phản thương hồng)’, mà ‘Phụ nhân tại qn trung/ Binh khí khủng bất dương’,
người vợ có chồng đi lính lại chỉ có thể ở lại nhà. Có chồng, nàng pha trà cùng quân đối ẩm, nhưng
quân nay đi rồi, nàng đành ‘dạo hiên’. Nàng đếm từng bước chân, tựa như đếm từng ngày chồng đi,
đếm từng ngày nỗi nhớ thương đong đầy trong cách trở. ‘Có khoảng khơng gian nào đo chiều dài
nỗi nhớ’(trích ở hai đầu nỗi nhớ) Hết dạo hiên, nàng lại kéo rèm. Kéo rèm xuống, nàng như nhác
thấy bóng chồng khuất đi, vội kéo rèm lên, hóa ra chỉ là tình cảm và ánh nước trong mắt lùa dối
nàng. Nhưng khi nàng hạ rèm xuống, nàng lại vẫn thấy mọi chuyện diễn ra như cũ, và rồi nàng cứ
vô thức lặp đi lặp lại một hành động ấy… Người đời hận:


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i>Quân hận ta sinh trì</i>
<i>Ta hận qn sinh tảo</i>


Nhưng có lẽ chỉ những người có duyên có phận lại chẳng được gần nhau như thế mới biết được nỗi
sợ của việc không được cùng kẻ kết duyên ‘thượng cùng bích lạc hạ hồng tuyền" (ĐỖ phủ)Hiên
vắng khơng phải vì khơng có người, mà vì người quan trọng nhất khơng ở bên nàng.


<i>Ngồi rèm thước chẳng mách tin</i>
<i>Trong rèm dường đã có đèn biết chăng</i>


<i>Đèn có biết giường bằng chẳng biết</i>
<i>Lịng thiếp riêng bi thiết mà thơi</i>


<i>Buồn rầu nói chẳng nên lời</i>
<i>Hoa đèn kia với bóng người khá thương. </i>


<i>Gà eo óc gáy sương năm trống</i>
<i>Hịe phất phơ rủ bóng bốn bên. </i>



Giữa thời buổi loạn lạc, nhà có người đi lính, ‘gia thư để vạn kim’, họa có mấy khi có người về báo
tin chiến trận? Người vợ nghe tin thắng trận cũng lo sợ, mà nghe tin thua trận cũng lo sợ, vì ‘Cổ lai
chinh chiến kỷ nhân hồi?’. Khơng nghe tin chồng nàng chỉ có thể chờ đợi trong lo sợ, nàng như chết
dần chết mòn vì sự bi thiết trong lịng, sự bi thiết đến từ nỗi chờ mong trong cô lẻ, triền miên. Đến
cả lồi chim – lồi có đơi cánh, có thể dang rộng bay khắp thiên hạ, cũng chẳng biết tin, há một
người phịng kh như nàng lại có thể biết tin? Dù cho ‘Hoàng điểu tọa tương bi’, ‘Biệt li chim cũng
vì người xót xa’, nhưng nàng vẫn chẳng có người đồng cảm, tựa như Bá Nha mất đi Tử Kì, Trang
Tử mất đi Huệ Thi. ‘Lệ rơi khêu ngọn đèn’, nàng chong đèn suốt đêm, không ngủ được mà cũng
chẳng dám ngủ – có lẽ chồng nàng sẽ về, và nàng khơng muốn chậm trễ đón chàng. Nhưng gà gáy
canh năm, trời sáng rồi, mà bóng chàng vẫn cứ biệt tăm. ‘Cành liễu ai người vin?’, chỉ có hịe phất
phơ in bóng lên tường khi mặt trời của ngày mới đến. Ai bảo mặt trời là hi vọng, ai bảo ánh sáng là
nguồn sống? Nàng chỉ biết, một ngày đã lại qua, số ngày chia cách lại tăng thêm một, nỗi nhớ trong
nàng lại dâng đầy, lo sợ cũng như nước lũ mà phá ra.


