Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Tải Ngữ văn lớp 6: Phân tích truyền thuyết Thánh Gióng - Tài liệu Ngữ văn lớp 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.06 KB, 10 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Bài tha khảo 1</b>


<b>PHẦN MỞ ĐẦU</b>



<b>1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI</b>



Thời đại Hùng Vương là thời đại có thật trong lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc nhưng chưa
có chính sử ghi chép lại một cách đầy đủ. Thời đại Hùng Vương tồn tại, đồng hành gắn liền với sự
phát triển văn hóa Việt Nam bởi hiện đang tồn tại và lưu giữ một kho tàng văn hóa Hùng Vương
mà trong đó mảng truyền thuyết dân gian chiếm vị trí quan trọng. Truyền thuyết dân gian Hùng
Vương là linh hồn sống động góp phần to lớn tạo ra diện mạo Văn hóa Hùng Vương. Truyền
thuyết dân gian là những câu chuyện được lưu truyền trong dân gian, là nhịp cầu nối quan trọng
kết nối giữa các thế hệ hôm nay với quá khứ truyền thống tốt đẹp của cha ơng. Mặc dù cịn những
nét mộc mạc, dung dị không cầu kỳ nhưng truyền thuyết dân gian đã phản ánh đa dạng cuộc sống
sinh hoạt và truyền thống đạo lý tốt đẹp của cha ông từ ngàn đời xưa. Các truyền thuyết dân gian
thời Hùng Vương đã ăn sâu, bắt rễ trong đời sống tinh thần của nhân dân, mỗi làng, xã. Truyền
thuyết dân gian Hùng Vương đã tồn tại đồng hành cùng những bước thăng trầm với lịch sử dân tộc
Việt Nam, đã xây dựng truyền thống yêu nước, thương dân, hình thành nên cốt cách tâm hồn con
người Việt, hàm chứa những khát vọng về cuộc sống của cư dân Văn Lang với nền văn minh sông
Hồng – văn minh trồng lúa nước.


Mặc khác dựng nước và giữ nước là nội dung cơ bản, xun suốt tồn bộ tiến trình lịch sử Việt
Nam. Kể từ khi hình thành quốc gia, dân tộc đến nay, trải qua hàng ngàn năm, nhân dân ta đã kiên
cường, bền bỉ chống lại các thế lực xâm lược, đơ hộ để giải phóng và bảo vệ Tổ quốc. Lịch sử
hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã sản sinh ra một văn hóa giữ nước Việt Nam. Rồi đến
lượt chính văn hóa giữ nước ấy, góp phần quyết định cho lịch sử dựng nước và giữ nước vẫn là
dòng chảy liên tục từ quá khứ tới hiện tại và tương lai, giữ cho dân tộc Việt Nam mãi trường tồn.
Chúng ta biết rằng, thời đại Hùng Vương có nhiều truyền thuyết được loan truyền mãi trong dân
gian thể hiện rõ tinh thần đoàn kết của cộng đồng các dân tộc Việt: Lạc Long Quân- Âu cơ, Trầu
Cau, Sơn tinh- Thủy Tinh…Truyền thuyết Thánh Gióng-Phù Đổng Thiên Vương, khoảng thời kỳ
Vua Hùng Vương thứ sáu là một trong những truyền thuyết dân gian được lưu truyền rộng rãi, nói
về lịng khao khát độc lập, tự do của người Việt Nam ta.



Vì những lý do trên, người nghiên cứu quyết định chọn đề tài: “<i>Phân tích truyện Thánh Gióng</i>
<i>theo loại hình học</i>” với mong muốn góp phần bảo tồn truyền thống dựng nước, giữ nước, đó là
những giá trị truyền thống cần được gìn giữ và phát huy


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>2.1. Mục đích</b>


Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích, tìm ra ý nghĩa, giá trị của truyện và tinh thần dân tộc
việt nam thể hiện qua truyền thuyết dân gian Thánh Gióng


<b>2.2 Nhiệm vụ</b>


Phân tích nội dung truyền thuyết dân gian Thánh Gióng, từ đó cho thấy tinh thần dân tộc việt nam
thể hiện qua truyền thuyết dân gian thánh gióng


