Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

Tải Phân tích truyện Vợ nhặt - Dàn ý + 14 bài Phân tích tác phẩm Vợ nhặt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316 KB, 61 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Phân tích truyện Vợ nhặt - Ngữ văn 12</b>



<b>Dàn ý Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài mẫu 1</b>



<b>1. Mở bài</b>


Giới thiệu nhà văn Kim Lân và Vợ nhặt. (Kim Lân là nhà văn vô cùng thành công
khi viết về đề tài người nông dân nghèo. Một trong những tác phẩm nổi bật của
ơng chính là truyện ngắn Vợ nhặt).


<b>2. Thân bài</b>


<i><b>a. Nhân vật anh Tràng</b></i>
<i>• Lai lịch, ngoại hình</i>


Tràng là một gã trai nghèo khổ, dân cư ngụ, làm nghề đẩy xe bị th, ni mẹ già.
Tràng bị coi khinh, chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh
ta đi làm về.


Ngoại hình xấu xí, thơ kệch, hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên
quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng
nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn… Đầu cạo trọc nhẵn, cái lưng to
rộng như lưng gấu, ngay cả cái cười cũng lạ, cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh hệch.
<i>• Tính cách</i>


Tràng là người hầu như khơng biết tính tốn, khơng ý thức hết hồn cảnh của
mình. Anh ta thích chơi với trẻ con và chẳng khác chúng là mấy.


Tràng là người đàn ơng nhân hậu, phóng khống: ban đầu khơng chủ tâm tìm vợ.
Thấy người đàn bà đói, anh cho ăn. Khi thấy thị quyết theo mình thì Tràng vui vẻ
chấp nhận. Hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài


thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê… Anh còn mua 2 hào dầu thắp
sáng trong đêm đầu có vợ.


Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm: Anh ngoan ngỗn
với mẹ, tránh gợi niềm tủi hờn ở người khác. Từ một anh phu xe cục mịch, chỉ biết
việc trước mắt, sống vô tư, Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã
hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngồi đình vang lên vội vã,
dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ đến cảnh những người nghèo đói ầm ầm keo
nhau đi trên đê Sốp để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ to lắm.
<i>• Tổng kết</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật Tràng là anh phu xe cục mịch nhưng có một đời
sống tâm lý sống động với đầy đủ diện mạo, ngôn ngữ, hành động bằng ngòi bút
sắc sảo.


Qua nhận vật Tràng, nhà văn phản ánh mặt đen tối trong hiện thực xã hội trước
năm 1945 cùng số phận của người dân nghèo với vẻ đẹp tâm hồn của họ.


<i><b>b. Nhân vật cơ thị</b></i>


<i>• Hồn cảnh, ngoại hình:</i>


Một người đàn bà khơng tên, khơng tuổi, khơng q qn, gốc gác, khơng gia đình.
Khơng có một nhan sắc xinh đẹp, và cái đói khổ nó lại càng làm cho cái nhan sắc
xấu xí ấy thêm phần thảm hại: “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người ngợm “gầy xọp”,
“trên khn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ cịn thấy hai con mắt”, “cái ngực gầy lép nhô
lên” và “hai con mắt trũng hốy”.


<i>• Tính cách thị khi mới gặp Tràng:</i>



- Cách nói năng, hành động đanh đá chua ngoa:
Cong cớn, sưng sỉa, chỏng lỏn vì miếng ăn.


Khi nghe thấy anh Tràng đãi ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên”, điệu
dáng đon đả, đổi hẳn thái độ.


Cúi đầu ăn một chặp 4 bát bánh đúc không thèm chuyện trị gì, ăn xong thì lấy đơi
đũa quệt ngang miệng, thở “hà”. → Vô duyên, hành động táo bạo và bất chấp vì
miếng ăn.


→ Mọi hành động của Thị đều chỉ vì muốn được sống, khao khát được hạnh phúc,
được có một mái ấm, một tấm chồng để nương tựa những lúc khó khăn như này
dẫn đến hành động theo không Tràng về làm vợ.


→ Một hiện thực đau xót của xã hội lúc bấy giờ: giá trị con người dường như đã
xuống đến mức âm, thậm chí cịn khơng bằng cọng rơm cọng rác, để đến nỗi
những người làng trơng thấy Tràng dẫn vợ về họ cịn cho đó là “của nợ”.


<i>• Sau khi trở thành vợ Tràng:</i>
- Trên đường trở về nhà với Tràng:


Thị bỗng trở nên “e thẹn, rón rén”, đầu cúi xuống, cái nón tà nghiêng nghiêng che
nửa đi khuôn mặt đang ngại ngùng, đúng với dáng vẻ của một cô dâu khi bước về
nhà chồng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

- Khi đến nhà Tràng khung cảnh xác xơ, tiêu điều của một căn nhà tạm, khiến thị
thất vọng, nhưng thị không hề phàn nàn với Tràng.


Khi ra mắt mẹ chồng, thị đã rất phải phép mà chào bà cụ Tứ, dáng điệu khép nép,
ngại ngùng, thị đã lột xác trở thành một nàng dâu hiền lành, e ấp, khác hẳn với


dáng bộ của người đàn bà đanh đá, chua ngoa ở chợ tỉnh.


Sau đêm tân hôn, thị trở thành một người phụ nữ của gia đình, đảm đang tháo vát,
gánh lấy cái trách nhiệm thu xếp nhà cửa, đem đống quần áo rách ra sân hong,
gánh nước, quét sân, gom rác đem vứt, rồi dọn cơm,...


Khi đối diện với nồi cháo cám “đôi mắt thị tối lại” nhưng vẫn “điềm nhiên và vào
miệng” → Cách cư xử tinh tế, bộc lộ sự thấu hiểu và cảm thông.


Kể việc ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta khơng chịu đóng thuế mà đi phá kho
thóc của Nhật. → Bộc lộ những suy nghĩ và hướng nhìn mới của thị, người đàn bà
bà này không cam chịu cuộc đời đói kém và tìm kiếm một tương lai tươi sáng hơn.
<i><b>c. Nhân vật bà cụ Tứ</b></i>


<i>• Sự ngạc nhiên của cụ khi a Tràng dắt vợ về</i>


Khi làm về, thấy một người phụ nữ ngồi trong nhà mà còn thưa u. Bà cụ ngạc
nhiên vì con mình xấu xí, nghèo mà vẫn có vợ trong thời khó khăn.


Bà cụ vẫn khơng tin vào những gì con trai mình nói “Kìa nhà tơi nó chào u”…
“Nhà tơi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”


Bà vẫn không hiểu chuyện gì đang xảy ra
<i>• Tâm trạng vừa mừng vừa tủi của bà cụ</i>


Khi biết rằng con bà “ nhặt” được vợ: bà vui vì con đã an bề gia thất, buồn phận
làm mẹ mà không cưới nổi vợ cho con và bà nghĩ đến chồng, đến con gái lại càng
trở nên buồn hơn.


Cái tủi, cái buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo cùng quẫn: Bà không biết


lấy gì để cúng tổ tiên, để trình làng con đã có vợ. Bà khóc vì thương con khơng
biết làm sao vượt qua nổi khó khăn này.


<i>• Nỗi lo của bà cụ Tứ</i>


Bà lo cho con trai, con dâu, cái gia đình nhỏ của mình khơng biết phải qua những
ngày khó khăn này như thế nào. → Khuyên con, khuyên dâu thương nhau, cố gắng
vươn lên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Bà suy nghĩ vui trong những điều tốt đẹp tương lai “Rồi ra may mà ông giời cho
khá…”


Vui trong công việc sửa sang vườn tược, nhà cửa.
Vui trong bữa cơm đạm bạc đầu tiên có con dâu.


Bà vẫn ln tạo một khơng khí ấm cúng cho bữa ăn để con dâu đỡ tủi.


→ Người mẹ nghèo từng trải đời, hết mực yêu thương con, ln lạc quan trong
hồn cảnh khó khăn.


→ Là đại diện cho người mẹ Việt Nam cần mẫn, mộc mạc, giản dị, giàu tình yêu
thương và đức hi sinh


<i><b>d. Tình huống truyện</b></i>


Bối cảnh xây dựng tình huống truyện: Nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà kết quả
là hơn hai triệu người chết. Cái chết hiện hình trong tác phẩm tạo nên một khơng
khí ảm đạm, thê lương. Những người sống ln bị cái chết đe dọa.


Ngoại hình và gia cảnh của Tràng khiến anh khó lấy vợ: xấu xí, thơ kệch, ăn nói


cọc cằn, thơ lỗ. Nhà nghèo, đi làm th ni mình và mẹ già. →Tràng lấy vợ là lấy
cho mình thêm một tai họa.


- Tràng lấy vợ theo kiểu "nhặt" được: vài câu nói đùa, 4 bát bánh đúc là nên dun
vợ chồng mà khơng cần tìm hiểu, yêu đương và cưới hỏi. Việc Tràng lấy vợ là một
tình huống bất ngờ khiến cả xóm ngụ cư và bà cụ Tứ hết sức ngạc nhiên. Bản thân
Tràng có vợ rồi vẫn cịn " ngờ ngợ".


→ Tình huống truyện bất ngờ nhưng rất hợp lí vì nếu khơng phải năm đói khủng
khiếp thì người ta khơng thèm lấy một người như Tràng.


<i>• Giá trị hiện thực: tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói</i>
+ Cái đói dồn đuổi con người: người chết như ngả rạ…


+ Cái đói bóp méo cả nhân cách: theo khơng người ta về làm vợ.
+ Cái đói khiến cho hạnh phúc thật mỏng manh, tội nghiệp.


→ Vợ nhặt có sức tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân, phát xít.
<i>• Giá trị nhân đạo:</i>


Tình người cao đẹp thể hiện qua cách đối xử với nhau của các nhân vật: anh Tràng
đối với cô thị, bà cụ Tứ với người con dâu và giữa 3 người họ với nhau.


Tràng rất trân trọng người "vợ nhặt" của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Tình yêu thương con của bà cụ Tứ: Bà ln miệng nói về ngày mai với những dự
định thiết thực tạo niềm tin cho dâu con vào một cuộc sống tốt đẹp.


→ Dù cho cuộc sống có nghèo khổ, khắc nghiệt thế nào thì ở họ vẫn tràn ngập tình
yêu thương và hi vọng về một tương lai tốt đẹp, tươi sáng hơn. Cái đói có thể làm


họ nghèo nàn, xơ xác về thể chất nhưng tình cảm và tấm lịng nhân hậu, tình u
thương dành cho nhau thì khơng cái đói nào có thể làm lu mờ.


<b>3. Kết bài</b>


Vợ nhặt là một trong những tác phẩm vô cùng thành công của Kim Lân. Với
những giá trị, ý nghĩa, thông điệp sâu sắc của mình, tác phẩm đã gây nhiều dấu ấn
quan trọng trong lịng bạn đọc.


<b>Dàn ý Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài mẫu 2</b>



<b>I. Mở bài</b>


- Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về cảnh
nơng thơn, hình tượng người nơng dân lao động.


- Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí, là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân,
miêu tả tình trạng thê thảm của họ trong nạn đói năm 1945, nhưng cũng ngợi ca
bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ.


<b>II. Thân bài</b>
<i>1. Ý nghĩa nhan đề</i>


“Vợ nhặt”: nhặt được vợ, thể hiện sự rẻ rúng của thân phận con người và phản ánh
tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói.


<i>2. Tình huống truyện</i>


- Tình huống: Tràng - một người dân ngụ cư xấu xí bỗng dưng lại có vợ mà lại là
nhặt được, theo về khơng.



- Đây là một tình huống độc đáo, bất ngờ: với chính Tràng (hồn cảnh của Tràng
khó mà lấy được vợ nhưng nghiễm nhiên có vợ theo khơng về, tự ngờ ngờ mình đã
có vợ ư), với những người xung quanh (thắc mắc bàn tán), với bà cụ Tứ.


- Tình huống éo le: hồn cảnh gia đình và xã hội (khung cảnh nạn đói) khơng cho
phép Tràng lấy vợ, cả hai vợ chồng đều là những người cùng cực, khó có thể trở
thành chỗ dựa cho nhau.


<i>3. Nhân vật Tràng</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

a. Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ


- Lần gặp 1: lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ khơng có
tình ý gì với cơ gái đẩy xe cùng mình.


- Lần gặp 2:


+ Khi bị cơ gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù khơng dư dả
gì. Đó là hành động của người nơng dân hiền lành tốt bụng.


+ Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng
thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải quyết định của kẻ
bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc,
thương yêu người cùng cảnh ngộ.


+ Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng
trước quyết định lấy vợ.


b. Trên đường về



+ Vẻ mặt “có cái gì phơn phởn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy
vênh vênh tự đắc”, ... Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh diện.


+ Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.
c. Khi về đến nhà


+ Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay
của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.


+ Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vì
gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.


+ Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải
nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.


+ Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là
“phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng
thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.


d. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy


+ Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngơi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo, ...),
Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy mình
trưởng thành hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

- Nhận xét: Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt
đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái
đói.



<i>4. Nhân vật người vợ nhặt</i>
a. Lai lịch


- Khơng có q hương gia đình: có thể thấy nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao
con người bị dứt khỏi q hương, gia đình.


- Tên tuổi cũng khơng có và qua tên gọi “vợ nhặt”: thấy được sự rẻ rúng của con
người trong cảnh đói.


b. Chân dung


- Ngoại hình: quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ
còn hai con mắt.


- Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây chính là
sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.


- Lần thứ hai:


+ Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn, khi
được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”.
+ Khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ ... cùng về”, thị đã theo về thật bởi
trong cái đói khổ, đó là cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống.


- Nhận xét: Cái đói khổ khơng chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con
người. Người đọc vẫn cảm thơng sâu sắc với thị vì đó khơng phải là bản chất mà
do cái đói xơ đẩy.


c. Phẩm chất



- Có khát vọng sống mãnh liệt:


+ Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo khơng
về khơng cần sính lễ vì thị sẽ khơng phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.
+ Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”, thị
“nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.
- Thị là người ý tứ và nết na:


+ Trên đường về, thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, thị ngại
ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

+ Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách
bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.


+ Sáng hôm sau, thị dậy sớm qt tước nhà cửa, khơng cịn cái vẻ “chao chát,
chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.


+ Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng
thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không làm bà buồn.


- Nhận xét: Cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ khơng
vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.


- Thị cịn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái
Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hi vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.
- Nêu cả nhận chung về hình tượng người vợ nhặt sau khi phân tích.


<i>5. Nhân vật bà cụ Tứ</i>


- Giới thiệu nhân vật: dáng đi lọm khọm, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng


hắng, lẩm nhẩm tính tốn theo thói quen người già.


- Bà ngạc nhiên trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch, ngạc nhiên trước sự
xuất hiện của người đàn bà lạ.


- Bà hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhoà đi”: thương cho con trai phải lấy
vợ nhặt, mà trong cảnh đói khát mới lấy được vợ, thương cho người đàn bà khốn
khổ cùng đường mới phải lấy con trai bà.


- Bà đối xử tốt với nàng dâu mới: “Con ngồi đây ... đỡ mỏi chân”, nói về tương lai
với niềm lạc quan, bảo ban các con làm ăn, ...


- Nhận xét: bà cụ Tứ là người mẹ hiền từ, chất phác, nhân hậu.
<b>III. Kết bài</b>


- Khái quát giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật vào tình huống éo le,
độc đáo để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách; miêu tả tâm lí nhân vật, ngơn ngữ
bình dị, gần gũi.


- Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh
người nơng dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức
sống mãnh liệt của họ.


<b>Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài số 1</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

sáng tác từ năm 1941. Một số truyện ngắn của ông lấy đề tài ở cuộc sống lam lũ
của người nông dân hoặc các sinh hoạt văn hóa truyền thống ở thơn q.


Sau Cách mạng tháng Tám, ông chuyên viết truyện ngắn về làng quê, mảng hiện
thực mà ông hiểu biết sâu sắc. Theo Nguyên Hồng thì Kim Lân là nhà văn một


lịng đi về với đất, với người, với những gì thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống
nơng thơn. Tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955), Con chó
xấu xí (tập truyện ngắn, 1962). Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân,
được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 bùng nổ nhưng đến sau hịa
bình lập lại 1954 mới cho ra mắt bạn đọc trong tập Con chó xấu xí.


Truyện Vợ nhặt kể về cuộc sống ngột ngạt, bức bối của nhân dân ta trong thời gian
xảy ra nạn đói khủng khiếp đã làm chết hơn hai triệu người. Đấy là hậu quả chính
sách cai trị dã man của thực dân Pháp trong mấy mươi năm và chủ trương tàn bạo
“nhổ lúa trồng đay” của phát xít Nhật. Cũng như một số tác phẩm khác viết về nạn
đói, ngịi bút Kim Lân chứa chan thương cảm trước những số phận bất hạnh.
Thông qua truyện, tác giả tố cáo tội ác dã man của thực dân Pháp, phát xít Nhật;
đồng thời phản ánh khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và niềm tin vào tương lai
tươi sáng của người dân lao động.


Tóm tắt nội dung như sau: Anh Tràng nghèo khổ, xấu xí, chỉ với vài câu bông đùa
và mấy bát bánh đúc mà nhặt được cô vợ đang sống dỡ chết dở vì đói. Họ thành vợ
thành chồng giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát. Đêm tân hơn diễn ra âm thầm
trong bóng tối lạnh lẽo, điểm những tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người
chết đói theo gió vẳng lại. Bữa cơm cưới


chỉ có rau chuối, cháo lỗng và muối Mẹ chồng đãi nàng dâu và con trai món chè
nấu bằng cám. Câu chuyện của ba mẹ con xoay sang việc Việt Minh tổ chức phá
kho thóc của Nhật chia cho dân nghèo. Trong óc Tràng hiện lên hình ảnh của đám
người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…


Nhan đề Vợ nhặt đã thu hút sự chú ý của người đọc ngay từ đầu. Vợ nhặt là vợ
theo không, chẳng cưới xin gì. Tựa đề khá lạ của truyện đã nói lên đầy đủ về cảnh
ngộ, số phận của nhân vật. Chuyện anh Tràng bỗng dưng nhặt được vợ phản ánh
tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nơng dân nghèo trong nạn đói


khủng khiếp xảy ra vào mùa xuân năm 1945.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

cũng sửng sốt vì khơng ngờ con trai mình đã có vợ. Thậm chí chính Tràng cũng
chẳng hiểu tại sao mình lại có vợ dễ dàng đến thế.


Nguyên nhân sâu xa là do nạn đói khủng khiếp đang xơ đẩy cịn người vào chỗ
chết nên người đàn bà kia mới phải chấp nhận làm vợ Tràng. Ý nghĩa tố cáo của
tác phẩm tuy kín đáo nhưng sâu sắc. Tác giả khơng trực tiếp nói đến tội ác của bọn
đế quốc, phong kiến, vậy mà tội ác của chúng cứ phơi bày ra một cách đáng ghê
tởm và tình cảnh cớ cực, đói khát của dân nghèo quả là thê thảm.


Tình huống lạ lùng nói trên là đầu mối cho sự phát triển của nội dung truyện, tác
động đến diễn biến tâm trạng và hành động của các nhân vật. Bối cảnh lớn của
truyện là nạn đói năm 1945, bối cảnh nhỏ là cái xóm ngụ cư tồi tàn ven chợ. Mở
đầu tác phẩm, tác giả đã vẽ nên bức tranh hiện thực với màu sắc ảm đạm và hình
ảnh thê lương.


Cách đây khơng lâu, mỗi chiều Tràng đi làm về, đám trẻ con lại bu theo anh, đứa
túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi…
Cái xóm ngụ cư tồi tàn ấy mỗi chiều lại xơn xao lên được một lúc. Nhưng bây giờ
thì niềm vui nhỏ nhoi ấy khơng cịn nữa: trẻ con khơng đứa nào buồn ra đón
Tràng… Chúng nó ngồi ủ rũ dưới những xó đường, khơng buồn nhúc nhích… Nụ
cười dễ dãi mọi ngày của Tràng cũng tắt: Trong bóng chiều nhá nhem, Tràng đi
từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn
chúi về phía trước. Hình như những lo lắng chật vật trong một ngày đè xuống cái
lưng to rộng như lưng gấu của hắn… Đâu đâu cũng thấy cảnh: Những gia đình từ
những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh
xám như những bóng ma, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ.
Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái
thây nằm cịng queo bên đường. Khơng khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và


mùi gây của xác người.