Kinh Thi có câu ‘Nhất nhật bất kiến như tam thu hề’, Nguyễn Du gói gọn lại thành ‘Ba thu dọn lại
một ngày dài ghê’, đối với người chinh phụ, ‘khắc giờ’ thì ‘đằng đẵng như niên’, mà ‘mối sầu’ thì
‘dằng dặc tựa miền biển xa’. Hay cho một câu cảnh còn người mất! Mùi hương vẫn cịn đó, vấn vít
giống như ngày chàng cịn tại ‘Hương diệc cánh bất diệc’, nhưng chỉ tiếc ‘Nhân diệc cánh bất lai’.
Gương đồng vẫn sáng, nàng vẫn soi gương, điểm trang mỗi ngày, nhưng chỉ là ‘gượng’. Chồng đi
lính nàng khơng cịn tâm trí nào nghĩ tới bản thân nữa. Nhớ chồng, giọt nước mắt rơi lúc nào không
hay. Nỗi nhớ luôn đau đáu trong lịng nàng. lệ lại châu chan, nàng đã khóc biết bao ngày. Nàng đánh
đàn, nhưng tiếng đàn đứt đoạn, bởi nàng lo dây uyên sẽ đứt, phím loan sẽ chùng, gợi nên sự không
may mắn cho đôi lứa yêu nhau:


“<i>Khắc giờ đằng đẵng như niên</i>
<i>Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa</i>


<i>Hương gượng đốt hồn đà mê mải</i>
<i>Gương gượng soi lệ lại châu chan</i>



<i>Sắt cầm gượng gảy ngón đàn</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Mười sáu câu đầu là phần điệp khúc bằng tiếng tỳ bà chậm rãi, day dứt – bởi sự khắc khoải trong nỗi
nhớ, bởi sự triền miên và vô tận – tiếng đàn ngân mãi, tựa như tiếng khóc kiềm nén của người chinh
phụ trong màn đêm. Ấy khơng chỉ là màn đêm của bóng tối – mà còn là màn đêm của những lo lắng,
sợ hãi; là màn đêm của những cô đơn, lẻ loi bị che khuất dưới ánh mặt trời ban ngày.


Nếu mười sáu câu đầu là đoạn điệp khúc khi mà nỗi nhớ thương và tâm trạng đau thương được đẩy
lên đến cùng cực, thì tám câu sau này lại như một đoạn nhạc dạo trước cao trào. Tấm lòng hướng về
phương xa nơi chồng đang chinh chiến chậm rãi biến nỗi cô đơn thành một nỗi đau, một nỗi đau
khơng gì sánh được. Như một chữ ‘thiết tha’, nó mài, nó cắt vào ruột gan người đọc hệt như cách nó
làm đau đớn lịng người chinh phụ. Trước hết là một ước mong cháy bỏng đêm ngày:


<i>“Lòng này gửi gió đơng có tiện?</i>
<i>Nghìn vàng xin gửi đến non n. ”</i>


“Lịng này” là sự thương nhớ khơn ngi, vì đã trải qua nhiều đợi chờ “Trài mấy thu đi tin nhạn
lại-Tới xn này, tin hãy vắng khơng”. Gió đơng là gió xn. Trong cơ đơn, người chinh phụ chỉ biết
hỏi gió, nhờ gió đưa tin, nhắn tin tới người chồng yêu thương nơi chiến địa xa xôi, nguy hiểm, nơi
non Yên nghìn trùng. Non yên, một địa danh cách xa Thiểm Tây, Trung Quốc hơn hai ngàn dặm về
phía bắc. Hỏi gió, nhờ gió nhưng”có tiện”hay khơng như lời nhún mình, năn nỉ ngọn gió. Nhưng đó
là mong ước phi thực tế, hi vọng loé lên rồi vụt tắt ngay. Chỉ có nỗi nhớ là hiện thực. :