<b>3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU</b>



Truyền thuyết dân gian Thánh Gióng, mơtíp và ý nghĩa của truyền thuyết này

<b>4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU</b>



Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp quy nạp – diễn dịch, phương pháp
phân tích tổng hợp


<b>PHẦN NỘI DUNG</b>



<b>1. TĨM TẮT TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN THÁNH GIÓNG</b>



Thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có cặp vợ chồng ơng lão tuy chăm chỉ làm ăn và nổi
tiếng là phúc đức nhưng khơng có con. Một hơm, bà vợ đang làm đồng thấy một vết chân to liền
ướm chân vào. về nhà bà mang thai và sau mười hai tháng thì sinh ra một bé trai khơi ngơ tuấn tú.


Điều kì lạ là mãi lên ba tuổi, cậu bé vẫn chưa biết đi, chảng biết nói, biết cười.


Khi giặc Ân xâm phạm bờ cõi, vua Hùng cho người đi tìm nhân tài cứu nước. Cậu bé cất tiếng đầu
tiên và cũng là lời xin được đi đánh giặc. Cậu bé yêu cầu sứ giả về tâu vua sắm cho cậu ngựa sắt,
roi sắt và áo giáp sắt. Từ đó cậu lớn nhanh như thổi. Sau khi ăn hết bảy nong cơm, ba nong cà do
bà con hàng xóm gom góp, cậu bé vươn vai thành một tráng sĩ, mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt,
cầm roi sắt xông ra trận diệt giặc. Trong lúc đánh giặc, roi sắt bị gãy, tráng sĩ nhổ những bụi tre
ven đường làm vũ khí đánh giặc.


Dẹp xong giặc Ân, tráng sĩ một mình một ngựa lên đỉnh núi rồi bay lên trời. Để’ tưởng nhớ công
ơn tráng sĩ, nhân dân lập đền thờ, hàng năm tổ chức hội làng để tưởng nhớ. Những dấu tích của
trận đánh năm xưa vẫn còn lưu lại trên mặt đất, trên những bụi tre nơi cậu bé diệt giặc.


<b>2. PHÂN TÍCH TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN THÁNH GIĨNG</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Với chủ đề đánh giặc cứu nước , truyện Thánh Gióng nằm trong hệ thống truyện dân gian thời
Hùng Vương dựng nước. Chủ đề chống ngoại xâm là một chủ đề quan trọng bên cạnh chủ đề
chống thiên nhiên.


Từ truyện Thánh Gióng mở đầu cho truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm, toát lên tinh tinh
thần chủ đạo của dân tộc ta, toát lên bản lĩnh của dân tộc ta ngay từ buổi đầu dựng nước, đó là ý
thức mãnh liệt về đọc lập, tự do và truyền thống đấu tranh bất khuất.


Kết cấu của câu chuyện cũng thể hiện ý thức mãnh liệt và truyền thống tốt đẹp đó của dân tộc. Bố
cục của truuyện có thể chia thành 3 phần:


(1) Với ý thức cảnh giác cao, Hùng vương chuẩn bị chu đáo để đối phó với giặc


(2) Với chủ trương cầu hiền và đoàn kết dân tộc, Hùng vương được Thánh Gióng giúp sức đã đánh
giặc thắng lợi



(3) Hùng vương và tồn dân ghi nhớ cơng ơn của Thánh Gióng


<b>2.2. Mơ típ truyền thuyết</b>


Gióng là nhân vật trung tâm của truyện, mang tính cách anh hùng từ lúc sinh đến lúc hố thân.
Mơ típ ra đời của Gióng là sự ra đời kì lạ. Bà mẹ Gióng ướm chân vào vết chân khổng lồ, về nhà
mang thai sinh ra Gióng. Đó là hình thức giao tiếp kì lạ giữa thần linh và con người, phản ánh
nguồn gốc kì ảo của nhân vật. Chi tiết đó mang tính dự báo về cuộc đời và chiến cơng kì lạ của
nhân vật ở chặng sau. Nguồn gốc kì ảo là tiền đền cho việc nhân vật có chiến cơng và kì tích phi
thường.