Quả là một cảnh tượng khủng khiếp! Thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn
đói chưa từng thấy từ trước đến nay, khiến hàng triệu người chết đói. Khắp nơi,
đâu đâu cũng bao phủ bởi một màu địa ngục.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Tràng gặp người đàn bà ấy tất cả chỉ có hai lần vào những dịp chở thóc lên tỉnh.
Lần thứ nhất, hai bên chỉ đùa bỡn dông dài vài câu rồi thôi. Lần sau gặp tại, Tràng
không nhận ra vì chị ta thay đổi nhiều quá. Chị ta nhắc mãi anh mới nhớ ra và toét
miệng cười xin lỗi rồi mời ăn trầu. Chị ta sỗ sàng gợi ý: Có ăn gì thì ăn, chả ăn
giầu. Anh vui vẻ đãi chị một bữa bánh đúc (thứ quà của người nghèo) no nê. Thấy
chị cắm cúi ăn như chưa bao giờ được ăn, Tràng động lòng thương, liền bảo: Này
nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.


Câu nói của Tràng nửa đùa nửa thật. Đùa ở chỗ bỡn cợt cho vui, nhưng thật ở chỗ
trong thâm tâm, Tràng cũng đang muốn có vợ. Khốn nỗi vì anh nghèo q nên
khơng ai chịu lấy. Thời ấy, đứng tuổi như Tràng mà chưa có vợ là khơng bình
thường, là bất hạnh. Câu nói của anh vừa tếu táo vừa đượm vẻ chua chát: Làm
đếch gì có vợ…


Đã từ lâu, anh ao ước có được một người vợ, nhưng chí ít cũng phải là người bình
thường, khỏe mạnh chứ đâu phải là loại chết đói chết khát, dở người dở ma kia?
Tràng nói đùa không ngờ chị ta theo về thật khiến anh chợn, nghĩ: Thóc gạo này
đến cái thân mình cũng chả biết có ni nổi khơng, lại cịn đèo bịng. Nghĩ rồi lo,
nhưng anh tặc lưỡi: Chậc, kệ! Có lẽ anh cho rằng mình đang mạnh chân khỏe tay,
lại có cơng ăn việc làm, nên dẫu đèo bịng thì cũng chưa đến nỗi chết đói ngay đâu
mà sợ. Vả lại, anh nỡ lịng nào bỏ người đàn bà kia chết đói cho đành?


Chẳng cịn là chuyện đùa bỡn nữa. Khơng chỉ đơn giản là cứu người mà còn may
mắn tự nhiên có được vợ nên Tràng phải nghiêm túc và có trách nhiệm. Anh đưa


chị ta vào chợ tỉnh, đãi thêm một bữa thật no, sắm cho cái thúng đựng mấy thứ lặt
vặt rồi dẫn về nhà. Trong lòng Tràng giờ đây khơng chỉ có tình thương mà cịn có
niềm vui sướng, háo hức.


Mấy lần Tràng định nói với thị một vài câu cho tình tứ mà chẳng biết nói thế nào.
Cái phút ban đầu bao giờ chả thế. Đùa thì tự nhiên. Nửa đùa nửa thật đã khó. Nay
đã là thật rồi, khó biết mấy! Mà mọi chuyện có bình thường, êm đẹp cả đâu? Tràng
lúng túng là phải.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Tràng dẫn người đàn bà về nhà lúc trời nhập nhoạng tối. Họ đi vào cái ngã tư xóm
chợ… xác xơ, heo bút., Hai bên dãy phố, úp súp, tối om, khơng nhà nào có ánh
đèn, lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại
lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên
từng hồi thê thiết…


Bức tranh ngập tràn tử khí. Ảm đạm cảnh, ảm đạm người, nhà cửa, xác xơ, heo
hút, úp súp, tối om… chẳng khác chi những nấm mồ hoang lạnh. Sự sống chỉ cịn
thoi thóp. Cái chết đã đến, đang đến. Lại thêm tiếng quạ cứ gào lên từng hồi bởi
chúng đã đánh hơi thấy mùi xác chết. Tất cả cảnh vật đểu đang lâm vào thế lụi tàn,
tan rữa. Giọng văn của Kim Lân ở đoạn này rất tỉnh táo, khách quan nhưng dồn
nén cảm xúc đau thương nên gây ấn tượng mạnh.


Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy
Tràng về với một người đàn bà nữa. Tràng dẫn người đàn bà này về làm vợ, để xây
dựng gia đình, sinh con đẻ cái tiếp nối sự sống. Trên bờ vực thẳm của cái chết, họ
tìm đến sự sống. Giọng kể của tác giả chợt trở nên hóm hỉnh: Mặt hắn có một vẻ gì
phởn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp
lánh. Tràng vui sướng trước sự kiện to lớn bất ngờ của đời mình: anh đã kiếm được
vợ, anh đang dẫn vợ về nhà. Đói, chết tràn lan, mình cũng đói, mẹ già cũng đói, thế
mà lại tự nhiên có vợ. Chuyện lạ lùng mà thú vị!



Lạ lùng với Tràng và lạ lùng cả với cái xóm ngụ cư tồi tàn, nhỏ bé này. Cái cảnh
Tràng đi trước, người đàn bà đi sau cách ba bốn bước với cái dáng rón rén, e thẹn,
đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt… làm
cho mọi người tò mò đổ ra xem. Lũ trẻ con thấy lạ trước. Cải lạ lùng đã thắng cái
đói, trả lại tính vui đùa hồn nhiên vốn có của chúng. Một đứa đột ngột gào lên:
Anh Tràng ơi! Chông vợ hài! khiến Tràng phải bật cười chửi u: Bố ranh! mà
trong bụng thì khối lắm. Tiếp theo trẻ là bà con xóm chợ ai cũng thấy lạ. Họ bàn
tán… Họ hiểu đôi phần, khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rõ hẳn lên. Từ trong sâu
thẳm tâm hồn họ vẫn le lói một niềm vui.


Họ thú vị nghĩ tới chuyện Tràng có vợ. Họ muốn chia vui cùng anh. Cái xóm ngụ
cư đang hấp hối này bỗng bừng lên một thoáng sống.


Vui đấy nhưng lo ngay đấy. Người ta lo thay cho Tràng: ôi chao! Giời đất này cịn
rước cái của nợ đời về. Biết có ni nổi nhau sống qua được cái thì này khơng? Ấy
là họ lo cho cái sự sống đang phải đối mặt từng ngày với cái chết và cứ hi vọng
vượt lên cái chết.


Hai người về đến nhà Tràng. Cái tổ ấm của họ ra sao trong đêm tân hôn? Sự sống
được tiếp nối như thế nào?


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

chợt có cảm giác sờ sợ người đàn bà ngồi bất động ở đầu giường như một bóng
ma… Có cái gì đó kì dị như trong truyện ma quỷ thời xưa.


Đến đêm, cảnh tượng lại càng lạ lùng hơn nữa. Tràng chỉ dám thắp đèn có một lúc.
Hai vợ chồng nằm bên nhau, đành giấu những gì n và vui vào bóng tối. Nhưng
bóng tối cũng không yên mà hãi hùng, đáng sợ bởi đầy tiếng hờ khóc tỉ tê… vẳng
ra từ những nhà có người chết đói.



Lấy vợ lấy chồng là việc lớn một đời, là hạnh phúc trăm năm. Ấy thế mà ở đây,
chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong manh của hai người lại bị bủa vây bởi cái đói và
cái chết. Buổi chiều là tiếng quạ kêu, là bóng người dật dờ như bóng ma, ban đêm
là tiếng hờ khóc người chết… Nhưng sự sống là bất diệt. Từ trong cái chết, sự sống
vẫn sinh sôi nảy nở. Bi thương cùng cực thành dữ dội. Có cái gì đó giống như một
cảnh trong bi kịch của sếch-xpia hay trong tiểu thuyết Đô-xtôi-ép-xki: dữ dội, kinh
khủng nhưng thật sâu sắc, lớn lao.. Sự sống cứ tồn tại, bất chấp cái chết. Rõ ràng, ý
chí con người và quy luật cuộc đời mạnh mẽ biết là chừng nào!


Sau một đêm, Tràng thấy mình hồn tồn đổi khác: Sáng hơm sau, mặt trời lên
bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong
giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hơm nay hắn vẫn cịn ngỡ ngàng như khơng
phải… Mình đã có vợ thật rồi sao? Ai vậy? Cưới bao giờ nhỉ? Không lẽ mong ước
bao lâu mà nay đã thành sự thật một cách dễ dàng, chóng vánh đến thế ư? Chuyện
xảy ra cứ như trong mơ, thật khó tin, nhưng cái cảm giác êm ái lửng lơ lạ lùng
chưa từng thấy vẫn đang tồn tại trong người và rõ ràng trước mắt, người đàn bà
bằng xương bằng thịt kia là vợ anh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

hạnh phúc gia đình và niềm tin le lói của người dân lao động vào tương lai là rất
đáng trân trọng.


Bên cạnh Tràng, người vợ nhặt cũng là một nhân vật trung tâm của truyện. Người
đàn bà ấy không có đến một cái tên để gọi. Khơng tên, khơng tuổi, cả đến đặc điểm
nhận dạng công không nốt. Chẳng ai biết gốc tích của chị ở đâu? Cha mẹ là ai?
Nhà cửa, anh em thế nào? Tất cả đều không. Chỉ biết là ngày ngày, chị ngồi lẫn
trong đám con gái trước cửa kho thóc để nhặt nhạnh hạt rơi hạt vãi hay chờ ai có
việc gì th mướn thì làm.


Hình thức của chị ta cũng giống như bao kẻ đói khát khác: Áo quần tả tơi như tổ
đỉa… trên cái khn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ cịn thấy hai con mắt… Chị ta là một


trong hàng triệu con người bần cùng, đói rách, tha phương cầu thực, lang thang vất
vưởng kiếm ăn và sẽ chết gục nơi đầu đường xó chợ bất cứ lúc nào.


Việc chị ta trở thành vợ Tràng giống như một trò đùa, là chuyện tầm phơ tầm phào
đâu có hai bận, ấy thế mà thành vợ thành chồng.


Xưa nay, hôn nhân là đại sự. Con gái lấy chồng, giàu nghèo gì cũng phải cố cưới
xin tử tế. Giàu thì làm lớn, mời họ mời làng. Nghèo đến mấy cũng phải có mâm
cơm trình tổ tiên, ông bà rồi mới nhận vợ, nhận chồng.


Vợ thì cung năm bảy loại. Có loại q hóa như cơ tiểu thư con quan trong Lí ngựa
ơ, đem lại danh giá, sang trọng cho chồng. Có loại vợ phải tốn bao công sức, tiền
của mới cưới được… Tủi nhục thay cho những ai mang tiếng là vợ theo (theo
không, chẳng cưới hỏi gì). Xã hội, gia đình khơng chấp nhận những cuộc hôn nhân
như vậy. Tủi hơn nữa, người đàn bà trong truyện lại là vợ nhặt – Tràng tình cờ nhặt
được chị như nhặt được một vật gì đó rơi trên đường.


Lần đầu, chị quen Tràng bởi câu hò chơi cho đỡ nhọc của anh và những lời trêu
ghẹo của bạn bè. Chị lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, đùa bỡn với anh và liếc
mắt, cười tít. Chuyện đùa giỡn chì có vậy nên người đàn bà này khơng để lại dấu
ấn gì trong trí nhớ của Tràng. Vì thế, gặp lần thứ hai, anh khơng nhận ra chị ta bởi:
Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi… gầy sọp hẳn đi…


Chị ta đói. Đói lắm! Cái đói cào cấu ruột gan. Chị ta sỗ sàng gợi ý để Tràng mời ăn
và ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc. Cắm đầu mà ăn, chẳng chuyện trị gì mải mê
như chưa từng được ăn bao giờ. Quên cả giữ kẽ, quên cả thẹn thùng. Quả là cái đói
đã đẩy lùi sĩ diện, đẩy lùi nhân cách.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

ngượng ngùng khi thấy mọi người trong xóm ngụ cư nhìn mình bằng ánh mắt tị
mị.



Chị ta chấp nhận theo không một gã đàn ông xa lạ, xấu xí chỉ là để có một nơi
nương tựa cho khỏi chết đói. Lâm vào tình cành éo le ấy, chị ta vừa ngượng ngùng
vừa tủi phận. Lúc gặp bà cụ Tứ, chị e sợ, khép nép, chẳng biết nói năng, chào hịi
thế nào cho phải.


Một người đàn ơng mới quen đơi lần, nay hào phóng cho ăn một bữa no, ngồi ra
khơng biết tính tình ra sao, gia cảnh thế nào, chỉ nghe nói là chưa có vợ (biết là thật
hay giả), vậy mà đi theo một cách dễ dàng, khơng đắn đo, sợ hãi. Có liều lĩnh
chăng? Nhẹ dạ chăng? Mặc kệ! Theo anh ta để được ăn, được sống cái đã, vợ
chồng là chuyện lâu dài, biết đâu mà tính trước. Khỏi đói, Khỏi chết lúc này là
quan trọng nhất. Mọi cái khác thứ yếu tất. Thế mới biết cái đói ghê gớm, kinh
khủng biết chừng nào!


Vào nhà Tràng, chị cứ ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt
bần thần. Anh Tràng mời chị ngồi cơ mà? Sao chị không dám ngồi cho ngay ngắn,
đàng hồng? Mẹ anh chưa về, có ai đâu mà giữ lễ? Hóa ra cái dáng ngồi rụt rè,
chơng chênh ấy kì thực cũng là cái thế của lịng chị, đời chị. Liệu chỗ ngồi này có
phải là chỗ của chị khơng? Mái nhà này có phải là nơi để chị dung thân khơng? Chị
bần thần vì ngỡ như mọi chuyện vừa xảy ra không phải là thực. Làm vợ, làm dâu
mà đến thế này ư? Lấy chồng, cái hạnh phúc lớn nhất của đời con gái ấy, chị có
được hưởng chút nào đâu? Buồn lắm! Tủi lắm! Trăm mối ngổn ngang. Chị khơng
nói được nên lời, bởi cất tiếng, chắc chị sẽ khóc. Nỗi đau khơng trào ra theo nước
mắt mà lặn vào trong nên càng đau, càng tủi.


Ấy thế nhưng chỉ sau một đêm làm vợ Tràng, chị hóa ra khác hẳn: Tràng nom thị
hơm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực khơng cịn vẻ gì
chạo chát như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh… Hoàn cảnh sống nghiệt ngã biến
chị ta có lúc thành kẻ trâng tráo, nhưng bản chất thì khơng phải như vậy. Nếu hơm
qua, cái đói làm mất đi những gì tốt đẹp ở chị thì hơm nay, chị bắt đầu có ý thức


vun vén cho tổ ấm của mình. Chị quét dọn sân nhà sạch sẽ, gánh nước đổ đầy
ang… Có bàn tay săn sóc của chị, túp lều rách nát, tăm tối của mẹ con Tràng bỗng
trở nên sáng sủa, gọn ghẽ hẳn ra. Sự sống đã trở về với người, với cảnh. Cho đến
lúc này, chị mới có cảm giác chuyện làm vợ của mình là thật. Cái hạnh phúc đơn
sơ mà đầm ấm ấy đã đem đến một sự đổi thay thật sự trong hình dáng và tính cách
của người đàn bà, khiến cho Tràng phải ngạc nhiên, bỡ ngỡ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

đốn định… Mãi đến lúc Tràng bảo: Kìa nhà tơi nó chào u… thì bà mới vỡ lẽ. Bà
lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lịng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết
bao nhiêu cơ sự, vừa ai ốn vừa xót thương cho số kiếp con mình… Ra thế! Thằng
con mình nó đã kiếm được vợ, nhưng…


Bà tủi thân tủi phận là cha mẹ mà không làm tròn bổn phận đối với con cái. Trăm
sự cũng tại cái nghèo mà ra: Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc
trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Cịn mình
thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt… Bà lọ lắng
thực sự: Biết rằng chúng nó có ni nổi nhau sống qua được cơn đói khát này
khơng. Nhưng rồi ngẫm đến thân phận nghèo khó của hai mẹ con, bà lại tự an ủi:
Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà
con mình mới có vợ được… Nghĩ thế nên bà vui lịng chấp nhận nàng dâu mới. Bà
cư xử vói chị dịu dàng, âu yếm gọi chị là con, xưng u và bà lão nhìn người đàn bà,
lịng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi…


Với tâm lí của một người mẹ, bà ao ước có được dăm ba mâm trước cúng tổ tiên
ông bà, sau mời làng mời xóm. Nhưng ao ước ấy khơng thể thực hiện được vì bà
nghèo quá. Bà rất biết trước biết sau, song cái khó bó cái khơn, bà đành chịu. Bà
chỉ biết nói với các con những lời khuyên nhủ chân tình cốt làm sao cho chúng
mày hịa thuận là u mừng rồi… Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá.


Con trai tự dưng có được vợ, bà lão mừng lắm: Bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày


thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn,
quét tước nhà cửa… Bà không vui sao được khi con trai bà đã thành gia thất?! Bà
cũng vơi đi một mối lo âu bấy lâu nay cứ canh cánh bên lòng. Trong bữa ăn đầu
tiên của ba mẹ con, dẫu chỉ có cháo lỗng với muối hột nhưng bà tồn nói chuyện
vui, toàn chuyện sung sướng về sau này :


– Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đơi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm
cái chuồng gà thì tiện quá. Này, ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà
cho mà xem…


Ở người đàn bà già nua, nghèo khổ này chứa đựng những nét đạo lí cổ truyền của
dân tộc. Bà cố gắng xua đi cái ám ảnh đen tối đáng sợ của thực tại, nhen nhúm
niềm tin, niềm vui sống cho các con. Trong cái thân hình khẳng khiu, tàn tạ vì đói
khát ấy vẫn nung nấu một ý chí mãnh liệt: Bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ
bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mọt
cơm, cầm cái muôi vừa khuấy khuấy vừa cười:


- Chè đây… Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Bà lão “đãi” nàng dâu mới món ăn đặc biệt mà bà gọi là chè, nấu bằng cám. Bà
khen ngon đáo để và so sánh: Xóm ta khối nhà cịn chả có cám mà ăn đấy. (Vậy có
cám mà ăn như thế này là cịn may lắm!) Chao ơi là khổ! Phải đói đến mức nào thì
mới ăn cám thấy ngon? Cuộc sống khắc nghiệt đày đọa con người, bắt họ phải
sống cuộc sống của loài vật, song nó khơng dập tắt được phần người, rất người
trong lòng bà mẹ khốn khổ kia. Bà cố đổi buồn thành vui. Bà cố tươi cười, đon đả
cho bữa cơm đỡ phần thê thảm, còn tác giả và chúng ta thì khóc. Khóc vì thương,
vì q tấm chân tình của bà.


Sống giữa cái chết ngày càng che phủ bóng đen gớm ghiếc của nó vào mọi gia
đình, vậy mà những người nghèo khổ như mẹ con Tràng vẫn tin vào cuộc sống,


vào tương lai: Ai giàu ba họ, ai khó ba đời. Bà cụ Tứ cứ tin vu vơ như thế. Vì
miếng cơm manh áo, họ buộc phải vượt lên mọi gian nan, khổ ải để sống nên mới
có được niềm tin dai dẳng và kì diệu ấy.


Ba mẹ con Tràng đã tìm thấy niềm vui trong sự nương tựa, cưu mang lẫn nhau mà
sống. Tình vợ chồng, mẹ con sẽ là động lực giúp họ tăng sức mạnh vượt qua giai
đoạn ngặt nghèo trước mắt. Tình cảm ấy rất cần nhưng chưa đủ để đảm bảo cho ba
người một tương lai tốt đẹp hơn. Hiện tại, cuộc sống vẫn một màu xám xịt, đầy đe
dọa và chết chóc: Ngồi đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ
trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hốt hoảng bay vù lên, lượn thành
từng đám bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen…


Cái tài của tác giả là cứ nhẹ nhàng như khơng mà luồn lách ngịi bút động đến tận
nơi sâu thẳm của tâm hồn, bắt người ta phải cười, phải khóc, phải sống với nhân
vật của mình.


Trong suốt truyện, tác giả không một lần trực tiếp nhắc đến thực dân Pháp, phát xít
Nhật và bè lũ phong kiến tay sai nhưng tội ác của chúng vẫn hiển hiện, phơi bày
trên từng trang viết và được gói gọn trong câu nói đầy phẫn uất của bà mẹ già:
Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời
đất này khơng chắc đã sống qua được đâu các con ạ… Người con dâu nhắc chuyện
trên mạn ngược, Việt Minh phát động dân chúng khơng đóng thuế, lại cịn tổ chức
phá kho thóc của Nhật chia cho người nghèo… Điều ấy gợi cho Tràng nhớ tới cảnh
những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đơ Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ…
và tâm trí anh bị cuốn hút mãi bởi hình ảnh ấy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Truyện Vợ nhặt tiêu biểu cho phong cách viết độc đáo của nhà văn Kim Lân. Cốt
truyện đơn giản nhưng chặt chẽ. Trong truyện, người và cảnh đan xen, tương phản
với nhau. Bản chất đẹp đẽ bên trong tương phản với vẻ xấu xí bên ngồi, sự sống
tương phản với cái chết… Tất cả đều nhằm mục đích làm nổi bật chủ đề của


truyện.