“<i>Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời”. </i>


“Nhớ đằng đẵng” nghĩa là nhớ mãi, nhớ nhiều, nhớ lâu, nhớ không bao giờ nguôi. Trong truyện
Kiều cũng có câu tương tự để diễn tả nỗi nhớ nhung: “Một ngày đằng đẵng xem bằng ba thu”. Câu
thơ “Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời” là một câu thơ tuyệt bút, vừa diễn tả một nỗi nhớ
thương đè nặng trong lòng, triền miên theo thời gian đêm ngày năm tháng (đằng đẵng) không bao


giờ nguôi, vừa được cụ thể hóa bằng độ dài của khơng gian(đường lên bằng trời). khi giải thích
nghĩa câu thơ này, Nguyễn Thạch Giang đã viết :”Lòng nhớ chồng thăm thẳm dài dằng dặc vẫn có
thể đến được dù có như đường lên trời”. Có thể nói, dịch giả Đồn Thị Điểm đã có một cách nói rất
sâu sắc để cực tả nỗi nhớ thương chồng của người chinh phụ. Nỗi nhớ thương ấy, tiếng lòng thiết tha
ấy lại được diễn tả qua âm điệu triền miên cảu vần thơ song thất lục bát với thủ pháp nghệ thuật liên
hoàn-điệp ngữ. Cả một trời thương nhớ mênh mông. Nỗi buồn triền miên, dằng dặc vô tận


Sau khi hỏi “gió đơng”để bày tỏ niềm thương nỗi nhớ chồng “đằng đẵng”, nàng chinh phụ lại hỏi
trời để rồi tủi thân, than trách :


<i>“Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu, </i>
<i>Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong. ”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Ở hai câu cuối, nhà thơ lấy ngoại cảnh để thể hiện tâm cảnh;nghệ thuật tả cảnh ngụ tình cực kì điêu
luyện. Tính hình tượng kết hợp với tính truyền cảm tạo nên sắc điệu trữ tình sâu lắng thiết tha:


<i>“Cảnh buồn người thiết tha lòng, </i>
<i>Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun. </i>”


Nỗi thương nhớ, lúc thì “đằng đãng”, lúc thì “đau đáu”, triền miên suốt ngày đêm. Đêm nối đêm
như dài thêm. Càng cô đơn thì càng thao thức. Nhìn cành cây ướt dẫm sương đêm mà thâm lạnh lẽo.
nghe tiếng trùng kêu rả rích thâu canh như tiếng đẫm sương đêm mà thêm lạnh lẽo. nghe tiếng trùng
kêu rả rích thâu canh như tiếng “mưa phùn” mà thâm buồn nhớ. Âm thanh ấy, cảnh sắc ấy vừa lạnh
lẽo vừa buồn, càng khơi gợi trong lịng người vợ trẻ, cơ đơn biết bao thương nhớ, lo lắng, buồn rầu.
Lòng đau đớn như bị cắt xứa, chà xát. Có thể nói hai câu thơ”Chinh phụ ngâm khúc” này rất gần gũi
với hai câu “Kiều” nổi tiếng:


<i>“Cảnh nào cảnh chằng đeo sầu, </i>
<i>Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ…”. </i>



Có người nói: “Hạnh phúc hay bất cứ thứ gì, thường chỉ đến lúc mất đi người ta mới biết nó từng
tồn tại”. Với Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, chúng ta được đưa vào một không gian nhỏ hẹp –
một không gian đong đầy nỗi nhớ và sự khắc khoải, sự bất bình và bối rối giữa các mối quan hệ của
Nho học, sự cổ hủ và bất công của chế độ phong kiến – nơi mà những ‘dân đen thấp cổ bé họng’
khơng có quyền, mà chỉ có nghĩa vụ. Những người như vậy, họ đã khơng được hưởng hạnh phúc
một giây phút nào – mà họa có đi chăng nữa – ấy cũng chỉ là phút giây ngắn ngủi tựa như khoảnh
khắc tàn canh. Chúng ta bị đặt vào vị thế của những người như thế, và xúc động trước khát vọng tột
cùng của họ – được sống bình đẳng, hạnh phúc và khơng phải chịu chia li.


</div>

<!--links-->
Tài liệu Phân tích đoạn trích Trong lòng mẹ để làm nổi bật cảm hứng nhân đạo và ký ức tuổi thơ gắn tình mẹ của nhà văn Nguyên Hồng ppt
  • 7
  • 4
  • 23
  • ×