Mơ típ sự hố thân của Gióng: Cuối truyện Gióng cưới ngựa lên đỉnh núi Sóc, cởi áo giáp sắt vắt
lên cây, rồi cả người và ngựa bay về trời. Trong ngôn ngữ dân gian “về trời” và chết nhưng nhân
dân khơng để cho Gióng chết mà biến nhân vật thành bất tử. Gióng bay về trời, trở thành một
trong những vị thánh bất tử (Một trong Tứ bất tử), được mn đời thờ phụng. Như vậy, Gióng
khơng chết mà sống mãi trong tâm thức dân gian. Hình tượng đẹp đẽ, lí tưởng và cao cả đó có sức
giáo dục lan toả to lớn, giáo dục ý thức về lịch sử, ca ngợi một biểu tượng đẹp đẽ, động viên tinh
thần đấu tranh của muôn thế hệ sau.


<b>3. Ý NGHĨA, GIÁ TRỊ CỦA TRUYỀN THUYẾT</b>



<b>3.1. Truyện Thánh Gióng đánh dấu một mốc trưởng thành của dân tộc ta thời</b>


<b>Hùng vương dựng nước</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

rồi các quan, sứ giả làm nhiệm vụ thơng tin… Thánh Gióng được cử làm tướng, đi theo ơng có
hàng trăm người khác (Vùng Bắc Ninh có hệ thống nhân vật anh hùng đi theo Gióng)


Truyện đã thể hiện ý thức bảo vệ độc lập , tự do và bài học cảnh giác về đánh giặc giữ nước. Ngay
phần mở đầu tác phẩm đã thể hiện điều đó. Câu mở đầu: Hùng vương cậy nước mình giầu mạnh


mà chểnh mảng việc chầu phương Bắc. Vua nhà Ân mượn có tuần thú, sang xâm lược nước ta…”
Điều đó chứng tỏ thời đại Hùng vương, nước ta có một nền văn minh phát triển, giàu mạnh, có ý
thức về độc lập dân tộc, muốn thoát khỏi sự lệ thuộc, thần phục vào phong kiến phương Bắc. Đó là
sự khởi đầu cho truyền thống tự lực, tự cường của dân tộc trong các thời đại sau.


Đến khi có sự xâm lược của quân giặc, Hùng vương hỏi ý kiến quần thần, có người phương sĩ bảo:
Nên lập đền thờ cầu Long quân giúp. Hiện thân của Long quân là cụ già xuất hiện bảo vua hãy
chuẩn bị binh sĩm khí giới và tìm người tài giúp đỡ.


Truyện đã thể hiện sức mạnh phi thường và tinh thần quật khởi vô song của dân tộc


Ba năm chuẩn bị sức người, sức của nói trên là ba năm hun đúc cho sự hùng mạnh và tinh thần
quật khởi dân tộc ta tạo thành một lực lượng vơ địch, có thể đập tan quân giặc trong một thời gian
ngắn. Sức mạnh phi thường và khí thế tiến cơng thần tốc của dân tộc ta thể hiện qua nhân vật
Gióng.


Từ Gióng có nhiều cách hiểu và cách viết. Thông thường viết gi, trong truyện có liên quan đến
việc Gióng nằm trên gióng sắt, cho nên dịch tên ông là Thiết đổng, Thiết xung thần tướng. Tên của
Gióng có liên quan đến việc sử dụng vũ khí của ơng: Ngựa, roi, mũ, áo sắt… Cho nên Vũ Ngọc
Phan đã nhận xét: “Thánh Gióng tiêu biểu cho sức mạnh đang lên của người dân lao động Việt
Nam vào thời mới có sắt. Sức mạng ấy đã diễn ra một cách hùng vĩ nhất trong lịch sử nước ta, ở
việc dùng vũ khí bằng sắt chống xâm lăng”