Tác giả không miêu tả kĩ hiện thực tàn khốc lúc bấy giờ mà chú trọng đến việc thể
hiện vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu trong cái bề ngồi xác xơ vì đói khát của những
người nghèo khổ. Viết truyện này, tác giả bày tỏ thiện cảm sâu sắc đối với họ. Ơng
khẳng định sự đói khát, khơng tiêu diệt được bản tính tốt đẹp của con người, hiện
thực tăm tối không giết chết nổi niềm tin vào cuộc sống. Trong hoàn cảnh cơ cực,
đọa đày, họ vẫn nhen nhóm niềm tin, vẫn hi vọng vào sự đổi đời và một tương lai
tốt đẹp. Truyện gây ấn tượng mạnh với người đọc bởi tính chất nhân văn cao cả,
bởi ngôn ngữ mộc mạc, sinh động và giàu sức gợi tả. Tấm lòng của tác giả gửi gắm
trong truyện đáng quý biết chừng nào!


<b>Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài số 2</b>



Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc và
những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào lòng
người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Tác
phẩm “Vợ nhặt” là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện thành
công xã hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người nông dân. Bằng bút pháp tả
thực Kim Lân đã xây dựng thành công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc sống bần
cùng giai đoạn đó.


Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào
nạn đói năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nham nhảm,
“người chết như nga ra, không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng
khơng gặp ba bốn cái thây nằm cịng queo bên đường. Khơng khí vấn lên mùi ẩm
thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn tả
được cái đói đang hồnh hành, đời sống nhân dân thê thảm.


Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống


của những điều khốn khổ, bần hàn nhất. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình huống
truyện thắt nút làm nên cuộc đời của từng nhân vật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

tái hiện “hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái ao nâu tàng vắt sang một bên cánh
tay. Hình như những lo lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”.


Với vài chi tiết tiêu biểu, Kim Lân đã vé lên trước mặt người đọc hình ảnh người
nơng dân nghèo đói, xơ xác, bộn bề lo lâu đến cùng cực.


Tác giả đã thật khéo để xây dựng nên tình huống truyện độc đáo, mới lạ, làm thay
đổi cuộc đời của một con người. Tình huống Tràng “nhặt” được vợ. Là “nhặt”
được chứ không phải lấy được. Người đọc nhận ra sự thê thảm, bước đường cùng
và đầy éo léo của con người trong xã hội bấy giờ.


Hình anh vợ anh cu Tràng dần dần hiện ra dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn đầy
ám ảnh “ thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng
nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”. Một người đàn bà nghèo
khổ, khơng cịn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng
là một đôi trời sinh.


Giữa cái đưa vợ “nhặt” được về nhà, Kim Lân đã xây dựng nên khung cảnh đìu
hiu, ảm đảm của xóm nghèo “từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai
bên dãy phố, úp sụp, tối om, khơng nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới gốc đa, gốc gạo
xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ
kêu trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Khơng cịn gì
thê thảm và hiu hắt hơn khung cảnh chiều tàn nơi xóm nghèo như vậy. Mọi thứ
dường như bị cái đói, cài nghèo đè nén đếm chìm nghỉm. Bằng ngịi bút tả thực
sinh động, Kim Lân đã gieo vào lịng người đọc nhiều chua xót, đắng cay cho
những phận nghèo long đong.



Điều đáng chú ý chính là cách những người hàng xóm hỏi thăm Tràng về người
đàn bà đi bên cạnh tràng. Thực ra thấy lạ nên người ta mới hỏi, thì cũng hiểu ra, có
lẽ là vợ Tràng, “nhìn chị ta thèn thẹn hay đáo để”. Người đàn bà bắt khơng cịn
chua ngoa, đanh đá nữa mà trở nên thẹn thùng khi quyết định theo Tràng về làm
vợ.


Làm vợ một cách bất ngờ, giữa cảnh đói như ngả rạ. Có lẽ cái nghèo đói đã đẩy hai
con người đến với nhau, khơng phải tình u nhưng là tình thương. Hẳn người đọc
sẽ cảm thơng và xót thương cho những mảnh đời dật dờ nơi xóm ngụ cư.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

nghĩ chua xót của bà lão được Kim Lân diễn tả qua một loạt động từ tình thái khiến
cho cái khổ, cái đói lại vồ vập và hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết.


Bà đã chấp nhận người “vợ nhặt” của con trai. Tình huống khiến người đọc nhớ
mãi, hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là hình
ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu dầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo
cám” là hiện thân của cái đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình “khơng cịn
gì giá trị nữa”. Bà cụ Tứ hơm nay thay đổi tâm trạng, tồn nói những chuyện vui
trong nhà, vì bà muốn mang lại khơng khí vui tươi hơn giữa cái nghèo. Hình ảnh
“nồi cháo cám” hiện lên bình dị, đầy chua xót và nước mắt của người mẹ nghèo.
Ai cũng muốn có một bữa cơm đón dâu có mâm cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu
nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương
bà có thể mang lại cho con.


Đây là một chi tiết vô cùng đắt giá trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
khiến người đọc nhớ mãi. Bên cạnh đó hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện của
cuối truyện ngắn đã mang đến chút niềm tin và hi vọng về một tương lai tươi sáng
hơn.


Bằng ngòi bút miêu tả chân thực, sinh động, cách khắc họa tâm lý nhân vật sắc sảo,


độc đáo và cốt truyện đầy bất ngờ Kim Lân đã vẽ lại trước mắt người đọc khung
cảnh đói nghèo tràn lan của xã hội Việt Nam những năm 1945. Qua đó tác giả cũng
nhấn mạnh tình u thương giữa người với người ln bất diệt.


<b>Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài số 3</b>



Kim Lân một trong những nhà văn viết truyện ngắn từ năm 1941. Sáng tác của ông
tập trung phản ánh bức tranh của nơng thơn Việt Nam và hình tượng người nơng
dân. Dưới nòi bút tài hoa của Kim Lân, bức tranh hiện thực của nông thôn Việt
Nam cũng như nỗi niềm, cuộc sống, cảnh ngộ và khát vọng của người nông dân
được thể hiện chân thực và sinh động. “Vợ Nhặt” là một trong những tác phẩm
thành công của Kim Lân với cốt truyện độc đáo cùng với lối dẫn chuyện hóm hỉnh
hấp dẫn người đọc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

của tiếng hờn khóc tỉ tê và cả tiếng trống thúc thuế mỗi lúc một dồn dập hơn. Chỉ
vậy thôi mà nhà văn như tô lại hiện thực tố cáo sự tàn ác của bọn phát xít, đế quốc
thực dân với những chính sách vô cùng hà khắc, rẻ rúng mạng sống của con người.
Trong cái khơng gian ấy, hình ảnh con người được khắc họa lại khiến người đọc
khơng khỏi bàng hồng về cái đói năm 1945 ấy. Sử dụng những câu văn dài nhiều
vế, kết hợp với biện pháp liệt kê Kim Lân đặc tả hình ảnh người đó “bồng bế, dắt
díu nhau như những bóng ma, nằm ngổn ngang khắp lều chợ…”. Những người
sống đang lay lắt, dật dờ, sống một cuộc sống không phải cuộc sống của con
người. Người chết thì “như ngả rạ” và cái chết trở thành nỗi ám ảnh, đau đớn và
nhức nhối của biết bao con người. Có lẽ, chính vì thế mà nó thơi thúc Kim Lân
phản ánh lại bằng những trang văn đầy ám ảnh như vậy.


<b>Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài số 4</b>



Kim Lân, nhà văn chuyên viết truyện ngắn, với biệt tài viết về người nông dân.
Người nông dân trong trang viết của Kim Lân dù nghèo khổ nhưng luôn sáng ngời


những phẩm chất: yêu đời, thật thà, chất phác, hóm hỉnh, tài hoa. Vợ nhặt là một
trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông khi viết về người nông dân.


Tác phẩm là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất nằm trong tập truyện “Con
chó xấu xí” (1962). Tác phẩm này trước vốn là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” – được
viết ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công. Tuy nhiên chỉ được viết dở
dang và sau đó mất bản thảo. Đến năm 1954, khi hịa bình lập lại, nhân một số báo
văn nghệ kỉ niệm cách mạng tháng Tám thành công, Kim Lân đã nhớ lại tiểu
thuyết “Xóm ngụ cư”, dựa trên cốt truyện cũ viết lại thành truyện ngắn. Ngay từ
khi ra đời, tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn trong giới sáng tác.


Tác phẩm lấy bối cảnh là nạn đói năm Ất Dậu 1945, năm diễn ra nạn đói khủng
khiếp, khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Cái đói tràn lan, khủng khiếp diễn
ra ở khắp nơi khiến con người không thể nào chống cự được, tất cả những yếu tố
đó đã được Kim Lân tái hiện thành công trong tác phẩm của ông.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

Sau khi vẽ nên khung hình chung của nạn đói, nhân vật đầu tiên trong thiên truyện
xuất hiện, đồng thời cũng là nhân vật trung tâm của tác phẩm – anh cu Tràng.
Tràng vốn là dân ngụ cư, sống tha phương cầu thực, những người dân ngụ cư
thường bị phân biệt, kì thị, sống ở rìa làng, chứ khơng được sống trong trung tâm
của làng như những người khác. Khơng chỉ vậy, họ cịn khơng được chia ruộng
đất, không được tham gia bất cứ hoạt động sinh hoạt cộng đồng nào của làng xã.
Anh cu Tràng bị đặt ra ngồi lề xã hội. Khơng dừng lại ở đó, gia đình Tràng cịn rất
nghèo, cha mất, chỉ con hai mẹ con nương tựa vào nhau, vì không được chia ruộng
nên Tràng phải làm công việc bấp bênh để kiếm sống: kéo xe bò thuê.


Dường như số phận càng trở nên trớ trêu hơn, khi gia cảnh nghèo nàn, là người
ngụ cự, anh Tràng cịn có ngoại hình hết sức xấu xí. Hai mắt nhỏ tí gà gà đắm vào
bóng chiều, cịn hai bên quai hàm bạnh ra, khiến khn mặt càng to lớn hơn. Thân
hình to lớn vập vạp, như một người khổng lồ. Tràng còn vừa đi vừa lảm nhảm


những điều mình nghĩ và cứ thể ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch. Anh cu Tràng
hội tụ đầy đủ vẻ đẹp hấp dẫn lũ trẻ con, cịn với các cơ gái anh hồn tồn khơng có
chút hấp dẫn nào, cả về ngoại hình lẫn gia cảnh, anh cu Tràng khơng có khả năng
để lấy được vợ.


Nhưng trong một lần hát nghêu ngao trong lúc làm việc, anh cu Tràng đã lấy được
vợ một cách đầy bất ngờ và ngỡ ngàng. Trong lúc làm việc mệt nhọc, dân ta
thường có những câu hị để xua tan cái mệt, tăng động lực làm việc. Và anh cu
Tràng cũng vậy, anh cũng hát, lời hát hết sức bông đùa: “Muốn ăn cơm trắng với
giò. Lại đây mà đẩy xe bị với anh”. Lời nói ấy đã khiến thị theo anh cu Tràng về
làm vợ thật.


Trước khi đưa cô vợ về nhà, Tràng rất chu đáo, mua cho vợ một chiếc thúng con
mới, dẫn thị đi ăn một bữa thật no, mua những hai hào dầu để về thắp sáng trong
nhà. Anh cu Tràng từ một kẻ thô kệch, lúc nào cũng nói chuyện một mình và cười
hềnh hệch, hơm nay bỗng trở nên tâm lí và tinh tế lạ thường. Trên đường đi về
Tràng vui sướng, hớn hở, miệng lúc nào cũng tủm tỉm cười. Khuôn mặt vừa hạnh
phúc, rạng rỡ vừa vênh vênh tự đắc với chính mình. Cảnh sống cực khổ ê chề hàng
ngày, Tràng đã quên hẳn, mà chỉ sống trong niềm vui, niềm hạnh phúc khi lấy
được vợ. Bước chân đến nhà Tràng bỗng ngượng nghịu, xấu hổ, đứng tây ngây
giữa nhà, chợt thấy sờ sợ nhưng lại vừa hạnh phúc sung sướng khi việc mình lấy
vợ đã trở thành hiện thực. Điều Tràng mong ngóng nhất là đợi mẹ mình về nhà, để
ra mắt nàng dâu mới. Lời giới thiệu thị với mẹ cũng rất trân trọng, để nàng dâu bớt
đi phần ngượng ngùng, xấu hổ. Tràng đã thay đổi là một con người khác hẳn, tâm
lí, nhạy bén và rất khéo léo trong cách ăn nói. Dường như hạnh phúc mới này đã
đem đến sự thay đổi lớn trong tâm lí, suy nghĩ của anh cu Tràng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

ra từ trong giấc mơ, anh ngỡ ngàng trước hạnh phúc mình đang nắm giữ. Tràng
quan sát khung cảnh đang bày ra trước mắt mình, nhận thấy cảnh tượng thay đổi
mới mẻ, khác lạ, nhà cửa không bừa bộn mà được dọn dẹp sạch sẽ, khơng khí gia


đình trở nên ấm áp, vui vẻ, mẹ và vợ chung tay dọn dẹp, vun vén nhà cửa. Trành
thấy thấm thía, cảm động và bỗng thấy yêu thương những người xung quanh, đồng
thời nhận thấy trách nhiệm của bản thân, phải biết lo lắng cho gia đình, vợ con. Và
sự ý thức đó đã được hiện thực hóa bằng hành động xăm xăm chạy ra sân, muốn
chung tay tu sửa căn nhà. Tràng muốn chung tay để nghênh đón tương lai tươi
sáng đến với gia đình. Đồng thời trong Tràng cũng bừng lên khát vọng đổi đời
mãnh liệt, anh biết quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội: mạn Thái Ngun
Bắc Giang khơng đóng thuế mà cịn phá kho thóc Nhật cha cho người đói. Hình
ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới lẩn khuất, ẩn hiện trong trí óc Tràng.
Hình ảnh lá cờ chính là tín hiệu cho tương lai tươi sáng. Người đọc tin tưởng Tràng
sẽ đi theo Việt Minh, theo cách mạng.


Xây dựng nhân vật Tràng, Kim Lân trước hết phơi bày cuộc sống khổ cực của
nhân dân ta trong nạn đói 1945. Nhưng đằng sau đó cịn là sự cảm thương cho số
phận họ. Trân trọng, phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp của người dân Việt Nam trong
tình cảnh khốn cùng: tấm lòng nhân hậu, khát khao hạnh phúc, tin tưởng vào tương
lai.


Bên cạnh nhân vật Tràng, ta cũng không thể không nhắc đến nhân vật người vợ
nhặt. Người vợ nhặt khơng có lai lịch rõ ràng, khơng rõ tên tuổi, quê quán, nghề
nghiệp và cũng không hề có tài sản gì khi lần đầu gặp Tràng. Có thể thấy rằng,
trong nạn đói khủng khiếp, thân phận con người trở nên hết sức vô nghĩa. Lần thứ
hai gặp Tràng, quần áo thị rác rưới, tả tơi như tổ đỉa, người gầy sọp đi vì đói, mặt
lưỡi cày xám ngoét, ngực gầy và lép, hai con mắt sâu trũng hốy lại. Ngoại hình thị
vơ cùng thảm hại, do cái đói đã gây ra cho con người. Ngơn ngữ của thị cũng hết
sức chao chát, chỏng lỏn: “Điêu! Người thế mà điêu!”, “Ăn thật nhá”, “Hà, ngon.
Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”; rồi thì “Ton ton chạy lại”, “liếc mắt cười tít”,
“sầm sập chạy đến”, “xưng xỉa nói”, “cong cớn”, “cắm đầu ăn”, “ăn xong lấy đũa
quẹt một cái”. Thị tỏ ra là con người hết sức vơ dun, dường như cái đói, cái chết
có thể mài mòn nhân cách con người ta ghê gớm đến như vậy.



</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

sau cô dậy sớm cùng mẹ dọn dẹp, vun vén nhà cửa. Nhân vật thể hiện tư tưởng
nhân đạo sâu sắc của tác giả.


Cuối cùng là nhân vật bà cụ Tứ, dù chỉ thấp thoáng trong tác phẩm, nhưng cũng có
vai trị, ý nghĩa quan trọng. Bà là người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực: dân ngụ cư tha
phương cầu thực; chồng và con gái mất sớm. Cả đời lận đận, chỉ có tâm nguyện
lớn nhất là lấy vợ cho con nhưng mãi không dành dụm được tiền, trong lúc nghèo
đói đến cùng cực người con trai lại nhặt được vợ. Nhìn thấy con đưa vợ về, bà nín
lặng cúi đầu, băn khoăn, nhưng vẫn rất vui mừng cho đơi trẻ. Bà dặn dị hai vợ
chồng mới, nói những chuyện tương lai tốt đẹp, đem đến niềm tin, sự lạc quan cho
chúng. Bà là một người mẹ nhân hậu và hết sức yêu thương con.


Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học hiện
thực. Tác phẩm vừa cho thấy hiện thực cuộc sống nghèo khổ của nhân dân, đồng
thời ánh lên giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm thể hiện sự trân trọng, nâng niu
những ước mơ đổi đời của con người. Không chỉ vậy, tác phẩm cũng cho thấy
nghệ thuật phân tích tâm lí và miêu tả bậc thầy của nhà văn Kim Lân.


<b>Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài số 5</b>



Kim Lân được mệnh danh là nhà văn của người nông dân, của làng quê Việt Nam
bởi trong các tác phẩm của ông luôn hướng tới hình ảnh người nơng dân. Với văn
phong giản dị, mộc mạc nhưng sâu sắc thấm đẫm tinh thần nhân văn, tác giả Kim
Lân đã gửi tới người đọc một tác phẩm kinh điển thể hiện tình cảm đậm đà của ông
dành cho những số phận người nông dân nghèo khổ trong xã hội cũ.


Tác phẩm “Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm đặc sắc đại diện cho văn phong,
cũng như nhân sinh quan của tác giả Kim Lân. Vợ nhặt ra đời khi nước ta đang
trong giai đoạn một cổ hai trịng vừa bị thực dân Pháp đơ hộ, vừa bị phát xít Nhật


cai trị, kèm theo chế độ phong kiến trong thời kỳ suy tàn, thối nát làm cho người
dân vô cùng khốn khổ. Câu chuyện xoay quanh bối cảnh nạn đói kinh điển năm
1945 làm chết hai triệu đồng bào ta. Tại một xóm ngụ cư nghèo nơi tập trung
những gia đình đi di tản từ khắp nơi kéo tới đây, tạo thành một khu ngụ cư mới.
Ngay cái nhan đề của tác phẩm “Vợ nhặt” đã gợi lên cho người đọc nhiều suy nghĩ
về nội dung câu chuyện, thể hiện một việc trọng đại của đời người chính là việc
dựng vợ gả chồng nhưng lại được làm rất qua loa, như việc nhặt một món đồ, một
viên gạch ngoài đường mang về nhà.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

Nhân vật Tràng là người có ngoại hình thơ kệch, xấu xí, gia cảnh thì mẹ góa con
cơi, bần hàn. Hắn chẳng có điểm nào thu hút phụ nữ. Cơng việc của Tràng làm
nghề kéo xe bò thuê chở hàng cho người ta, một công việc lao động tay chân, bán
mồ hôi sức lao động để kiếm vào đồng xu lẻ. “Hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái
áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay. Hình như những lo lắng, cực nhọc đè nặng
lên cái lưng gấu của hắn”.


Sự đói nghèo bần hàn, vây quanh lấy hắn, nhưng trong đầu hắn luôn hiện lên
những suy nghĩ lạ lùng thỉnh thoảng lại thấy hắn ngửa mặt cười cười một cái gì đó.
Tràng thật sự là một con người kỳ qi.


Giữa khung cảnh nghèo đói, cùng cực ấy. Một con người xấu xí, thơ kệch nghèo
khổ như Tràng những tưởng vĩnh viễn phải sống kiếp cơ độc vì chả có gì thu hút
người khác thì làm sao mà lấy được vợ. Nhưng không ngờ Tràng vẫn lấy được vợ,
mà con lấy được một cách dễ dàng “nhặt” được vợ như nhặt một cục đá mà thơi.
Chỉ bằng những câu nói bơng đùa vu vơ, mà Tràng nhặt được vợ “Muốn ăn cơm
trắng với giị, thì ra đây đẩy xe bị với anh nào” Chỉ có như thế thơi nhưng một cơ
gái ngoan ngoãn ra đẩy xe với hắn. Rồi theo hắn về nhà làm vợ.