Sự lớn mạnh phi thường của dân tộc ta biểu hiện qua hình tượng Gióng là tinh thần quật khởi của
tổ tiên ta được hun đúc, tôi luyện qua hàng nghìn năm lịch sử. Nháy mắt, Gióng đã tới trước quân
vua, vỗ kiếm đi trước, quan quân theo sau, tiết sát đồn giặc”. Đó là cuộc tiến cơng thần tốc, tấn
cơng áp đảo qn thù. “Gióng vươn vai đứng dậy cao hơn mười thước, hắt hơi liền mấy tiếng, rút
gươm thét lớn: Ta là Thiên tướng đây! Rồi độ nón, cưỡi ngựa. Ngựa hí vang chồm lên phi như
bay… Qn giặc bỏ chạy, cịn lại tên nào thì đều la hét, kêu lậy Thiên tướng, đến hàng phục…



<b>3.2. Gióng là một dạng anh hùng ca của Việt Nam</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

nhiên, bằng cả vũ khí thơ sơ và hiện đại. Đi khắp cùng trung châu đều có dấu vết của bước chân,
vó ngựa Thánh Gióng:


+ Làng Mát: Kể chuyện Gióng dừng chân uống nước rồi đổi tên làng từ Kẻ Khó, sang Kẻ Mát
+ Làng Mã; Kể chuyện Gióng dừng ngựa nên làng có tên làng Mã


+ Làng Bàng, xã Ngọc Xá, Quế Võ: có bãi cát trắng tương truyền là bọt mép ngựa Thánh Gióng
để lại


+ Làng Cháy: Kể chuyện ngựa Gióng phun lửa làm cháy cây cối xung quanh…


Như vậy, quan hệ giữa Gióng và nhân dân là quan hệ giữa cá nhân và tập thể. Gióng là nhân vật
anh hùng nhưng đại diện cho cả cộng đồng, mang sức mạnh của cộng đồng. Hình tượng đó có nét
đẹp của cá nhân (3 tuổi chưa biết nói cười, ăn một bữa 7 nong cơm, 3 nong cà; mặc quần ào liền
chật, vươn vai thành khổng lồ…) nhưng lại mang nét đẹp đẽ, tinh hoa của tập thể. Cho nên, hình
tượng Gióng mang tính biểu trưng cao. Đó là biểu tượng đẹp đẽ cho truyền thống đấu tranh của
dân tộc trong buổi đầu dựng nước và giữ nước.


<b>4. TINH THẦN DÂN TỘC VIỆT NAM THỂ HIỆN QUA TRUYỀN THUYẾT</b>


<b>DÂN GIAN THÁNH GIĨNG</b>



<i>Thứ nhất,</i> tiếng nói đầu tiên của Gióng là tiếng nói địi đi đánh giặc. Chi tiết này chứng tỏ nhân
dân ta ln có ý thức chống giặc ngoại xâm. Khi có giặc, từ người già đến trẻ con đều sẵn sàng
đánh giặc cứu nước. Đây là một chi tiết thần kì: chưa hề biết nói, biết cười, ngay lần nói đầu tiên,
chú bé đã nói rất rõ ràng về một việc hệ trọng của đất nước.


<i>Thứ hai,</i> Gióng địi ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt để đánh giặc. Gióng khơng địi đồ chơi như
những đứa trẻ khác mà địi vũ khí, những vật dụng để đánh giặc. Đây cũng là một chi tiết thần kì.


Gióng sinh ra đã là một anh hùng và điều quan tâm duy nhất của vị anh hùng đó là đánh giặc.
<i>Thứ ba,</i> bà con làng xóm vui lịng góp gạo ni cậu bé. Gióng là đứa con của nhân dân, được
nhân dân nuôi nấng, dạy dỗ. Sức mạnh của Gióng là sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của tinh
thần đồng sức, đồng lịng.