Tác giả Kim Lân đã xây dựng tình huống truyện vơ cùng thú vị, độc đáo làm thay
đổi số phận của nhân vật Tràng. Làm cho câu chuyển sang một hướng rẽ mới thú


vị và thu hút người đọc. Hành động nhặt được vợ của Tràng khiến người ta phải
suy nghĩ, bởi việc lấy vợ lấy chồng là việc vơ cùng quan trọng trong đời người,
bình thường người ta phải làm thật cẩn thận suy tính trước sau. Cơ gái làm vợ
Tràng cũng thật thiệt thịi biết bao, làm vợ người ta mà khơng có một lễ cưới,
không được làm dăm ba mâm ra mắt họ hàng, khơng có giấy đăng ký kết hơn,
khơng có chứng nhận của hai bên họ hàng.


Sự nghèo khó đã đẩy những con người khốn khổ xích lại gần nhau hơn. Họ tìm đến
với nhau để nương tựa vào nhau trong lúc khó khăn, cho bớt cơ cực. Họ cũng hy
vọng khi có nhau rồi cuộc sống của họ sẽ thay đổi ít nhiều có thêm niềm vui vào
tương lai.


Hình ảnh vợ Tràng hiện lên làm người đọc không khỏi xúc động “ thị cắp cái thúng
con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt.
Thị có vẻ rón rén, e thẹn”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

Những người hàng xóm tị mị hỏi Tràng về người phụ nữ đi bên cạnh Tràng. Họ tị
mị vì một người nghèo khổ xấu xí như Tràng mà cũng có gái theo. Nhưng có
người cũng thực tế hơn họ cho rằng trong thời kỳ đói khổ miếng ăn khơng có như
hiện nay mà còn cưới vợ vác thêm một miệng ăn về nhà thì khác nào vác một cục
nợ.


Cứ như thế Tràng và thị đi trong những tiếng xì xào, bàn tán nhưng họ cứ mặc kệ
cứ bước đi bên nhau và hy vọng vào ngày mai tươi sáng hơn.


Cuộc gặp gỡ giữa mẹ chồng nàng dâu cũng khiến nhiều người phải ám ảnh bà cụ
Tứ mẹ Tràng “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại
vì thấy có một người đàn bà ở trong…”


Lúc đầu bà cụ lo lắng lắm nhưng rồi bà cụ Tứ cũng nhận ra vấn đề “bà lão cúi đầu


nín lặng, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy cịn hiểu ra bao nhiêu cơ sự,
vừa ai ốn, vừa xót xa cho số kiếp con mình. Chao ơi người ta dựng vợ gả chồng
cho con là trong lúc làm ăn nên nổi, cịn mình…”


Những suy nghĩ đau đớn chua xót của một người mẹ thương con, được tác giả Kim
Lân tái hiện qua những trang viết vô cùng xúc động làm lay động trái tim người
đọc.


Bà cụ Tứ vui mừng chấp nhận người vợ của con trai mình. Hình ảnh bữa cơm đầu
tiên sau đêm tân hôn hiện ra khiến nhiều người không khỏi nghẹn ngào đắng ngắt
trong cổ họng. Đó chính là “nồi cháo cám” với đĩa muối trắng, hoa chuối thái vội.
Một hình ảnh đại diện cho cái nghèo, hiện lên chân thực, mộc mạc


Tuy nhiên, trong bữa cơm ấy ba con người trong câu chuyện lại ăn uống rất ngon.
Họ cịn nói chuyện với nhau về tin đồn Việt Minh phá kho thóc Nhật chia cho dân
nghèo. Trong bữa cơm ấy, ba con người khốn khổ cùng mơ ước có một ngày được
thấy ngọn cờ đỏ sao vàng, được sống một kiếp sống khác. Họ cùng nhau tin tưởng
vào tương lai.


<b>Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài số 6</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có cơng khám phá ra diễn biến tâm lý
thật bất ngờ.


Trong một lần phát biểu, Kim Lân đã từng nói “Khi viết về nạn đói người ta
thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta
hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện
ngắn nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới cuộc
sống, vẫn hi vọng, vẫn tin tưởng vào tương lại. Họ vẫn muốn sống, “sống cho ra
con người”. Đó chính là tình người và niềm hi vọng về cuộc sống về tương lai của


những con người đang kề cận với cái chết.


Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống “nhặt vợ” tài tình kết hợp với khả
năng phân tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành công ngôn
ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kĩ lưỡng, nhà
văn đã tái hiện lại trước mắt chúng ta một không gian đói thật thảm hải, thê lương.
Trong đó ngổn ngang những kẻ sống người chết, những bón ma vật vờ, lặng lẽ
giữa tiếng khóc hờ và tiếng gào thét gửi gắm trong không gian tối đen như mực ấy
những mầm sống đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành, yêu
thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận như anh
Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phấp phới
cùng đám người đói phá kho thóc của Nhật ở cuối thiên truyện.


Có thể nói rằng Kim Lân đã thực sự xuất sắc khi dựng lên tình huống “nhặt vợ”
của anh cu Tràng. Tình huống ấy là cánh của khép mở để nhân vật bộc lộ nét đẹp
trong tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với
nhau khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao có thể đèo bồng thêm người
này người kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỉ hơn là vị tha
và người ra rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ. Nhưng nhà văn Kim Lân
lại khám phá ra một điều ngược lại ở các nhân vật anh cu Tràng, người vợ nhặt và
bà cụ Tứ.


Chúng ta từng kinh hãi trước “xác người chết đói ngập đầy đường”, “người lớn
xanh xám như những bóng ma”, trước “khơng khí vẩn lên mùi hơi của rác rưởi và
mùi gây của xác người”, từng ớn lạnh trước “tiếng quạ kêu gào thảm thiết” ấy
nhưng lạ thay chúng ta thật khơng thể cầm lịng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp
mà bình thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và của người vợ Tràng nữa. Một
thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như Tràng, một con người – thân xác vạm vỡ,
lực lưỡng ấy dường như ngờ nghệch thơ kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao
nghĩa tình cao đẹp.



</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

đình. Điều ấy thật éo le và xót thương vơ cùng. Và dường như lúc ấy trong con
người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương chân thành.
Và dường như hắn đang ngầm chứa một ao ước thiết thực về sự đầm ấm của tình
cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đôi. Hành động của Tràng dù vơ tình, khơng có
chủ đích, chỉ tầm phơ tầm phào cho vui nhưng điều ấy không hề mở cho ta thấy
tình cảm của một con người biết yêu thương, cưu mang, đùm bọc những người
đồng cảnh ngộ.


Như một lẽ đương nhiên, Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã “sờ sợ”, “ngờ ngợ”, “ngỡ
ngàng” như khơng phải nhưng chính tình cảm vợ chồng ấy lại củng cố và nhen
nhóm ngọn lửa yêu thương và sống có trách nhiệm với gia đình trong hắn. Tình
nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tình. Từ một
anh chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cọc cằn, Tràng đã sớm thay đổi trở thành một người
chồng thật sự khi đón nhận hạnh phúc gia đình. Hạnh phúc ấy dường như một cái
gì đó “ơm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có một bàn tay vuốt nhẹ
sống lưng”. Tình yêu, hạnh phúc ấy khiến “trong một lúc Tràng dường như quên
hết tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng ngày qua”. Và Tràng
đã trở dậy. Hắn có những thay đổi rất bất ngờ nhưng rất hợp logíc. Những thay đổi
ấy khơng có gì khác ngồi tâm hồn đơn hâu, chất phác và giàu tình yêu thương hay
sao?


Trong con người của Tràng khi trở dậy sau khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác lạ.
Tràng không là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một người con có hiếu,
một người chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ. Thấy mẹ chồng nàng dâu
quét tước nhà cửa, hắn đã bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc.
“Hắn thấy yêu thương căn nhà của hắn đến lạ lùng”, “hắn thấy mình có trách
nhiệm hơn với vợ con sau này”. Hắn cũng xăm xắn ra sân dọn dẹp nhà cửa.


Hành động cử chỉ ấy của Tràng đâu chỉ là câu chuyện bình thường mà đó là sự


chuyển biến lớn. Chính tình u của người vợ, tình mẹ con hồ thuận ấy đã nhen
nhóm trong hắn ước vọng về hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ thay đổi khi
hắn nghĩ đến đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Rồi số phận, cuộc đời hắn,
của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn tin thế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

Đó chính là tình người, là tình thương u. Thị tuy theo khơng Tràng về chỉ qua
bốn bát bánh đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng nhưng chúng ta
không khinh miệt thị. Nếu có trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân phong
kiến đã bóp nghẹt quyền sống của con người. Thị xuất hiện không tên tuổi, không
quê quán, trong tư thế “vân vê tà áo rách bợt bạt”, điệu bộ trơng thật thảm hại
nhưng chính con người ấy lại gieo mầm sống cho Tràng, làm biến đổi tất cả, từ
khơng khí xóm ngụ cư đến khơng khí gia đình. Thị đã đem đến một luồng sinh khí
mới, sinh khí ấy chỉ có được trong con người thị dung chứa một niềm tin, một ước
vọng cao cả vào sự sống vào tương lai.


Thị được miêu tả khá ít song đó lại là nhân vật khơng thể thiếu cho tác phẩm.
Thiếu thị, Tràng vẫn chỉ là anh cu Tràng ngày xưa, bà cụ Tứ vẫn lặng thầm trong
đau khổ, cùng cực. Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng nhân vật này để
góp thêm tiếng lịng ca ngợi sức sống của vẻ đẹp tình người, niềm tin vào cuộc đời
phía trước trong những ngày con người đói khổ ấy. Và thật ngạc nhiên, khi nói về
ước vọng ở tương lại, niềm tin vào hạnh phúc, vào cuộc đời người ta dễ nghĩ đến
tuổi trẻ như Tràng và người vợ nhưng Kim Lân lại khám phá ra một nét đẹp độc
đáo vơ cùng: tình cảm, ước vọng ở cuộc đời lại được tập trung miêu tả khá kĩ ở
nhân vật bà cụ Tứ.


Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ bút pháp miêu tả tâm lý nhân vật. Bà cụ Tứ đến
giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này, tác phẩm sẽ khơng
có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm, Kim Lân đã cho
chúng ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói. Bao giờ cũng thế, các
nhà văn muốn nhân vật nổi bật cá tính của mình thường đặt nhân vật ấy vào tình


thế căng thẳng. Ở đó dĩ nhiên phải có sự đấu tranh không ngừng không những giữa
các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay trong chính nội tâm của mỗi nhân vật ấy. Bà
cụ Tứ là một điển hình.


Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức người mẹ nghèo vốn
thương con ấy. Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người đàn bà
trong nhà mình mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng, ngạc
nhiên bà cụ đã “cúi đầu nín lặng”. Cử chỉ, hành động ấy chất chứa bao tâm trạng.
Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nỗi tủi cực, nỗi lo và niềm vui nỗi buồn cứ hoà lẫn
vào nhau khiến bà thật căng thẳng. Sau khi thấu hiểu mọi điều bà nhìn cơ con dâu
đang “vân vê tà áo rách bợt bạt” mà lịng đầy xót thương. Bà thiết nghĩ “người ta
có gặp bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có
vợ”. Và thật xúc động, bà cụ đã nói, chỉ một câu thơi nhưng sâu xa và có ý nghĩa
vơ cùng “Thơi, chúng mày đã phải duyên phải kiếp với nhau thì u cũng mừng
lịng”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

khổ khơng phải là một vật cản lớn. Đói rét thật nhưng trong lịng bà cụ vẫn sáng
lên tấm lòng yêu thương chân thành. Bà thương con, thương dâu và thương cho
chính bản thân mình. Bà cụ Tứ từ những nỗi lo, nỗi tủi cực về gia cảnh vẫn không
ngừng bùng cháy lên ngọn lửa của tình người. Bà đang dang tay đón nhận đứa con
dâu lịng đầy thương xót, trong tủi cực nhưng vẫn ngầm chứa một sức sống thật
mãnh liệt. Chính ở người mẹ nghèo khổ ấy, ngọn lửa của tình người, tình thương
yêu nhân loại bùng cháy mạnh mẽ nhất. Trong bóng tối của đói nghèo đang hùng
hổ vây quanh, bà lão vẫn gieo vào lịng những con mình niềm tin về cuộc sống. Bà
nhắc đến việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên nuôi gà, rồi việc sinh con đẻ cái, bà
lão nói tồn chuyện vui trong bữa cơm ngày đói thật thảm hại. Bà đã đón nhận
hạnh phúc của các con để tự sưởi ấm lịng mình.


Đặc biệt chi tiết nồi cám ở cuối thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình
người. Nồi chè cám nghẹn bứ cổ và đắng chát ấy lại là món quà của một tấm lịng


đơn hậu chất chứa u thương. Bà lão “lễ mễ” bưng nồi chề và vui vẻ giới thiệu
“Chè khoán đấy. Ngon đáo để cơ”. Ở đây nụ cười đan xen lẫn ngước mắt. Bữa
cơm gia đình ngày đói ở cuối thiên truyện khơng khỏi làm chạnh lịng chúng ta,
một nỗi xót thương cay đắng cho số phận của họ song cũng dung chứa một sự cảm
phục lớn lao ở những con người bình thường mà đáng quý.


Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề mới
trong đề tài về nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người thật thành
công ở ba nhân vật. Điều làm chúng ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của tình
người và niềm hi vọng vào cuộc sống một cách mạnh mẽ nhất ở nhưng thân phận
đói nghèo, thảm hại kia. Ba nhân vật: Tràng, vợ Tràng và bà cụ Tứ cùng những
tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ chính là những điếm áng mà Kim Lân từng trăn
trở trong thời gian dài để thể hiện sao cho độc đáo một đề tài tâm lý nhân vật, khả
năng dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân - một nhà văn được đánh giá là viết
ít nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.


“Cái đẹp cứu vớt con người” (Đôxtôiepki). Vâng Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân
thể hiện rõ sức mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc
sống là con nguồn mạch giúp Kim Lân hồn thành tác phẩm. Ơng đã có đóng góp
cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài nạn đói nói riêng một quan niệm mới
về lịng người và tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong
tâm hồn người đọc chính là điểm sáng tuyệt vời nhất.


<b>Phân tích truyện ngắn Vợ nhặt - Bài số 7</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

một điểm sáng mới, đó là niềm tin, niềm hi vọng vào một tương lai tốt đẹp dù hiện
tại có khó khăn đến nhường nào.


Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn, ngịi bút của ơng thật sắc sảo khi
tập trung miêu tả những phong tục tập quán và đời sống làng quê với những “thú


vui đồng quê hay phong lưu đồng ruộng”. “Vợ nhặt” là tác phẩm xuất sắc được in
trong tập “Con chó xấu xí” của nhà văn, viết về người nơng dân trong tình cảnh thê
thảm của nạn đói với bản chất tốt đẹp, lương thiện. Bằng khả năng sáng tạo của
mình, nhà văn đã thành cơng ở nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật và hàng loạt các
biện pháp nghệ thuật đặc sắc khác khi xây dựng nhân vật của mình.


Ngay từ nhan đề của tác phẩm, nhà văn đã để lại chúng ta những điều tò mò mới
mẻ về cuộc sống của những con người bần hàn trong cái đói tưởng chừng như
thảm họa. Với Kim Lân, “nhặt” là một hành động thu lượm những thứ rơi vãi ở
dưới đất, những vật có giá trị khơng cao. Thế nhưng ở đây, hành động ấy lại được
gắn liền với hình ảnh của người “vợ”. Đó chính là sự trân trọng của tác giả đối với
nhân vật của mình bởi người vợ ln có một vị trí quan trọng trong gia đình. Thế
nhưng trong hồn cảnh này, thân phận của con người lại rẻ rúng hơn bao giờ hết,
chỉ cần vài câu nói bơng đùa của anh cu Tràng mà người phụ nữ đó đã theo khơng
Tràng về nhà và trở thành người “vợ nhặt”. Tất cả những điều đó đã làm nên một
nhan đề độc đáo, gây ấn tượng mạnh, thể hiện thảm cảnh của người dân trong nạn
đói năm 1945, bộc lộ sự cưu mang, khát vọng sống, và niềm tin của con người
trong cảnh khốn cùng.


Chủ đề của tác phẩm không chỉ được thể hiện ở nhan đề mà nó cịn được thể hiện
thơng qua tình huống truyện. Có nhà văn đã từng nói: “Tình huống truyện chính là
thứ nước rửa ảnh để thơng qua đó nhân vật nổi hình nổi mảng”. Tình huống truyện
là nghệ thuật sắp xếp, tổ chức các chi tiết, sự kiện trong tác phẩm, qua đó bộc lộ
tính cách, số phận nhân vật góp phần thể hiện tư tưởng, chủ đề của tác phẩm.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” đã đem đến cho chúng ta một tình huống truyện vừa éo le,
lại vừa bi hài. “Vợ nhặt” được bắt đầu ở thời điểm cái đói mà tác giả gọi là hiểm
họa tràn đến. Trong khơng gian thê thảm của nạn đói, tình huống Tràng lấy vợ đã
tạo nên khung cảnh vừa bi vừa hài, chỉ mấy câu nói bơng đùa mà nào ngờ lấy được
vợ thật. Tràng xấu trai lại ngờ nghệch, nay lại có người theo về cho ta thấy nghịch
cảnh khơng biết nên cười hay nên khóc. Tình huống truyện éo le trên đã cho ta


thấy tính nhân bản và tình cảm nhân đạo của tác phẩm. Hồn cảnh đã làm thay đổi
con người, tố cáo chế độ thực dân phong kiến đã đẩy con người vào bước đường
cùng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

tính thương người, ln khao khát một mái ấm gia đình và ln có hi vọng vào một
tương lai tươi sáng.


Anh cu Tràng là một người nông dân có cuộc sống nghèo khổ được thể hiện ngay
ở cái tên gọi mà tác giả đặt cho. Tràng không tội nghiệp đến mức khơng có một cái
tên thế nhưng cái tên Tràng lại gợi lên bao điều lam lũ, khó nhọc bởi đó cũng là tên
của một dụng cụ lao động. Tràng không đến mức quá tiều tụy thế nhưng lại được
hóa cơng gọt đẽo rất sơ sài: “Hai con mắt gà gà đắm vào bóng chiều”, “hai bên
quai hàm bạnh ra”, “bộ mặt thô kệch”, “cái đầu trọc nhẵn”, “cái lưng to rộng”. Qua
cách miêu tả của Kim Lân, ta thấy Tràng kết tinh được cái phần tự nhiên, hoang
dại của con người. Tràng hay “ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch”, “vừa đi vừa nói
nhảm”, trở thành “đối tượng bơng đùa của những đứa trẻ xóm ngụ cư”, tính tình thì
“ngộc nghệch”. Hồn cảnh sống của Tràng cũng chẳng dư dả gì. Nơi ở là “cái nhà
vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, “những
niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất”. Những chi tiết ấy đã cho
thấy cuộc sống thiếu thốn, nghèo khổ của hai mẹ con Tràng.


Ông cha ta đã dạy ta đừng nên “nhìn mặt mà bắt hình dong” thật đúng như vậy.
Tuy Tràng có vẻ bề ngồi thơ kệch, tính tình ngộc nghệch thế nhưng ẩn sâu trong
tâm hồn Tràng vẫn chứa đựng biết bao hạt ngọc của tâm hồn. Tràng là người nhân
hậu và giàu tình thương người. Thấy người đàn bà đói, Tràng đã cho ăn “một chặp
bốn bát bánh đúc” bởi anh không nhẫn tâm từ chối khi người ta quá đói. Đó là một
việc làm thật đáng quý, thể hiện truyền thống “thương người như thể thương thân”,
“lá lành đùm lá rách” của dân tộc ta. Khi người vợ nhặt quyết theo Tràng, đây
không phải là chủ tâm của Tràng tìm vợ mà thực tế, Tràng lấy vợ vì lịng thương
người, vì một con người cịn đói khát hơn cả mình. Bên cạnh tấm lịng nhân hậu,


Tràng cịn là người ln khát khao hạnh phúc gia đình, hạnh phúc lứa đơi. Tràng
có ý thức chăm sóc người phụ nữ của mình: “Hơm ấy hắn đưa thị xe bị về rồi mua
hai hào dầu để thắp sáng ngôi nhà lạnh lẽo”. Những việc làm đó đã chứng tỏ Tràng
rất trân trọng vợ mình. Tràng thật sự sung sướng và hạnh phúc khi có người vợ
nhặt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

được bao bọc bởi bóng tối, bởi âm thanh tiếng hờn khóc tỉ tê từ những gia đình có
người chết đói. Tràng vẫn cảm thấy sự kiện mình có vợ là quan trọng và cần nâng
niu hơn cái đói đang hồnh hành. Nhà có thêm người mới, Tràng đã thắp đèn lên
cho sáng sủa, để xua tan đi cái tối, cái thê thảm của của những kiếp người leo lét.
Ngọn đèn dầu sáng lên chính là hiện thân cho khát vọng sống, là ánh sáng để đấu
tranh với bóng tối, giữ gìn sự sống để đấu tranh với cái chết. Phải chăng, tình u
là vũ khí lợi hại để có thể khiến Tràng thay đổi hồn tồn vào buổi sáng ngày hơm
sau. Trước đây, Tràng sống dường như không quan tâm đến mình, sống tạm bợ
cho qua ngày, khơng có ý thức chuẩn bị cho ngày mai. Kể từ khi có vợ, tâm lí anh
khác hẳn: “Cảnh tượng thật đơn giản nhưng đối với hắn thật thấm thía và cảm
động”. Tất cả được Tràng nhìn bằng ánh sáng mới, bằng con mắt mới, bằng trái
tim của một con người đang hạnh phúc, đang yêu và đang được yêu. Hạnh phúc đã
đem đến cho Tràng ý thức làm người, “Tràng thấy mình nên người từ khi có vợ”.
Trước đây, anh vơ tâm vơ tính, giờ có ý thức về bổn phận của mình hơn, mình cần
có trách nhiệm với gia đình này. Hình ảnh của Tràng trong ngơi nhà đầm ấm, hịa
hợp khiến cho ai cũng thay đổi. Bà cụ Tứ trở nên tươi tỉnh khác hẳn ngày thường,
người vợ nhặt đúng mực người vợ hiền, dâu thảo, Tràng đã nên người và làm nổi
bật vẻ đẹp của hạnh phúc. Dù hiện tại có đói khổ nhưng Tràng vẫn ln giữ một
niềm lạc quan, yêu đời, luôn tin vào tương lai tươi sáng. Trong bữa ăn, chỉ có mỗi
nồi cháo cám chát đắng, Kim Lân đã để cho nhân vật bàn tán về việc Việt minh
phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Trong tâm trí Tràng lúc bấy giờ hiện lên
hình ảnh đám người đói và lá cờ cỏ sao vàng đang phấp phới tung bay trên nền trời
xanh thẳm. Tràng nghĩ đến ánh sáng, nghĩ đến niềm vui, niềm tin đổi đời vào cách
mạng. Tràng có cảm giác nuối tiếc khi mình tránh đi con đường khác, ý thức hối


hận khi khơng hịa mình vào đám người đói theo Việt minh, điều đó cho thấy ước
mơ vươn lên để đổi đời gắn liền với khát vọng sống của người nông dân Việt Nam
đương thời.


Trong ba nhân vật, người vợ nhặt là nhân vật được nói đến ít nhất. Thực ra, nếu
khơng có nhân vật người “vợ nhặt” thì nội dung và nghệ thuật của tác phẩm bị ảnh
hưởng rất nhiều bởi đây là nhân vật làm nên giá trị nội dung và tư tưởng của tác
phẩm, có vai trị quyết định đến sự hình thành các hình thức nghệ thuật khác.
Người vợ nhặt là một nhân vật khơng có tên gọi, lai lịch, gốc gác, ngoại hình tiều
tụy nhưng là một người vợ đúng mực, một người con dâu hiếu thảo và là người
đem đến niềm vui, niềm lạc quan cho mọi người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

chị “ngồi vêu ra ở cửa kho, nhặt hạt rơi, hạt vãi hay ai có việc gì gọi đến thì làm”.
Người vợ nhặt khơng có q hương, khơng có q khứ, là hiện thân cho một kiếp
người lênh đênh, trơi dạt trong thảm họa đói khát, khơng lưu giữ được một chút gì
về sự tồn tại của bản thân mình.


Ngoại hình của thị được tác giả miêu tả rất tỉ mỉ: “Cái nón rách tàng nghiêng
nghiêng che mất đi nửa mặt”. Khi tác giả quay ngược trở lại thời gian ở lần gặp thứ
hai của thị với Tràng, ta thấy thị giống như bao kẻ đói khát khác: “Hơm nay trơng
thị rách q, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái gương mặt lưỡi
cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Ngoại hình của thị trơng rất tiều tụy, thị là
hiện thân của những con người bần cùng đói phát phải “tha hương cầu thực”, “tối
đâu là nhà, ngã đâu là giường” (Nguyễn Khải). Với những chi tiết miêu tả ngoại
hình trên, nhà văn Kim Lân đã cho người đọc thấy người phụ này đã phải chịu đói
nhiều ngày, sự đói khát cùng đường làm cho chị mất hết đi nét nữ tính vốn có.
Điệu bộ thị “chao chát, chỏng lỏn”, lần đầu giữa lúc đang nhàn rỗi nghe câu hị
bng ra của Tràng và những lời trêu ghẹo của bạn bè nhưng vì đói chị đã “ton ton
chạy lại đẩy xe cho Tràng- một người đàn ông mà chị không hề quen biết. Thị đùa
giỡn với anh, liếc mắt cười tít để tạo thiện cảm với Tràng, như vậy có thể nói là vơ


dun, trơ trẽn nhưng chị vẫn đẩy xe cho Tràng và chưa được ăn “cơm trắng với
giò” như lời Tràng đã hứa.


Lần khác gặp lại Tràng, chị xưng xỉa trách móc “điêu, người thế mà điêu” làm cho
Tràng khơng hiểu gì cả. Những lời thoại ấy đã chứng tỏ người phụ nữ đã cố ý lái
câu chuyện để thể hiện mục đích được ăn cơm. Phải chăng sự đói khát đường cùng
đã khiến chị thành kẻ táo tợn, trơ trẽn, không cần giữ danh dự, chỉ biết biến lời nói
đùa thành sự thật để được ăn “cơm trắng với giò”. Khi được Tràng mời ăn, “hai
con mắt trũng hốy của thị tức thì sáng lên”, “thị ngồi sà xuống ăn thật, thị cắm
đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì, ăn xong thị cầm dọc
đơi đũa quệt ngang miệng”. Chính cái đói, cái khát đã thử thách nhân cách của
người phụ nữ thật ghê gớm. Nạn đói năm Ất Dậu như một cơn lũ khủng khiếp
cuốn phăng đi tất cả. Vì đói, người phụ nữ ấy đã đẩy lùi sĩ diện, không lo danh dự,
nhà văn không sa vào chủ nghĩa tự nhiên, không chê bai giễu cợt nhân vật mà nhà
văn muốn ta hiểu một thực tế rằng miếng ăn trong cái đói que quắt nhiều khi thúc
bách khiến họ qn đi cả ý tứ, khơng cịn sĩ diện nữa, bản năng sinh tồn đã vượt
lên trên tất cả. Liều lĩnh hơn khi chị chấp nhận theo không Tràng về làm vợ. Vì
một câu nói đùa, người vợ nhặt biến lời rủ rê thành lời cầu hơn chính thức, biến tất
cả đùa thành thật, thị theo không Tràng về nhà mà khơng hề biết gia cảnh, tính tình
của người đàn ông ấy. Thị đã tự hạ thấp giá trị của mình đến rẻ rúng như những vật
khơng giá trị bị vứt ngoài đường.


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

sống mãnh liệt, khát khao hạnh phúc gia đình, ý tứ, hiền hậu đúng mực và luôn lạc
quan tin tưởng. Người vợ nhặt mang một vẻ đẹp nữ tính dịu dàng đúng mực kể từ
khi theo không Tràng về nhà. Trên đường về, có lúc người vợ nhặt đã trách chồng
bỏ ra hai hào để mua dầu thắp “hoang nó vừa chứ”. Lời trách móc ấy thể hiện ý
thức gia đình, vun vén cuộc sống hôn nhân, bởi vậy, thị đúng là một người vợ thực
sự. Cùng Tràng trên đường về nhà, thị cắp cái thúng e thẹn, bản tính nữ tính đã trở
lại. Qua một vài chi tiết miêu tả, ta thấy tâm tình của người phụ nữ này đang dần
trở lại. Thị lẳng lặng nén tiếng thở dài khi nhìn thấy căn nhà lụp xụp của Tràng, đó


là thái độ chấp nhận dường như chị nghĩ rằng mình khơng nên hỏi điều gì nữa. Khi
vào đến nhà, thị “ngồi mớm ở mép giường”, đây là tư thế e thẹn, ngại ngùng, có
chút rụt rè, lo âu của người con gái lần đầu tiên bước về nhà chồng trong tình
huống bất lợi. Nhà văn thật tinh tế khi miêu tả được cử chỉ người phụ nữ “tay ôm
khư khư cái thúng, mặt bần thần”. Nét mặt chứa đựng biết bao ngổn ngang, suy
nghĩ e ngại, xót xa, tủi cực cho số phận của mình. Thế nhưng, người “vợ nhặt” ấy
đã vượt lên trên hoàn cảnh để thể hiện khát vọng sống, thể hiện bổn phận làm vợ,
làm con dâu của mình.


Trong đêm tân hơn, thị có những cử chỉ rất dí dỏm “ủng vào trán Tràng”, cử chỉ đó
thể hiện rõ tình cảm yêu thương của thị dành cho Tràng. Sáng hôm sau, chị dậy
sớm làm đủ mọi việc như một người vợ hiền tần tảo, đảm đang. Chị cùng với bà cụ
Tứ “dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ”, người phụ nữ “chao chát chỏng
lỏn” ấy đã thay đổi đến mức chính Tràng cũng phải ngạc nhiên “Tràng nom thị
hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực khơng cịn vẻ chao
chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Người vợ nhặt là người lạc
quan luôn đem đến niềm vui cho mọi người. Đối với người dân xóm ngụ cư, người
vợ nhặt đem đến cho họ niềm tin vào sự đổi thay. Đối với bà cụ Tứ, người “vợ
nhặt” đã đem đến cho bà niềm an ủi, niềm hạnh phúc lớn lao ở cái tuổi gần đất xa
trời. Bà cụ Tứ vui mừng khi thấy con cái trưởng thành, con trai mình đã có vợ bà
lại nghĩ đến tương lai con cháu mình sau này. Đối với Tràng, người “vợ nhặt” đem
đến niềm hạnh phúc thực sự cho Tràng.


Khi có mái ấm gia đình, Tràng thực sự thay đổi từ một người đàn ông thô kệch
vụng về trở thành người có ý thức, có trách nhiệm với gia đình. Chính thị là người
đầu tiên kể cho cả nhà nghe truyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang. Chị làm nảy
sinh trong Tràng hình ảnh đồn người đi phá kho thóc, lá cờ đỏ tung bay phấp
phới, nó gợi lên trong Tràng những khao khát về sự đổi đời. Người “vợ nhặt” đã
được nhà văn khắc họa độc đáo ở việc chú trọng khắc họa hành động, cử chỉ, nét
mặt của nhân vật để người đọc hiểu được tâm lí người phụ nữ. Thân phận người


phụ nữ ấy có rẻ rúng, nhưng thị vẫn rất mực lạc quan, yêu đời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

nghèo khổ ấy đã những thay đổi tâm trạng phức tạp khi thấy con mình “nhặt” được
vợ. Tâm trạng bà thay đổi từ ngạc nhiên đến vui mừng rồi lo lắng, tủi hổ nhưng
cũng vẫn rất lạc quan trước số phận.


Bà cụ Tứ là một người phụ nữ nghèo khổ. Bà xuất hiện với dáng vẻ lọng khọng,
gầy gò, ốm yếu. Cảnh ngộ nom thật đáng thương, bà lão nghèo khổ, già nua lại cơ
đơn vì chồng và con gái đã ra đi mãi mãi. Đứa con trai lớn tuổi nhưng vì nghèo
khổ, thơ kệch lại là người dân xóm ngụ cư nên chẳng lấy được vợ. Cuộc đời bà cụ
Tứ thật đáng thương, gia cảnh lại bần hà thuộc hạng cùng đinh trong xóm ngụ cư.
Ở cái độ tuổi gần đất xa trời này, bà cũng chẳng mong gì nhiều, chỉ mong cho con
mình nên người và có một cuộc sống hạnh phúc.


Sự xuất hiện của người vợ nhặt đã khiến cho diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ diễn
ra phức tạp. Bà ngạc nhiên khi thấy Tràng reo lên như một đứa trẻ vồn vã chào mời
khác thường “bà lão phấp phỏm bước theo con đến giữa sân bà lão sững lại càng
ngạc nhiên hơn”. Trong bối cảnh đói khát, bà cụ đã khơng tin rằng con mình lấy
được vợ. Bà ngạc nhiên trước cảnh một cơ gái lạ xuất hiện trong nhà mình. Kim
Lân đã sử dụng nghệ thuật độc thoại nội tâm để chứng tỏ bà lão rất ngạc nhiên. Bà
tự hỏi “quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng
ngay đầu giường thằng con trai mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Ai thế
nhỉ?”. Sự ngạc nhiên đến nỗi bà không tin vào mắt mình khi thấy người lạ trong
nhà “bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà thấy mắt mình nhoèn ra
thì phải”. Trái tim của người mẹ luôn nhạy cảm về chuyện riêng tư của con cái và
cả chuyện dựng vợ gả chồng nhưng ở đây, bà cụ Tứ lại ngơ ngác q lâu vì khơng
tin vào mắt mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

Vượt qua mọi nghi lễ thông thường, bà cụ đã chấp nhận người đàn bà xa lạ làm
con dâu trước nỗi lo cho tương lai, gia đình và các con. Bà lo cho các con ở những


ngày hiện tại chênh vênh. Lòng bà lão đầy những ám ảnh của quá khứ vẫn nặng
trĩu đắng cay. Bà ngửi thấy “mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió
thoảng vào khét kẹt”. Rồi bà nghĩ đến ông lão, đến đứa con gái út đã mất, nghĩ đến
cuộc đời cực khổ của mình. Bà lo cho vợ chồng Tràng lấy nhau khơng biết có qua
khỏi nạn đói này khơng. Tâm trạng của bà cụ Tứ diễn ra vơ cùng phức tạp, vừa ai
ốn xót thương, lo lắng buồn tủi đan xen với những xáo trộn trong lòng. Cũng như
nhân vật anh cu Tràng, người “vợ nhặt” bà cụ Tứ cũng luôn vững tin vào một
tương lai tốt đẹp hơn. Trong ý nghĩ bà cùng vui với triết lí giản dị sâu sắc: “Ai giàu
ba họ, ai khó ba đời”, niềm vui giản dị thực tế ấy được xuất phát từ kinh nghiệm
của người dân lao động, được đúc rút từ bao đời nay. Suy nghĩ đó được bộc lộ từ ý
chí vươn lên, vượt qua hồn cảnh khó khăn của bà cụ Tứ. Vì nghĩ như vậy nên bà
nói về tương lai, trong buổi sáng ngày hơm sau, bà tồn nói chuyện vui, chuyện
sung sướng sau này. Bà nói về tương lai thiết thực của nhân dân lao động, từ việc
ni gà và có một cuộc sống n bình, ấm no.


Sáng ngày hơm sau, người mẹ nghèo ấy đã thắp lên đốm lửa của tình người, của
niềm tin và hi vọng qua các hành động cụ thể: “Bà cùng con dâu thu xếp nhà cửa,
quét dọn sân vườn cho sạch sẽ”, việc làm ấy được xuất phát từ niềm tin, niềm hi
vọng mang tâm lí của người lao động: “Nhà cửa gọn gàng, ngay ngắn thì may mắn
sẽ tới”. Bà có một sáng kiến bất ngờ đó là bổ sung một nồi “cháo cám” vào bữa ăn
ngày đói như một bữa ăn mừng nhân ngày con trai lấy được vợ. Người mẹ tươi
cười đon đả lặng lẽ khen ngon, dù miếng cháo cám có chát đắng trong khóe miệng
nhưng bà vẫn thốt lên răng “ngon đáo để”. Điều đó tốt lên tinh thần của người mẹ
chấp nhận số phận với niềm vui và niềm hạnh phúc đong đầy. Hình ảnh “nồi cháo
cám” ấy cịn là hiện thân của tình thương yêu mà người mẹ dành cho các con. Nhà
văn đã chọn “nồi cháo cám” để làm sáng lên chất người khi niềm vui, niềm hạnh
phúc của họ đang dần bị nguội tắt trước thế lực của cái đói. Chi tiết ấy tái hiện cái
đói năm 1945 một cách chân thực nhất, con người phải ăn cả thức ăn của động vật
để cầm cự, đấu tranh với cái chết gần kề. Tuy bà cụ Tứ chỉ xuất hiện trong một
khoảnh khắc của chiều hôm trước và sáng hơm sau khi con mình dắt người “vợ


nhặt” về trình diện với bà nhưng nhà văn đã đem đến cho người đọc một nhân vật
có chiều dài cuộc đời và chiều sâu tâm lí với những am hiểu sâu sắc. Bà cụ Tứ
chính là điển hình cho hình ảnh người mẹ nông dân nghèo khổ, từng trải, hiểu biết,
nhân hậu, bao dung và rất mực thương con.


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

được miêu tả rất thực tế về tâm lí, người “vợ nhặt” tâm lí hiện lên rất sinh động
cịn bà cụ Tứ thì tâm lí diễn ra phức tạp. Nghệ thuật trần thuật mới mẻ, ngôi kể
theo cách truyền thống ở ngơi kể thứ ba, điểm nhìn trần thuật ln luôn di chuyển,
nhà văn đã để cho nhân vật tự dẫn dắt tiến trình của truyện. Giọng điệu hóm hỉnh,
đơn hậu. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, nôm na. Xuất hiện nhiều chi tiết đặc sắc: Chi
tiết “bát bánh đúc” cho thấy sự đói khổ có thể làm thay đổi nhân cách con người.
Chi tiết “nồi cháo cám” cho thấy tình thương bao la của người mẹ và tái hiện sự
thật đói khát đến mức chẳng cịn gì để ăn. Chi tiết “lá cờ đỏ sao vàng” tung bay
phấp phới cho thấy niềm tin của con người vào cuộc sống, khát vọng có một cuộc
sống ấm no và niềm tin vào cách mạng của người nông dân lúc bấy giờ. Tất cả
những đặc sắc nghệ thuật trên đã tạo nên một phong cách nghệ thuật riêng biệt của
Kim Lân với sở trường truyện ngắn này.


Qua tác phẩm, ta thấy được giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực được thể hiện một
cách sâu sắc. Ở giá trị nhân đạo, nhà văn đã dựng lại được bức tranh hiện thực
đương thời là con người trong nạn đói năm Ất Dậu. Nhà văn trân trọng và cảm
thông trước những số phận bị thảm, trước những ước mơ, những khao khát về hạnh
phúc gia đình của người nơng dân. Bên cạnh đó, nhà văn đã phát hiện và khẳng
định được vẻ đẹp của con người, vẻ đẹp của tình người trong cơn lốc của sự đói
nghèo. Và cuối cùng, nhà văn đã chỉ ra con đường cách mạng cho người nông dân,
chỉ có theo cách mạng thì con người mới có thể giành lại được cuộc sống ấm no
yên bình. Đối với giá trị hiện thực, nhà văn đã tái hiện được một thực trạng bi thảm
của chế độ Việt Nam trước cách mạng. Kim lân đã chọn một sự kiện lịch sử có thật
để làm chủ đề cho tác phẩm của mình. Mở đầu tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người
đọc tới bối cảnh của một miền quê trong những ngày đói, bóng dáng con người


tồn là chết chóc, thê lương, những bóng người “đội chiếu, dắt díu nhau lên xanh
xám như những bóng ma, nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, “người chết như ngả
rạ”, “khơng khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Hiện
thực cho thấy miền quê đó trong những ngày đói vơ cùng xơ xác, heo hút. Những
chi tiết đó đã cho thấy cái đói tràn lan như một nạn dịch. Nhà văn đã phản ánh chân
thực số phận cùng quẫn của con người trong nạn đói. Kim Lân đã hướng ngòi bút
vào việc khắc họa số phận cùng quẫn của con người trong nạn đói qua hình tượng
người vợ nhặt. Nhân vật Tràng, bà cụ Tứ là những con người nghèo khổ, đáng
thương. Truyện đã phản ánh rõ thảm cảnh của con người trong nạn đói và số phận
cùng quẫn của họ trước thảm cảnh. Nhà văn đã phản ánh hiện thực cơ bản đó là
lịng người dân hướng tới cách mạng. Dù hiện thực này chỉ nói thống qua ở đoạn
cuối của tác phẩm nhưng khiến cho ta nghĩ tới sự thay đổi hiện thực cuộc sống, đó
là cuộc sống ấm no hạnh phúc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

cho chúng ta những bài học về tình yêu thương, đùm bọc giữa những con người
cùng chung dòng máu Việt và một tinh thần lạc quan, yêu đời, hướng tới cách
mạng. Nhà văn đã ngợi ca truyền thống “tương thân tương ái” quý báu của dân tộc
Việt Nam ta. Và đặc biệt trong bối cảnh hội nhập của đất nước ta hiện nay, thế hệ
trẻ chúng ta cần giữ vững quan điểm “hòa nhập nhưng khơng hịa tan” và phát huy
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.