<i>Thứ tư,</i> Gióng lớn nhanh như thổi, vươn vai thành tráng sĩ. Đây cũng là chi tiết thể hiện sức mạnh
của nhân dân, sức mạnh của dân tộc. Khi hồ bình là những người lao động rất bình thường,
nhưng khi chiến tranh xảy ra, sự đồn kết đã hoá thành sức mạnh bão tố, phi thường, vùi chôn
quân giặc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

yêu nước, căm thù giặc, sẵn sàng hi sinh thân mình mà khơng địi hỏi được khen thưởng hay ban
cho danh lợi. Sự thật lịch sử được phản ánh trong truyện Thánh Gióng là thời đại Hùng Vương.
Trên cơ sở một nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước đã khá phát triển, người dân Văn Lang đã
tạo nên cả một nền văn minh rực rỡ, đồng thời cũng luôn luôn phải chống giặc ngoại xâm phương
Bắc để bảo vệ đất nước. Bên cạnh việc cấy trồng lúa nước, nhân dân thời bấy giờ đã có ý thức chế
tạo vũ khí chống giặc từ chất liệu kim loại (bằng sắt). Truyền thuyết cũng phản ánh: trong công
cuộc chống ngoại xâm, từ xa xưa, chúng ta đã có truyền thống huy động sức mạnh của cả cộng
đồng, dùng tất cả các phương tiện để đánh giặc.


<b>5. Ý NGHĨA XÃ HỘI QUA TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN THÁNH GIĨNG</b>


Truyện Thánh Gióng có thể được xem như một cách mà ông cha ta tổng kết lịch sử các cuộc chiến
thắng chống ngoại xâm thời cổ đại. Nét đẹp của truyện ngày một được tô đậm qua từng lời truyền
miệng của nhân dân để rồi qua thời gian, truyện trở nên đẹp trong từng chi tiết và ta có thể dễ dàng
nhận thấy rằng: ơng Thánh là hình ảnh tượng trưng cho những người dân thuở ấy với những nét
đẹp nhất, tiêu biểu nhất, cao quý nhất của những người con u nước


Tư tưởng “tồn dân chung sức, đồng lịng đánh giặc” và cũng là một lối đánh truyền thống nhưng
không bao giờ lỗi thời qua thời gian, năm tháng đã được thể hiện rất rõ tại đây. Mỗi con người đất
Việt tuy bình thường trơng có vẻ nhỏ bé nhưng đến khi đất nước lâm nguy thì đều trở nên vĩ đại,
phi thường, đều đóng một vai trị quan trọng trong công cuộc bảo vệ đất nước. Chắc hẳn nhân dân


sáng tác và trau dồi truyện thánh Gióng muốn nói rằng dân tộc ta một khi đứng trước một nhiệm
vụ lịch sử nặng nề, tưởng chừng như quá sức gánh vác của mình, thì, bởi sẵn lịng u nước nồng
nàn, bởi biết chung sức với nhau, bởi nhiều mưu trí và sáng tạo mà vươn lên mau chóng cho kịp
nhiệm vụ được giao. Thật vậy, suốt mấy ngàn năm sau, Văn Lang, Âu Lạc đã dám đánh thắng và
thắng những kẻ xâm lược lớn mạnh hơn mình gấp mấy chục lần.


<b>PHẦN KẾT LUẬN</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

cùng ngựa sắt bay lên trời. Những hình tượng tuyệt đẹp ấy nói lên trí tưởng tượng kì diệu, ca ngợi
tinh thần quyết chiến, quyết thắng của nhân dân ta.


Truyện Thánh Gióng vừa có hình tượng tuyệt đẹp, vừa tràn đầy tinh thần yêu nước, căm thù giặc.
Hình tượng Thánh Gióng đánh giặc và thắng giặc tượng trưng cho lòng yêu nước mãnh liệt và sức
mạnh anh hùng quật khởi của đất nước và con người Việt Nam.


<b>Bài tham khảo 2</b>


Về mặt thể loại, truyện Thánh Gióng cũng có thể xếp vào thần thoại bởi vì trong truyện có những
yếu tố kì ảo như cách nhân vật này được sinh ra, sự lớn lên như thổi... Tuy nhiên, truyện liên quan
đến sự thật lịch sử: truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam nên chúng ta xếp vào thể
loại truyền thuyết là hợp lí hơn, hay nói một cách chính xác thì đây là loại thần thoại được lịch sử
hố thành truyền thuyết. Hình tượng người anh hùng cứu nước Thánh Gióng được, xây dựng bằng
hào quang của thần thoại nên đã trở nên chói lồ, rực rỡ.