Qua tác phẩm “Vợ nhặt” nhà văn Kim Lân đã để lại dấu ấn đặc biệt trong lịng
người đọc. Nhà văn đã tái hiện thành cơng bối cảnh nạn đói năm 1945 qua các
nhân vật Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ với một niềm tin u, ln hi vọng vào
một ngày mai tươi sáng.


<b>Phân tích tác phẩm Vợ nhặt - Bài số 8</b>



Cùng với Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan,... Kim
Lân cũng là một trong số những cái tên nổi tiếng của nền văn học hiện thực Việt


Nam khi viết về đề tài người nông dân trước cách mạng tháng Tám, với ngịi bút
sâu sắc và cái nhìn thấu hiểu. Tuy nhiên khác với ngòi bút phê phán và tiếng cười
sâu cay của Vũ Trọng Phụng hay Nguyễn Công Hoan, khác với sự lạnh lùng, đau
đớn từng câu văn của Nam Cao. Các tác phẩm của Kim Lân không chủ tập trung
vào việc phản ánh hiện thực xã hội đương thời hay những nỗi đau thân phận, mà
tác giả dựa vào đó để làm nổi bật những giá trị nhân văn, vẻ đẹp tâm hồn nhân vật,
bộc lộ sức mạnh, ý nghĩa của những tình cảm cao quý như tình thân, tình yêu, thứ
làm thay đổi con người và cuộc sống của họ dẫu trong những hoàn cảnh khốn cùng
nhất. Đời sáng tác của Kim Lân ngắn, và ông không để lại nhiều tác phẩm, trong
đó nổi tiếng nhất phải kể đến Vợ nhặt, một tác phẩm tiêu biểu, đặc trưng cho
khuynh hướng sáng tác của tác giả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

bãi chợ cứ gào lên từng hồi khủng khiếp” như tiếng gọi của tử thần, cịn con người
thì đang bước dần từng bước chậm rãi đến nghĩa địa, tuyệt vọng và bất lực, những
con người ấy dường như đã nhìn thấy trước cái chết của mình, thậm chí “khó ai có
thể tin mình sống nổi”. Đó là một khung cảnh đầy bi thương và ám ảnh, được Kim
Lân tái hiện lại trong các dịng văn xen kẽ, ơng khơng tập trung làm nổi bật nó, mà
chỉ chấm phá trong một vài câu văn khiến người ta có cảm giác cái chết hiện diện
khắp nơi và nó dần trở thành lẽ thường trong giai đoạn ấy. Khơng ai lạ gì cảnh
người chết đói, thỉnh thoảng lại có một người ngã xuống, lúc đầu người ta cịn có
sức để đi chơn, sau nhiều quá chỉ cuốn chiếu lại để đó, cuối cùng là khơng có cả
chiếu để cuốn, thê thảm và ghê sợ vơ cùng. Có thể thấy rằng nhà văn Kim Lân
không hề né tránh hiện thực, nhưng quan trọng hơn giá trị của tác phẩm không nằm
ở chỗ phơi bày giá trị hiện thực mà là ở việc từ trong bóng tối của hiện thực tác giả
đã tìm ra ánh sáng của sự sống, ánh sáng của hy vọng, ánh sáng của tình người, của
niềm tim tốt lên từ những con người trong nạn đói ấy. Những con người đang
bám víu lấy cái sự sống mỏng manh, đang nỗ lực sống sót, dù rằng họ cũng như
những người dân ngụ cư khác “khó ai có thể tin mình sống nổi” đó là Tràng, thị, và
bà cụ Tứ.



</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41></div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

Sau đêm tân hôn, sáng hôm sau thức dậy trong lịng Tràng có nhiều điều thay đổi,
hạnh phúc đã khơi dậy trong Tràng ý thức, trách nhiệm bổn phận của người đàn
ơng trong gia đình. Anh dậy muộn, cảm thấy trong cơ thể hiện diện sự êm ái, lửng
lơ như từ một giấc mơ đi ra, cảm thấy ngỡ ngàng trước hạnh phúc mà mình đang
nắm giữ, nhận thấy cảnh tượng xung quanh thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa
được dọn dẹp sạch sẽ (đống quần áo rách như tổ đỉa thường vắt ở góc nhà, thì giờ
được đem ra sân hong khơ, hai ang nước dưới gốc ổi bình thường khơ cong thì bây
giờ đầy ắp nước, đống rác mùn được dọn sạch,...), thứ hai nữa là khơng khí trong
nhà bỗng trở nên ấm áp, vui vẻ lạ kỳ. Việc đó đã thức dậy trong Tràng nhiều cảm
xúc “cảnh tượng thật đơn giản bình thường, nhưng đối với hắn thật thấm thía cảm
động. Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”, rồi
“một nguồn vui sướng đột ngột tràn ngập trong lòng”. Từ những cảm xúc ấy Tràng
đã nhận thức được trách nhiệm của bản thân với cuộc sống, với gia đình “Bây giờ
hắn mới thấy hắn nên người. Hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con
sau này” và biến nó thành hành động “hắn chạy xăm xăm ra giữa sân. Hắn cũng
muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa căn nhà”, muốn cùng chung tay để nghênh
đón một tương lai tốt đẹp hơn. Từ chuyện có vợ, sự chuyển biến trong nhận thức
đã dẫn tới kết quả là sự khao khát, ước muốn đổi đời nhen nhóm lên trong tâm hồn
Tràng khi anh bắt đầu quan tâm đến chuyện ngoài xã hội (chuyện Thái Nguyên,
Bắc Giang nhân dân nổi lên cướp kho thóc của Nhật). Anh nghĩ về lần gặp Việt
Minh mà mình đã tránh né, rồi tự nhiên thấy tiếc rẻ, vẩn vơ khó hiểu, điều ấy
chứng minh rằng nếu được cho quay lại thời gian khi ấy, có lẽ Tràng đã không ngại
ngần mà gia nhập Việt Minh cùng đi phá kho thóc của Nhật, và trong tương lai,
nếu gặp lại cảnh ấy có lẽ Tràng cũng sẽ tham gia. Tác phẩm khép lại với hình ảnh
“đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” lẩn khuất ẩn hiện trong trí óc Tràng, đã
mở ra những hy vọng mới, những niềm tin, và giải pháp mới cho Tràng và cả
những người dân trong nạn đói năm 44-45.


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

nhiều vẻ đẹp đáng quý. Trước hết là vẻ đẹp của khát vọng sống mãnh liệt, như đã
phân tích tất cả những cử chỉ, ngôn ngữ hành động của thị đều có vẻ phản cảm và


đáng ghét. Thế nhưng nếu ta xoay góc nhìn một chút sang khuynh hướng nhân văn
nhân bản, thì có thể thấy rõ ràng rằng thị có những hành động, ngơn ngữ như vậy
tất cả chỉ vì khao khát được sống, được có miếng ăn cứu đói, thị khơng muốn chết,
đồng thời cũng bộc lộ khao khát được hạnh phúc, thị cũng muốn có một tấm chồng
để dựa dẫm lúc buổi khó khăn, đói kém. Vẻ đẹp thứ hai nữa của thị chính là vẻ đẹp
nữ tính được bộc lộ sau khi về làm vợ Tràng. Trên đường về nhà chồng, thị trở nên
thẹn thùng, bẽn lẽn như bất kỳ cô dâu mới nào ngày cưới, rón rén, e thẹn, lấy nón
che mặt, bởi ngại ngùng trước những ánh mắt xăm soi của dân làng. Khi bước về
nhà chồng, nhìn thấy căn nhà lụp xụp của Tràng thị đã không giấu nổi thất vọng
qua tiếng thở dài, thế nhưng khác hẳn với cái tính chỏng lỏn, đanh đá được mắt
trên chợ tỉnh, thị lại im lặng, quyết tâm cùng với chồng vun vén cho gia đình, chứ
khơng hề bng lời chê trách, thể hiện vẻ đẹp của sự chịu thương chịu khó, hy sinh
vốn có của người phụ nữ Việt Nam. Khi gặp gỡ tiếp xúc với mẹ chồng, thị trở nên
rất lễ phép, thưa hỏi đàng hoàng, nghiêm túc lắng nghe lời bà cụ Tứ chỉ dạy. Sau
đêm tân hơn thì thị trở thành một người phụ nữ đảm đang tháo vát, dậy sớm đem
quần áo ra phơi, gánh đầy hai ang nước, quét sân, trang hoàng nhà cửa, … quyết
tâm làm một người vợ hiền dâu thảo, xây dựng gia đình cùng với Tràng. Trong
ứng xử thị cũng trở nên rất tế nhị, thơng minh, khi bà cụ mang nồi “chè khốn” ra
với niềm vui mừng, thì bản thân thị cũng rất trơng mong vào món chè ngon ngọt,
thế nhưng khi ăn một miếng “mắt thị tối lại” - thị thất vọng, tuy nhiên thị cố giấu
sự thất vọng ấy đi, điềm nhiên ăn tiếp, khơng nhìn ai, cũng khơng nói câu gì để
tránh làm bà cụ Tứ tủi thân và làm mất khơng khí vui vẻ của gia đình. Một vẻ đẹp
nữa của thị đó chính là niềm tin vào tương lai tươi sáng, chính thị đã đem đến cho
cả gia đình một thơng tin mới, mở ra một lối thốt cho Tràng, bà cụ Tứ và đó cũng
là lối thốt chung của nhân dân ta dưới nạn đói năm Ất Dậu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

buồn mà bà còn lo lắng cho tương lai của Tràng và thị, không biết chúng liệu có
ni nổi nhau sống qua cơn đói khát này khơng. Cuối cùng bà cụ lại thấy mừng vì
thấy rằng may mắn thị có gặp phải bước đường đói khát nên mới lấy đến Tràng,
chứ khơng thì Tràng có lẽ phải chịu ế cả đời. Sau tất cả những tâm trạng cảm xúc


đan xen, bà cụ Tứ cuối cùng cũng lấy lại tinh thần, bộc lộ tình yêu thương con cái,
tấm lịng nhân hậu thơng qua cách hành xử với người con dâu. Đó là câu nói “Ừ
thơi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lắm” để chính thức
nhận thị làm dâu con trong nhà. Đồng thời bà cũng có những lời dặn dị, động viên
hướng các con vào một tương lai tươi sáng, giấu trọn nỗi buồn nỗi lo trong lòng để
truyền niềm tin, sự hứng khởi cho các con. Sau đêm tân hôn của các con, bà thay
đổi hẳn khơng cịn nỗi lo lắng, buồn rầu mà thay vào đó là niềm hy vọng tràn trề,
“cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”, xăm xắn thu dọn quét tước nhà
cửa. Trong bữa cơm đón dâu mới, bà là người nói nhiều nhất, lại nói tồn những
chuyện vui, suy tính chuyện làm ăn, ni gà,... Sau đó lại cố gắng nối dài niềm vui
cho các con bằng cách lật đật chạy đi lấy nồi cháo cám gọi bằng “chè khoán”, cố
xua đi bóng tối của cái đói và cái chết. Thế nhưng chúng lại càng trở nên rõ ràng
hơn, khi cái vị đắng nghét của cháo cám lan đây khoang miệng, nghẹn bứ trong cổ
của cả ba người.


Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân là một truyện ngắn hay và đặc sắc, từ việc phản
ánh hiện thực xã hội thơng qua nạn đói khủng khiếp năm 1944-1945, tác giả đã bộc
lộ những tư tưởng, giá trị nhân đạo sâu sắc. Ca ngợi, đề cao vẻ đẹp, khát vọng sống
còn của con người, cùng những niềm tin, hy vọng của họ vào một cuộc sống tốt
đẹp hơn. Đồng thời cũng bộc lộ niềm trân trọng, quý mến những thứ tình cảm giữa
con người với con người như tình thân, tình u, tình đồng loại,... thứ khơng bao
giờ bị dập tắt bởi sự khắc nghiệt của cuộc đời, thứ đã tiếp thêm cho con người sức
mạnh để tiến về phía trước.


<b>Phân tích tác phẩm Vợ nhặt - Bài số 9</b>



Nhà văn Pháp Napoluye từng nhận định: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta
lên, gợi cho ta những tình cảm cao q và can đảm khơng cần tìm ngun tắc nào
để đánh giá nó nữa, nó là cuốn sách hay do người nghệ sĩ có thực tài viết ra”.
Vâng, một tác phẩm hay luôn biết cách đưa tâm hồn con người tới địa hạt mới –


địa hạt của những yêu thương, những sẻ chia và những khát khao. Viết “Vợ nhặt”,
Kim Lân đã thể hiện niềm cảm thương trước số phận của con người cùng khát
vọng sống, khát vọng hạnh phúc của họ khi bị đẩy đến mức đường cùng của cái
đói.


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

đường cùng, đẩy họ đến bên bờ vực của cái chết. Chứng kiến thảm cảnh khủng
khiếp ấy, ngòi bút nhà văn cất lên tiếng đau của niềm cảm thương trước những số
phận bất hạnh. Đồng thời qua đó, ơng tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít
Nhật, phản ánh khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và niềm tin vào tương lai
tươi sáng của con người.


Ngay từ nhan đề bài thơ, nhà văn đã gây cho người đọc một sự tò mò bởi “Vợ
nhặt” tức là người vợ tự theo về nhà mà khơng cần cưới xin. Nhưng nhan đề ấy
cũng chính là “thắt nút” của câu chuyện, khắc họa một cách đầy đủ về số phận của
các nhân vật. Qua đó phản ánh số phận thê thảm và tủi nhục của con người trong
nạn đói khủng khiếp xảy ra vào năm 1945.


Truyện xoay quanh cuộc đời của nhân vật Tràng – một thanh niên nghèo khổ, xấu
xí nhưng chỉ với vài câu bông đùa và mấy bát bánh đúc mà nhặt được cơ vợ đang
sống dở chết dở vì đói. Họ kết mối nhân duyên giữa bóng đêm bao trùm của nạn
đói. Đêm tân hơn diễn ra âm thầm trong bóng tối lạnh lẽo với tiếng khóc tỉ tê của
những nhà có người chết theo gió vọng lại. Bữa cơm giản dị, thơ sơ với rau chuối,
cháo lỗng và muối. Mẹ chồng đãi con dâu và con trai bằng nồi chè nấu bằng cám.
Ba mẹ con xoay sang câu chuyện Việt Minh phá kho thóc Nhật chia cho dân nghèo
và kết thúc truyện bằng hình ảnh “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ
đỏ bay phất phới”.


Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm: “Tình huống truyện là một lát cắt của sự
sống, là một sự kiện diễn ra có phần bất ngờ nhưng cái quan trọng là sẽ chi phối
nhiều điều trong cuộc sống con người”. Viết “Vợ nhặt”, Kim Lân đã tạo ra một


tình huống hết sức độc đáo: anh chàng ngụ cư nghèo khổ, xấu xí, ế vợ như Tràng
mà lại nhặt được vợ chỉ bằng vài câu nói đùa và mấy bát bánh đúc. Điều đó không
chỉ gây ngạc nhiên cho những người dân làng, cho mẹ Tràng mà cịn cho chính bản
thân anh ta. Đây là một tình huống éo le, cảm động nhưng hợp lí bởi chính nạn đói
làm cho những mảnh đời cơ cực trôi dạt vào nhau họ mới nên vợ nên chồng. Qua
đó tình huống truyện đã làm nổi bật giá trị hiện thực cũng như giá trị nhân đạo: nạn
đói đẩy con người tới ranh giới của sự sống và cái chết khiến giá trị con người trở
nên rẻ rúng đồng thời làm nổi bật hình ảnh các nhân vật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo khiến cho cái xóm ấy mỗi lúc
chiều lại xôn xao lên một lúc. Nhưng niềm vui nhỏ nhoi ấy giờ khơng cịn nữa, nụ
cười tắt hẳn trên mơi chúng. Chúng ngồi ủ rũ dưới những xó đường, khơng nhúc
nhích. Cịn Tràng – nhân vật chính của truyện là một thanh niên ngụ cư nghèo, xấu
xí sống hiu quạnh với mẹ trong túp lều dựng trên mảnh vườn đầy cỏ dại. Sống với
kiếp dân ngụ cư, họ bị dân làng coi thường, khinh bỉ, làm công việc hèn hạ như
đầy tớ. Và giống như một định mệnh của kiếp nghèo khổ, chàng đã “nhặt” được
một người vợ – một người phụ nữ không tên, không tuổi, không quê quán, nhà cửa.
Thị ngờ nghệch bị cái đói đẩy ra ngồi đường, nhập vào dịng người tha hương cầu
thực, ngồi vêu ra ở kho thóc nhặt những hạt rơi hạt vãi. Bằng ngòi bút tả thực, nhà
văn đã khắc họa thành cơng bức tranh của “ngơi làng đói” trong năm 1945.


Nhưng chính trong cái “hiểm nghèo” ấy, con người đã bộc lộ những phẩm chất tốt
đẹp: Đó là tình u thương con người, niềm khao khát sống, khao khát hạnh phúc
và niềm tin mãnh liệt vào tương lai.


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Chỉ với hai chữ “mừng lòng” bà cụ đã coi
người con dâu đến với gia đình như một niềm vui. Bà kể về gia cảnh “Kể có ra làm
được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng mà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp
nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hịa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì
đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Lời nói tưởng có vẻ lẩm


cẩm nhưng lại rất nhân hậu chan hòa phá tan sự ngượng ngùng ban đầu.


Cùng với tình yêu thương, nhà văn thể hiện niềm khao khát hạnh phúc của con
người qua nhân vật Tràng và người vợ nhặt. Trước hết khao khát hạnh phúc của
Tràng thể hiện qua diễn biến tâm lí và hành động nhân vật. Tràng quyết định nhanh
khi đưa người phụ nữ xa lạ về làm vợ: “Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ: thóc
gạo sau này đến cái thân mình cũng chả biết có ni nổi khơng, lại cịn đèo bịng”
sau đó anh ta “chặc kệ”. Bên ngồi anh ta có vẻ hơi thiếu trách nhiệm, liều lĩnh
nhưng ở bên trong lại chứa đựng khát khao hạnh phúc thường trực lớn đến mức
giúp Tràng vượt lên trên cái đói và cái chết. Khi Tràng đưa vợ về xóm ngụ cư, dù
nghèo nhưng vẫn hào phóng khi đãi thị một bữa và mua cho một cái thúng. Niềm
hạnh phúc hiện lên trong con mắt và nụ cười tủm tỉm. Trong chốc lát Tràng đã
qn đi đói khát tình tứ đi bên người đàn bà của mình, họ nói chuyện với nhau có
vẻ chưa hết ngượng ngùng nhưng nhen nhóm hạnh phúc. Khi đưa người vợ nhặt về
nhà ra mắt mẹ, Tràng thanh minh cho sự tuềnh tồng của nhà mình do khơng có
bàn tay chăm sóc của người phụ nữ. Tràng muốn mọi sự tốt đẹp hơn khi có vợ,
muốn người phụ nữ đó ở lại với mình. Tràng lo lắng sốt ruột khi mẹ chưa về để
được công khai hạnh phúc của mình. Anh ta nhìn lén lút người phụ nữ kia, sợ thị
đến rồi lại đi, sợ hạnh phúc tuột khỏi tầm tay. Khi mẹ về, Tràng chủ động giới
thiệu với mẹ bắng hai chữ “nhà tôi”, “chúng tôi”, “ nhà tơi nó về nó làm bạn với
tơi”. Tâm lí của Tràng đã xóa tan sự căng thẳng trong buổi đầu gặp mặt, anh coi
đây là một việc nghiêm túc: muốn sống lâu dài với người phụ nữ. Buổi sáng hơm
sau thức dậy là thời điểm thích hợp để bộc lộ cảm xúc của Tràng. Một ngày mới
đến với cửa sổ tâm hồn mở ra một trang mới hạnh phúc hân hoan: “cảm thấy êm ái
lơ lửng như đi từ giấc mơ ra”. So với sự vô tâm mọi khi, hôm nay Tràng nhận thấy
sự khác lạ xung quanh mình. Anh ta thật hạnh phúc khi được sống trong khơng khí
giản dị, n bình của gia đình: vợ qt sân, mẹ dọn cỏ ngồi vườn. Cảnh tượng
bình dị ấy khơi gợi trong lòng Tràng cảm giác hạnh phúc gắn bó vơ cùng với mình.
Khơng những thế Tràng nhận thấy mình có trách nhiệm với gia đình hơn, hắn cũng
muốn bắt tay làm gì đó góp phần xây dựng hạnh phúc gia đình.



</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

cuộc sống với mẹ con Tràng: sáng hôm sau thị dậy sớm để thu vén nhà cửa. Nhờ
có đơi bàn tay của người vợ, mọi thứ hoang hóa bẩn thỉu đã bị đẩy lùi, căn nhà trở
nên đầm ấm hơn, thậm chí bản thân Tràng cũng thay đổi hẳn: trở thành người con
có hiếu và người chồng có trách nhiệm. Có thể nói càng trong hồn cảnh khó khăn,
con người càng trân trọng và tìm kiếm hạnh phúc.


Cùng viết về những người nông dân trong nghèo đói nhưng khác với nhà văn khác,
Kim Lân đã gieo vào trong tác phẩm của mình tư tưởng mới: Khi con người ta bị
đẩy tới bước đường cùng của cái đói, người ta muốn sống hơn muốn chết. Điều đó
được thể hiện rõ nét qua nhân vật người vợ nhặt và bà cụ Tứ. “Người vợ nhặt” vì
muốn thốt khỏi cái đói, cái chết, vì muốn tìm đến với sự sống mà đã liều lĩnh theo
Tràng về làm vợ. Niềm khao khát sống được nâng lên thành niềm khát khao hạnh
phúc làm thay đổi người đàn bà này từ một người chan chát thành người biết vun
vén cho hạnh phúc gia đình. Ở thị, sự sống mạnh hơn cả cái chết và thị làm mọi
cách để được sống và sống như một con người. Cùng với đó là niềm khao khát
sống của bà cụ Tứ. Dù lo lắng cho các con, dù xót xa cho cái khổ nhưng bà cụ vẫn
nén lịng mình lại động viên an ủi các con và cũng là động viên chính mình “ai
giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà cũng chủ động gây dựng cuộc sống cho mình và các
con. Bản thân bà cụ đã thay đổi hoàn toàn: khác với dáng đi lịm khịm và khn
mặt u ám hàng ngày bà cụ ra vào nhamh nhẹn rạng rỡ hẳn lên, bà nói chuyện vui,
bắt tay dọn nhà cửa. Tất cả thay đổi của bà cụ đều xuất phát từ tình yêu thương và
khát vọng sống.


Qua việc tái hiện bức tranh nghèo đói của con người cùng thế giới nội tâm nhân
vật, nhà văn tố cáo xã hội thực dân chèn ép, vùi dập con người đồng thời hướng
con người tới hướng đi đúng đắn: đến với cách mạng. Điều đó thể hiện qua suy
nghĩ nhạy bén của người vợ nhặt hướng về ánh sáng: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc
Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta cịn phá cả kho thóc của
Nhật, chia cho người đói nữa”. Hình ảnh kết thúc tác phẩm: “Trong óc Tràng vẫn


thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” như lời cảnh tỉnh của nhà văn về
con đường mà người nông dân cần đi: con đường cách mạng.


Truyện ngắn “Vợ nhặt” để lại những rung cảm trong lịng bạn đọc khơng chỉ bởi
niềm cảm thương, khao khát bình dị của con người mà còn bởi nghệ thuật độc đáo.
Nhà văn sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, giản dị mang đậm màu sắc của đồng bằng
trung du bắc bộ cùng cách xưng hô thân mật “u – tôi”, gọi vợ là “nhà tơi” gợi lên
khơng khí miền trung du với cuộc sống nghèo khó dân dã. Bên cạnh đó là nghệ
thuật xây dựng cốt truyện, tình huống hấp dẫn lơi cuốn bạn đọc ngay từ nhan đề.
Qua đó tác phẩm đã thể hiện khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc cùng niềm tin
vào tương lai tươi sáng của con người trong nạn đói.


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

Kim Lân, nhà văn chuyên viết truyện ngắn, với biệt tài viết về người nông dân.
Người nông dân trong trang viết của Kim Lân dù nghèo khổ nhưng luôn sáng ngời
những phẩm chất: yêu đời, thật thà, chất phác, hóm hỉnh, tài hoa. Vợ nhặt là một
trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông khi viết về người nông dân.


Tác phẩm là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất nằm trong tập truyện “Con
chó xấu xí” (1962). Tác phẩm này trước vốn là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” – được
viết ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công. Tuy nhiên chỉ được viết dở
dang và sau đó mất bản thảo. Đến năm 1954, khi hịa bình lập lại, nhân một số báo
văn nghệ kỉ niệm cách mạng tháng Tám thành công, Kim Lân đã nhớ lại tiểu
thuyết “Xóm ngụ cư”, dựa trên cốt truyện cũ viết lại thành truyện ngắn. Ngay từ
khi ra đời, tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn trong giới sáng tác.


Tác phẩm lấy bối cảnh là nạn đói năm Ất Dậu 1945, năm diễn ra nạn đói khủng
khiếp, khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Cái đói tràn lan, khủng khiếp diễn
ra ở khắp nơi khiến con người không thể nào chống cự được, tất cả những yếu tố
đó đã được Kim Lân tái hiện thành cơng trong tác phẩm của ông. Trước hết là màu
sắc, ông đi khai thác màu xanh xám của da người, màu đen kịt của đàn quạ bay


trên trời. Những màu sắc gợi lên sự chết chóc, ảm đạm, tàn lụi và héo úa. Bao
quanh khơng gian đó là mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người, mùi
đốt đống dấm khét lẹt. Kết hợp với tiếng quạ kêu từng hồi, hịa lẫn với tiếng khóc
hờ từ những gia đình có người chết.


Để làm rõ nét hơn, Kim Lân cịn cho người đọc thấy hình ảnh sáng nào cũng có ba
bốn thây người nằm chết cịng queo bên đường. Tình cảnh vơ cùng thảm thương,
bất hạnh. Kim Lân nhìn nhận hiện thực bằng cái nhìn chân thực, sắc nét, không né
tránh, phơi bày tất cả trên trang văn của mình, để người đọc thấy rõ cái khủng
khiếp của nạn đói năm 1945. Nhưng giá trị thật sự của tác phẩm là ở chỗ: từ trong
bóng tối của cái đói, cái chết, tác giả tìm thấy ánh sáng của vẻ đẹp tâm hồn con
người.


Sau khi vẽ nên khung hình chung của nạn đói, nhân vật đầu tiên trong thiên truyện
xuất hiện, đồng thời cũng là nhân vật trung tâm của tác phẩm – anh cu Tràng.
Tràng vốn là dân ngụ cư, sống tha phương cầu thực, những người dân ngụ cư
thường bị phân biệt, kì thị, sống ở rìa làng, chứ không được sống trong trung tâm
của làng như những người khác. Khơng chỉ vậy, họ cịn khơng được chia ruộng
đất, không được tham gia bất cứ hoạt động sinh hoạt cộng đồng nào của làng xã.
Anh cu Tràng bị đặt ra ngồi lề xã hội. Khơng dừng lại ở đó, gia đình Tràng cịn rất
nghèo, cha mất, chỉ con hai mẹ con nương tựa vào nhau, vì khơng được chia ruộng
nên Tràng phải làm công việc bấp bênh để kiếm sống: kéo xe bị th.


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

bóng chiều, cịn hai bên quai hàm bạnh ra, khiến khn mặt càng to lớn hơn. Thân
hình to lớn vập vạp, như một người khổng lồ. Tràng còn vừa đi vừa lảm nhảm
những điều mình nghĩ và cứ thể ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch. Anh cu Tràng
hội tụ đầy đủ vẻ đẹp hấp dẫn lũ trẻ con, còn với các cơ gái anh hồn tồn khơng có
chút hấp dẫn nào, cả về ngoại hình lẫn gia cảnh, anh cu Tràng khơng có khả năng
để lấy được vợ.



Nhưng trong một lần hát nghêu ngao trong lúc làm việc, anh cu Tràng đã lấy được
vợ một cách đầy bất ngờ và ngỡ ngàng. Trong lúc làm việc mệt nhọc, dân ta
thường có những câu hò để xua tan cái mệt, tăng động lực làm việc. Và anh cu
Tràng cũng vậy, anh cũng hát, lời hát hết sức bông đùa: “Muốn ăn cơm trắng với
giò. Lại đây mà đẩy xe bò với anh”. Lời nói ấy đã khiến thị theo anh cu Tràng về
làm vợ thật.


Trước khi đưa cô vợ về nhà, Tràng rất chu đáo, mua cho vợ một chiếc thúng con
mới, dẫn thị đi ăn một bữa thật no, mua những hai hào dầu để về thắp sáng trong
nhà. Anh cu Tràng từ một kẻ thơ kệch, lúc nào cũng nói chuyện một mình và cười
hềnh hệch, hơm nay bỗng trở nên tâm lí và tinh tế lạ thường. Trên đường đi về
Tràng vui sướng, hớn hở, miệng lúc nào cũng tủm tỉm cười. Khuôn mặt vừa hạnh
phúc, rạng rỡ vừa vênh vênh tự đắc với chính mình. Cảnh sống cực khổ ê chề hàng
ngày, Tràng đã quên hẳn, mà chỉ sống trong niềm vui, niềm hạnh phúc khi lấy
được vợ.


Bước chân đến nhà Tràng bỗng ngượng nghịu, xấu hổ, đứng tây ngây giữa nhà,
chợt thấy sờ sợ nhưng lại vừa hạnh phúc sung sướng khi việc mình lấy vợ đã trở
thành hiện thực. Điều Tràng mong ngóng nhất là đợi mẹ mình về nhà, để ra mắt
nàng dâu mới. Lời giới thiệu thị với mẹ cũng rất trân trọng, để nàng dâu bớt đi
phần ngượng ngùng, xấu hổ. Tràng đã thay đổi là một con người khác hẳn, tâm lí,
nhạy bén và rất khéo léo trong cách ăn nói. Dường như hạnh phúc mới này đã đem
đến sự thay đổi lớn trong tâm lí, suy nghĩ của anh cu Tràng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

Tràng muốn chung tay để nghênh đón tương lai tươi sáng đến với gia đình. Đồng
thời trong Tràng cũng bừng lên khát vọng đổi đời mãnh liệt, anh biết quan tâm đến
những chuyện ngoài xã hội: mạn Thái Ngun Bắc Giang khơng đóng thuế mà cịn
phá kho thóc Nhật cha cho người đói. Hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay
phấp phới lẩn khuất, ẩn hiện trong trí óc Tràng. Hình ảnh lá cờ chính là tín hiệu
cho tương lai tươi sáng. Người đọc tin tưởng Tràng sẽ đi theo Việt Minh, theo cách


mạng.


Xây dựng nhân vật Tràng, Kim Lân trước hết phơi bày cuộc sống khổ cực của
nhân dân ta trong nạn đói 1945. Nhưng đằng sau đó cịn là sự cảm thương cho số
phận họ. Trân trọng, phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp của người dân Việt Nam trong
tình cảnh khốn cùng: tấm lòng nhân hậu, khát khao hạnh phúc, tin tưởng vào tương
lai. Bên cạnh nhân vật Tràng, ta cũng không thể không nhắc đến nhân vật người vợ
nhặt. Người vợ nhặt khơng có lai lịch rõ ràng, khơng rõ tên tuổi, q qn, nghề
nghiệp và cũng khơng hề có tài sản gì khi lần đầu gặp Tràng. Có thể thấy rằng,
trong nạn đói khủng khiếp, thân phận con người trở nên hết sức vô nghĩa.


Lần thứ hai gặp Tràng, quần áo thị rác rưới, tả tơi như tổ đỉa, người gầy sọp đi vì
đói, mặt lưỡi cày xám ngt, ngực gầy và lép, hai con mắt sâu trũng hốy lại.
Ngoại hình thị vơ cùng thảm hại, do cái đói đã gây ra cho con người. Ngôn ngữ
của thị cũng hết sức chao chát, chỏng lỏn: “Điêu! Người thế mà điêu!”, “Ăn thật
nhá”, “Hà, ngon. Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”; rồi thì “Ton ton chạy lại”, “liếc
mắt cười tít”, “sầm sập chạy đến”, “xưng xỉa nói”, “cong cớn”, “cắm đầu ăn”, “ăn
xong lấy đũa quẹt một cái”. Thị tỏ ra là con người hết sức vô duyên, dường như cái
đói, cái chết có thể mài mịn nhân cách con người ta ghê gớm đến như vậy.


Nhưng đằng sau sự chỏng lỏn đến vô duyên ấy lại là một con người có khát vọng
sống vơ cùng mãnh liệt. Khi nhìn dưới góc độ nhân bản thì tất cả hành động, cử chỉ
trơ trẽn, vô duyên của thị lại là biểu hiện của khát vọng sống mãnh liệt. Bên cạnh
đó, thị cịn hiện lên với vẻ đẹp nữ tính, trên đường về nhà, thị rón rén, e thẹn: “Thị
cắp cái thúng con, cái đầu hơi cúi xuống; cái nón rách tả tơi nghiêng nghiêng che
khuất đi nửa mặt”. Khi về đến nhà chồng, thấy quang cảnh nhà chồng thị nén tiếng
thở dài, ngồi mớn ở mép giường và vô cùng lễ phép khi gặp mẹ chồng. Sáng hôm
sau cô dậy sớm cùng mẹ dọn dẹp, vun vén nhà cửa. Nhân vật thể hiện tư tưởng
nhân đạo sâu sắc của tác giả.



</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

chồng mới, nói những chuyện tương lai tốt đẹp, đem đến niềm tin, sự lạc quan cho
chúng. Bà là một người mẹ nhân hậu và hết sức yêu thương con.


Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học hiện
thực. Tác phẩm vừa cho thấy hiện thực cuộc sống nghèo khổ của nhân dân, đồng
thời ánh lên giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm thể hiện sự trân trọng, nâng niu
những ước mơ đổi đời của con người. Không chỉ vậy, tác phẩm cũng cho thấy
nghệ thuật phân tích tâm lí và miêu tả bậc thầy của nhà văn Kim Lân.


<b>Phân tích tác phẩm Vợ nhặt - Bài số 11</b>



Người ta vẫn thường nói rằng tác phẩm nghệ thuật là đứa con tinh thần của mỗi
nhà văn. Dù cùng một đề tài những mỗi nhà văn có những cách khai thác hiện thực
khác nhau. Đó chính là điểm làm nên phong cách của mỗi tác giả. Là một nhà văn
hiện thực xuất sắc, Kim Lân được biết đến không chỉ là tác phẩm Làng, mà còn rất
nhiều tác phẩm khác, nổi bật nhất chính là Vợ nhặt. Tác phẩm thể hiện tinh thần
nhân đạo sâu sắc của Kim Lân với những con người nghèo khổ.


Đọc Vợ nhặt ta được tiếp cận với biết bao thân phận tăm tối, cuộc đời họ đã bị đẩy
đến bước đường cùng. Nhân hình của Tràng, người vợ nhặt, bà mẹ đều méo mó
trước sức hủy diệt khủng khiếp của cái đói. Là sự thiếu thốn về vật chất đến cùng
cực. Nhưng chính từ nơi tối tăm, thiếu thốn nhất ấy, lại bừng lên tình người, tình
yêu thương con người mãnh liệt của những người cùng cảnh ngộ. Nhân đạo chính
là ở chỗ đó.


Bước chân vào tác phẩm, cái đói được tác giả khắc họa vô cùng rõ nét. Sự sống
của những con người, đặc biệt là xóm ngụ cư dường như ngàn cân treo sợi tóc,
thần chết sẵn sàng đến đưa họ đi bất cứ lúc nào. Cõi dương nhưng lúc nào cũng lởn
vởn âm khí, cái chết hiện hình ngay bên cạnh những người đang cịn sống. Nhưng
giữa nạn đói khủng khiếp đó, anh Tràng lại vẫn rất lạc quan, sự sống đối với anh


“chẳng bao giờ là chán nản”. Tràng được tác giả phác họa là chàng trai thơ kệch,
xấu xí “hai con mắt nhỏ tí” “lưng to như lưng gấu” tình tình lại khơng được khơn
ngoan, hay nói nhảm, nói một mình, đơi khi tự ngửa cổ lên trời mà cười hềnh hệch.
Không chỉ vậy, xuất thân của anh ta cũng rất đáng buồn, là dân xóm ngụ cư, cảng
được ai chú tâm, coi trọng. Quả thực anh cu Tràng đã là tận cùng của sự khổ sở và
đau đớn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

người thiện lương như Tràng chắc chắn sẽ không thẻ làm ngờ. Chỉ bằng bốn bát
bánh đúc cũng đã đủ se nên mối duyên trăm năm tình nghĩa vợ chồng. Có gì đó
như là chua xót, như là thương cảm cho cuộc hôn nhân của những con người cùng
khổ này. Dựng nên một tình thế éo le như vật dường như nhà văn đã đánh cược với
tất cả, để khẳng định, để tin tưởng vào tấm long nhân đạo, nhân văn ẩn sâu trong
mỗi con người.


Cái đói, cái chết cũng không thể hủy diệt khát khao hạnh phúc, khát khao có một
mái ấm gia đình trong lịng Tràng. Không chỉ vậy, với mái ấm này đã khiến Tràng
thay đổi hồn tồn. Đó là cảm giác sung sướng, hạnh phúc, lâng lâng “tựa hồ như
có ai vuốt nhẹ vào sống lưng”. Hạnh phúc của con người thật bình dị và đơn sơ, nó
có sức mạnh cải hóa con người, giúp con người ta sau một đêm tân hôn tuyệt vời
có thể thay đổi theo hướng tích cực đến như vậy: “Trong phút chốc Tràng quên tất
cả cảnh sống ê chề, tủi nhục”. Nhìn thấy ngơi nhà gon ghẽ, thấy người vợ quét
tước dọn dẹp, lại bừng lại trong Tràng khát vọng vun vén cho gia đình. Cuộc sống,
chao ơi sao mà dễ thương, yên ấm đến như vậy. Mặc dù ngay sau đó hiện thực lại
ấp thẳng xuống họ, với bữa cơm ngày đói vơ cùng thảm hại, nhưng ai cũng thấy
ngon, vì trong họ trào dâng niềm hạnh phúc, khát vọng về tương lai tốt đẹp.


Đọc tác phẩm này ta không thể không chú ý đến nhân vật bà cụ Tứ, một bà mẹ
khốn khổ, yêu thương con hết mực, bà chính là hình ảnh phản chiếu tiêu biểu cho
những bà mẹ Việt Nam. Nhìn thấy anh con mang một người đàn bà về nhà, bà vừa
lo lắng, vừa sợ hãi. Nhưng sau khi biết sự tình, bà cảm thơng và chúc phúc cho hai


người, rồi bà cịn tự trách mình khơng làm trịn trách nhiệm của một người mẹ. Có
người mẹ nào lại khơng muốn con mình, n ấm, hanh phúc. Nhưng vì hồn cảnh
mà chẳng thể cưới được vợ một cách tử tế cho con. Chính bà cũng tự hiểu: ôi,
người ra dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong
có con đàn cháu đống… con cịn mình lúc đói kém mới có được vợ … chúng mày
lấy nhau u cũng mừng lịng”. Bà khơng chỉ thương con trai mà thương cả người
con dâu kia. Chúng quả là những đứa trẻ đáng thương. Nhưng trong bà cũng không
thối dấy lên hi vọng “không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”. Rồi ba cịn vạch
ra những viễn cảnh tương lai đẹp đẽ cho đôi vợ chồng trẻ.


Nhân đạo trong tác phẩm Kim Lân cũng thật đặc biệt. Ông đẩy mỗi nhân vật đến
tận cùng của khổ sở, để rồi sau đó mở ra con đường, tương lai cho họ. Hình ảnh lá
cờ đỏ sao vàng xuất hiện cuối tác phẩm, đã mở ra một tương lai tươi sáng, giải
thoát cuộc đời của những con người dưới đáy xã hội. Giá trị nhân đạo của tác
phẩm được thể hiện rõ nét nhất ở chia tiết này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

<b>Phân tích tác phẩm Vợ nhặt - Bài làm 12</b>



Kim Lân là nhà văn của làng q Việt Nam có bí quyết viết chân chất, mộc mạc và
các hình ảnh nhân vật tiêu biểu cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào lịng
người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Tác
phẩm “Vợ nhặt” là 1 “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái tạo thành công
xã hội nghèo khổ, khốn cùng, bế tắc của người nông dân. Bằng văn pháp tả thực
Kim Lân đã xây dựng thành công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc sống bần cộng
giai đoạn đấy.


Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân xây dựng thương hiệu trong q trình quốc
gia đang rơi vào nạn đói năm 1945, đời sống dân chúng bần cùng, kẻ sống người
chết nham nhảm, ”người chết như nga ra, không buổi sáng nào người trong làng đi
chợ, đi làm ruộng không gặp ba bốn mẫu thây nằm cịng queo bên tuyến phố.


Khơng khí vấn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Quang
cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn đạt được chiếc đói đang hồnh hành, đời sống quần
chúng thê thảm.


Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống
của những điều khốn khổ, bần hàn nhất. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình huống
truyện thắt nút khiến cho nên cuộc thế của từng nhân vật.


Mở đầu tác phẩm, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn bước
đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa mủm mỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ sở
hữu vài chi tiết ấy, người đọc cũng đã tưởng tượng được diện mạo xấu xí của một
anh nơng dân nghèo rách mồng tơi. Từ ngày nạn đói hồnh hành, đám con trẻ
khơng buồn trêu tràng nữa, vì chúng đã khơng cịn sức lực. Quang cảnh buồn thiu,
đầy sợ hãi bao phủ lên xóm nghèo. Trong khung cảnh chiều tà, nghĩ suy của Tràng
được tái tạo “hắn bước đi từng bước mỏi mệt, chiếc ao nâu tàng vắt sang 1 bên
cánh tay. Tuồng như các lo lắng, cực nhọc đè nặng lên dòng lưng gấu của hắn”.
Với vài chi tiết điển hình, Kim Lân đã vé lên trước mặt người đọc hình ảnh người
dân cày nghèo đói, tả tơi, bộn bề lo lâu đến cơ cực. Tác giả đã thật khéo để xây
dựng nên tình huống truyện độc đáo, mới lạ, làm thay đổi thế cục của một con
người. Tình huống Tràng “nhặt” được vợ. Là “nhặt” được chứ chẳng hề lấy được.
Người đọc trông thấy sự thê thảm, bước trục đường cộng và đầy éo léo của con
người trong xã hội bấy giờ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

Giữa cái đưa vợ “nhặt” được về nhà, Kim Lân đã vun đắp nên khung cảnh quạnh
hiu, ảm đảm của xóm nghèo “từng trận gió trong khoảng cánh đồng thổi vào, ngăn
ngắt. Hai bên dãy phố, úp sụp, tối mịt, không nhà nào mang ánh đèn, lửa. Dưới gốc
đa, gốc gạo xù xì bóng các người đói dật dờ di chuyển lặng thầm như những bóng
ma. Tiếng quạ kêu trên mấy cây gạo ngồi bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”.
Khơng cịn gì thê thảm và hiu hắt hơn khung cảnh chiều tàn nơi xóm nghèo như
vậy. Mọi thứ tuồng như bị mẫu đói, cài nghèo đè nén đếm chìm nghỉm. Bằng ngòi


bút tả chân sinh động, Kim Lân đã gieo vào lịng người đọc đa dạng đau xót, đắng
cay cho các phận nghèo lận đận.


Điều đáng chú ý chính là cách thức các người láng giềng hỏi thăm Tràng về người
đàn bà đi bên cạnh tràng. Thực ra thấy lạ nên người ta mới hỏi, thì cũng hiểu ra, có
nhẽ là vợ Tràng, “nhìn chị ta thèn thẹn hay đáo để”. Người nữ giới bắt khơng cịn
ngoa ngoắt, đanh đá nữa mà phát triển thành thẹn hậu sự lúc quyết định theo Tràng
về làm vợ. Làm vợ một cách bất thần, giữa cảnh đói như ngả rạ. Có lẽ cái đói
nghèo đã đẩy hai con người đến có nhau, chẳng hề ái tình nhưng là tình thương.
Hẳn người đọc sẽ thơng cảm và xót thương cho các mảnh đời dật dờ nơi xóm cư
ngụ.


Lúc trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến và
sự chuyển đổi trong tâm tinh thật tài giỏi và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn tấm
lòng 1 người mẹ bao dung và nhân từ. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước theo con
vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người nữ giới ở trong…” Sự băn
khoăn lo âu của bà cụ bắt đầu hiển lên. Nhưng rồi bà cũng nhận ra, cũng hiểu “bà
lão cúi đầu nín im, bà lão hiểu rồi. Lịng người mẹ nghèo khổ đấy còn hiểu ra bao
nhiêu cơ sự, vừa ai ốn, vừa xót xa cho số kiếp con mình. Chao ơi người ta dựng
vợ gả chồng cho con là trong khi khiến ăn nên nổi, cịn mình…” các suy nghĩ chua
xót của bà lão được Kim Lân diễn tả qua một loạt động từ tình thái làm cho loại
khổ, cái đói lại vồ vập và hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết.


Bà đã chấp nhận người “vợ nhặt” của con trai. Cảnh huống làm người đọc nhớ
mãi, hình ảnh khiến người đọc khi nhắc tới tác phẩm này đều khơng qn là hình
ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu dầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo
cám” là hiện thân của mẫu nghèo đói đến cơ cực trong một gia đình “khơng cịn gì
trị giá nữa”. Bà cụ Tứ hôm nay thay đổi tâm trạng, tồn kể các chuyện vui trong
nhà, vì bà muốn mang lại khơng khí vui tươi hơn giữa mẫu nghèo. Hình ảnh “nồi
cháo cám” hiện lên bình dị, đầy chua xót và nước mắt của người mẹ nghèo. Người


nào cũng muốn sở hữu một bữa cơm đón dâu với mâm cao, cỗ đầy trong ngày rước
dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu
thương bà sở hữu thể đem đến cho con.


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

truyện ngắn đã đem đến chút niềm tin và hi vẳng về một tương lai tươi sáng hơn.
Bằng ngòi bút mô tả trung thực, sinh động, cách thức khắc họa tâm lý nhân vật sắc
sảo, độc đáo và cốt truyện đầy bất ngờ Kim Lân đã vẽ lại trước mắt người đọc
khung cảnh đói nghèo tràn lan của xã hội Việt Nam những năm 1945. Qua ấy tác
giả cũng nhấn mạnh tình u thương giữa người có người ln bạt mạng.


<b>Phân tích tác phẩm Vợ nhặt - Bài làm 13</b>



“Vợ nhặt” là tác phẩm ưu tú của nhà văn Kim Lân, viết về cuộc sống nghèo đói,
khổ cực và khát vọng về hạnh phúc tương lai tươi sáng của người nơng dân Việt
Nam trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Qua đây tác giả cũng bày tỏ sự cảm
thông với những số phận bất hạnh của những con người đói khổ trong thời chiến
và yêu thương, quý trọng đối với những ao ước giản dị của họ, từ đó tạo nên sự
đồng cảm và suy nghĩ trong lòng người đọc.


Ngay từ nhan đề “Vợ nhặt”, tác phẩm đã gợi lên sự tị mị và từ đó dẫn dắt người
đọc khám phá về cuộc sống của những con người đói khổ, bần hàn nhất. Chuyện
dựng vợ gả chồng vốn là một chuyện hệ trọng của cả một đời người, chính vì thế
việc này cần được xem xét kĩ lưỡng vậy mà ở đây lại là “vợ nhặt”. Cưới vợ mà lại
gọi là nhặt vợ được sao? Một con người được “nhặt” về rồi trở thành vợ gợi cho
người ta liên tưởng đến việc nhặt một món đồ, như thể một thứ gì đó được lượm lặt
một cách vơ tình và ngẫu nhiên từ ngoài đường. Chỉ riêng nhan đề tác phẩm mà tác
giả cũng đã để lại sự ám ảnh đối với người đọc. Điều gì đã khiến cho con người ta
trở nên rẻ rúm như vậy? Kim Lân chính là đã mượn chuyện nhặt vợ để nói lên một
vấn đề khác. Đó chính là cái đói, cái nghèo của người nơng dân trước Cách mạng.
Khi đó, chính cái đói nghèo đã khiến cho con người lâm vào tình cảnh đáng


thương đến như vậy.


Nhan đề cũng đã một phần hé lộ tình huống truyện độc đáo. “Vợ nhặt” chứ khơng
phải cưới xin đình đám gì. Hẳn là một con người mà chẳng khác nào một món đồ
vứt chỏng chơ ngồi đường và vơ tình có người “nhặt” về. Mà đúng thế thật. Anh
cu Tràng chỉ với vài câu “tầm phơ tầm phào” mà có người phụ nũ theo về làm vợ.
Khốn nỗi anh ta có bảnh bao, hấp dẫn gì: vừa xấu trai, vừa dở hơi, lại vừa là dân
ngụ cư nghèo kiết xơ kiết xác. Vậy mà Tràng lại có vợ. Tràng cưới vợ, đúng hơn là
nhặt được vợ giữa cái cảnh đói khát khốn cùng này. Tình huống truyện thật đầy bất
ngờ mà cười ra nước mắt. Qua tình huống này, các nhân vật đều bộc lộ những tâm
trạng, tính cách nổi bật, giúp người đọc hiểu rõ hơn về nhân vật, về hoàn cảnh cũng
như số phận của con người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

Giời đất này cịn lơi cái của nợ đời về. Biết có ni nổi nhau qua cái thì này
khơng?”.


Mẹ Tràng, bà cụ Tứ, là người hiểu rõ tình cảnh của nhà mình, con mình nhất cho
nên càng khó tin Tràng có vợ. Thấy người đàn bà lạ đứng ở đầu giường con mình,
bà cụ cứ ngơ ngác tự hỏi: “Quái sao có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Sao lại
chào mình bằng u? Ai thế nhỉ?” Cái ngạc nhiên, nghi vấn của bà cụ cũng dễ hiểu
bởi lẽ, nghèo như con trai bà thì ai thèm lấy. Vả lại trong cơn đói khát thế này,
ni thân cịn chả nổi, lấy gì ni vợ ni con?


Khi đã hiểu đã ra vấn đề thì “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà cụ rỉ xuống hai dòng
nước mắt”. Trong lòng người mẹ nghèo hiểu ra biết bao nhiêu là cơ sự. Bà mừng
vì con trai bà dù sao cũng đã có vợ, nhưng buồn tủi vì “người ta có gặp bước khó
khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình cũng mới có vợ
được..”.


Đối với Tràng, bản thân anh cũng rất lấy làm lạ. Nhìn vợ ngồi ngay giữa nhà, anh


“vẫn cịn ngờ ngợ như khơng phải thế”. Lịng người mẹ lo nghĩ bao nhiêu thì anh
cu Tràng lại vơ tư bấy nhiêu. Mới đầu cũng “chợn” nghĩ nhưng rồi anh chặc lưỡi
“mặc kệ”. Trên đường đưa vợ về nhà, thấy người ta tị mị nhìn ngó, “hắn lại lầy
làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình’. Việc có vợ đối với Tràng
đột ngột và hạnh phúc tới mức đến sáng hơm sau anh vẫn cịn thấy “trong người
êm ái lơ lửng như người ở trong giấc mơ đi ra”.


Trái ngược với tâm trạng hân hoan của Tràng, lo lắng của bà mẹ thì có lẽ người
phụ nữ làm vợ Tràng lại cảm thấy buồn tủi nhất. Lấy chồng là chuyện thiêng liêng,
là trao gửi cả cuộc đời của mình cho một người đàn ơng mà mình tin tưởng. Vậy
mà ở đây thị nào có biết Tràng tốt xấu ra sao. Chỉ một câu hò bâng quơ và bốn bát
bánh đúc là “đủ tin tưởng” để theo về nhà người ta. Cái đói đã đẩy con người ta
đến chỗ chẳng cịn biết xấu hổ là gì, mất hết ý thức tự trọng, nhận ra mình khơng
hơn gì rơm rác cọng cỏ mà người ta có thể lượm nhặt vu vơ nơi đầu đường xó chợ.
Thế nhưng buổi sáng hơm sau, khi Tràng nhìn thấy thì chị ta đã trở thành một
người vợ hiền, một cô dâu thảo, khác hẳn với cái vẻ chao chát hôm đầu tiên Tràng
gặp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

“Vợ nhặt” đã làm sáng lên trên cái nền đen tối ảm đạm ấy sức sống, khát vọng về
mái ấm gia đình và sự nương tựa, che chở cho nhau của những người lao động
nghèo khổ, sáng lên niềm hy vọng của họ về một tương lai tốt đẹp hơn.


Tràng đã nhận thấy mình gắn bó với căn nhà, thấy mình “có bổn phận phải lo cho
vợ con sau này” và nghĩ đến một tương lai “cùng vợ sinh con đẻ cái” rồi ăn nên
làm ra. Bà cụ Tứ cũng “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo, u
ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Bà cịn tính “khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. […]
ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho xem”. Ánh sáng của hơi ấm
hạnh phúc gia đình giữa lúc nạn đói hồnh hành, giữa nồi cháo cám đắng chát
nhưng nó vẫn làm cho thị cảm thấy vui vẻ và hiền dịu hơn. Từ đây, thị sẽ cùng
chồng chăm lo, vun vén cho gia đình những mong một ngày số phận sẽ mỉm cười


rộng lượng hơn.


Viết về nạn đói năm 1945, khắc họa thực tế cảnh người chết đói như ngả rạ, thế
nhưng Kim Lân không đi vào những cảnh thương tâm như thế mà qua sự việc anh
cu Tràng nhặt được vợ để làm nổi bật tinh thần nhân đạo, nhân văn cao cả. Vượt
lên trên tất cả những lo lắng, tủi hờn là niềm hạnh phúc và tình yêu thương của con
người bừng sáng. Với truyện ngắn này, Kim Lân đã bày tỏ sự yêu quý sâu sắc đối
với những người nghèo khổ nhưng giàu lòng nhân ái. Tác phẩm đã khẳng định
rằng: cái đói khát, chết chóc khơng thể giết chết được niềm tin vào cuộc sống. Ở
nơi tối tăm nhất, nghèo đói nhất thì con người ta vẫn biết cách nương tựa vào nhau
mà vượt qua để hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn.


<b>Phân tích tác phẩm Vợ nhặt - Bài làm 14</b>



Kim Lân là một trong số những nhà văn xuất sắc viết về nông thôn và nông dân
Việt Nam trong nền văn học hiện đại với những tác phẩm độc đáo tỏng cách xây
dựng tình huống truyện, cách xây dựng và miêu tả nhân vật. Và có thể nói, truyện
ngắn Vợ nhặt – rút từ tập Con chó xấu xí là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong
cách sáng tác của ông.


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

truyện mới lạ, bất ngờ nhưng cũng đầy éo le gây nên sự ngạc nhiên cho biết bao
người nhưng cũng chính tình huống ấy đã góp phần khơng nhỏ vào việc thể hiện
giá trị hiện thực của tác phẩm – sự rẻ rúng, bèo bọt của thân phận con người ngay
trong nạn đói.


Khơng chỉ thành công trong việc lựa chọn nhan đề và tạo dựng tình huống, Vợ
nhặt của Kim Lân cịn hấp dẫn bạn đọc trong cách xây dựng nhân vật và chắc hẳn,
những ai đã đọc tác phẩm này sẽ không thể nào quên nổi nhân vật Tràng. Không đi
sâu miêu tả ngoại hình của nhân vật nhưng Kim Lân đã có những nét vẽ đủ để
chúng ta nhận thấy Tràng là một chàng trai ngụ cư xấu xí với“dáng người thô kệch,


cái cười khềnh khệch”, “lưng Tràng như con gấu”, “quai hàm bạnh ra”. Có lẽ ở
Tràng hội tụ đầy đủ những yếu tố để ế vợ, ấy vậy mà ai ngờ đâu chính trong cái
nạn đói khủng khiếp năm 1945 Tràng lại được một người phụ nữ theo không về
nhà làm vợ. Và cũng chính sự kiến ấy đã làm cho những dịng cảm xúc của Tràng
có sự thay đổi theo thời gian. Tràng và thị quen nhau thật tình cờ, chỉ vài ba câu hị
vui ấy vậy mà thị theo Tràng về nhà thật “Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ
đằng ấy có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Thị theo về nhà, trong
lịng Tràng chắc hẳn có niềm hạnh phúc đang len lỏi nhưng rồi cũng có lúc Tràng
lo sợ, hắn “chợn nghĩ” nhưng rồi Tràng lại “tặc lưỡi: chậc kệ”. Cái tặc lưỡi ấy của
Tràng không phải là cái tặc lưỡi của kẻ bất lực, muốn buông xuôi tất cả mà Tràng
chậc lưỡi bởi với Tràng trong giờ phút này đây mọi niềm vui và khát vọng hạnh
phúc đã lấn át và lớn hơn tất cả. Và để rồi, trên đường đưa vợ về nhà, niềm hạnh
phúc, vui sướng ấy của Tràng như càng nhân lên gấp bội và phát lộ rõ rệt ra dáng
vẻ bên ngoài của hắn ““vẻ mặt có cái gì đó phớn phở”, “hắn vừa đi vừa tủm tỉm
cười nụ một mình”, “mắt sáng lên lấp lánh”, “cái mặt vênh lên tự đặc với mình”.
Nếu như, trên đường đưa vợ về nhà trong Tràng ánh lên niềm hạnh phúc khôn
nguôi, Tràng như đang đắm chìm trong men say của hạnh phúc thì lúc về tới nhà
Tràng lại ngượng nghịu, “đứng tây ngây ra giữa nhà” rồi có cái gì đó lo lắng, có lẽ
Tràng sợ mẹ mình sẽ khơng đồng ý “nàng dâu mới”. Nhưng rồi, lời giới thiệu của
Tràng với mẹ mình về sự xuất hiện của thị “kìa nhà tơi nó chào u” – một lời giới
thiệu chan chứa bao nghĩa tình. Đặc biệt, tâm trạng của Tràng đã thực sự thay đổi
trong buổi sáng ngày hôm sau. Tràng thấy “êm ái lửng lơ như người trong cõi mơ
đi ra”, “cảm động, thấy u thương, gắn bó và thấy mình phải có trách nhiệm với
cái gia đình này” sau một đêm đắm mình trong tình u, hạnh phúc. Và có lẽ chính
sức mạnh của tình yêu, của hạnh phúc đã khiến Tràng thay đổi và thêm yêu, thêm
tin tưởng vào hạnh phúc gia đình và một tương lai tươi sáng hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

của thị. Chắc hẳn, những ai đã từng một lần đọc Vợ nhặt sẽ khơng thể nào có thể
qn được những chi tiết nhà văn Kim Lân miêu tả ngoại hình của thị “khn mặt
lưỡi cày xám xịt”, “áo quần rách như tổ đỉa”, “cái nóm cà tàng che nửa khuôn


mặt”, “cái ngực gầy tẹp lép nhô lên”. Ngoại hình ấy của thị có lẽ là minh chứng rõ
ràng nhất cho cái đói đang hồnh hành. Và có lẽ cũng chính nạn đói khủng khiếp
ấy đã khiến thị có những hành động “chao chát”, “chỏng lỏn” nhưng xét đến cùng
đấy là chứng tích của cái đói. Đó là cái hành động thị đon đả “ăn thật nhá…”, “sà
xuống ăn một chặp bốn bát bánh đúc”, “ăn xong cầm dọc đũa quệt ngang miệng
“Hà! Ngon!”. Thế nhưng, khác với dáng vẻ bên ngoài ấy, người đọc sẽ dễ dàng
cảm nhận được sự tinh tế, ý tứ, e dè của thị trong lúc theo Tràng về nhà làm vợ.
Trên đường theo Tràng về nhà, thị có cái gì đó ngượng nghịu đến nỗi “chân nọ
bước díu cả chân kia”. Thêm vào đó, khi về đến nhà, thị “nén tiếng thở dài, nhếch
mép cười nhạt nhẽo”, “ngồi mớm ở mép giường”,… Những hành động ấy của thị
đã làm toát lên sự e dè, ý tứ ở người phụ nữ có vẻ ngồi chao chát, chỏng lỏn
tưởng chừng như có cái gì đấy vô duyên. Đặc biệt, nét đẹp tâm hồn, sự ý tứ của thị
được thể hiện rõ nét trong buổi sáng hôm sau, thị “dậy sớm quét dọn nhà cửa, sân
vườn, phơi quần áo, “trong bữa sáng: nói nhỏ nhẹ, đúng mực, lễ phép”,… Như
vậy, thị chính là sự hiện thân cho cái đói, cái nghèo khổ trong những ngày khủng
khiếp của nạn đói những năm 1945. Nếu như cái đói làm cho người phụ nữ mất đi
những nét đặc trưng của họ thì chính tình u, hạnh phúc đã đem đến cho họ sức
sống mới, để được sống với con người thật của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

dù cơ cực, lam lũ, nghèo khổ nhưng vẫn ln tràn đầy tình u thương và tinh thần
lạc quan.


Tóm lại, truyện ngắn Vợ nhặt với việc xây dựng tình huống truyện độc đáo, nghệ
thuật trần thuật linh hoạt và cách xây dựng, miêu tả nhân vật đã vẽ nên bức tranh
hiện thực về cuộc sống và số phận của người lao động trong nạn đói khủng khiếp
năm 1945. Đồng thời, tác phẩm cũng thể hiện rõ nét tấm lòng nhân đạo của nhà
văn Kim Lân – bài ca ngợi ca tình người và khẳng định những giá trị, phẩm chất
tốt đẹp của con người.





---Mời các bạn tham khảo thêm các bài viết dưới đây của chúng tôi:


Soạn văn 12 ngắn gọn


Tác giả - Tác phẩm Ngữ Văn 12
Phân tích tác phẩm lớp 12


</div>

<!--links-->

×