- Một đặc điểm của truyện đời xưa là: những người tài giỏi, đức độ thường có sự ra đời khác
thường. Đó là chi tiết bà mẹ uống nước mưa trong cái sọ dừa (truyện Sọ Dừa), bà mẹ nằm mơ rồng
ấp (truyện Thạch Sanh)...


Nhân vật Thánh Gióng có sự ra đời và lớn lên kì lạ, khác thường: bà mẹ mang thai do ướm chân
mình vào vết chân lạ, Gióng ba tuổi mà vẫn khơng biết nói biết cười, tiếng nói đầu tiên là tiếng nói


địi được đánh giặc cứu nước, lớn lên như thổi... Trụyện Thánh Gióng đã thần thánh hố nhân vật
người con trai làng Gióng để đề cao người anh hùng cứu nước Thánh Gióng.


Chi tiết ba năm khơng biết nói biết cười, tiếng nói đầu tiên là tiếng nói địi được đánh giặc cứu
nước cịn một ý nghĩa khác nữa: lúc bình thường, lực lượng và tinh thần chống ngoại xâm còn
tiềm ẩn trong dân chúng, nhưng khi có giặc thì lực lượng và tinh thần yêu nước, ý chí bảo vệ Tổ
quốc được thức tỉnh tức thì.


- Truyện Thánh Gióng có sự kết hợp tự nhiên, hài hồ giữa yếu tố kì ảo và chi tiết đời thường.
Thánh Gióng là nhân vật kì lạ nhưng lại khơng xa lạ với nhân dân ta. Mặc dù có những điều kì lạ,
khác thường nhưng nhân vật này trước khi được sinh ra vẫn phải nằm trong bụng mẹ, vẫn phải
uống nước, ăn cơm với cà, vẫn phải mặc quần áo bằng vải... Như vậy, Thánh Gióng trước hết là
một con người; người anh hùng Thánh Gióng được nhân dân sinh ra và ni dưỡng, chiến đấu vì
nhân dân và cuối cùng về sống mãi trong lòng nhân dân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<b>Bài tham khảo 3</b>


Truyền thuyết Thánh Gióng xuất hiện từ thời Hùng vương dựng nước và được nhân dân ta lưu
truyền từ đời này sang đời khác cho đến tận ngày nay. Đây là một truyền thuyết hay vào bậc nhất
trong những truyền thuyết nói về truyền thống giữ nước của dân tộc ta.


Hình tượng Thánh Gióng với nhiều yếu tố thần kì là biểu tượng rực rỡ của ý thức và sức mạnh bảo
vệ đất nước, đồng thời thể hiện quan niệm và ước mơ của nhân dân ta về người anh hùng cứu nước
chống ngoại xâm.


Người xưa cho rằng đã là anh hùng thì phải phi thường, phải có khả năng như thần thánh, do trời
sai xuống giúp đời. Do đó mà cậu bé làng Gióng là một nhân vật kì lạ. Bà mẹ Gióng có thai cũng
khác thường: Một hơm, bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm
thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai… Bà có thai khơng phải chín tháng
mười ngày mà trịn mười hai tháng. Đây là sự tưởng tượng của dân gian về nhân vật phi thường


của mình.


Điều kì lạ nữa là Gióng lên ba vẫn khơng biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi cứ đặt đâu thì nằm
đấy. Những chi tiết kỳ ảo đó càng thu hút người nghe. Gióng khơng nói nhưng khi nghe sứ giả rao
loa thì bỗng dưng cất tiếng nói. Tiếng nói đầu tiên của Gióng là tiếng nói tự nguyện đánh giặc. Lời
nói yêu nước, cứu nước ấy cũng khơng phải là lời nói bình thường ở tuổi lên ba.


Chi tiết thần kì ấy ca ngợi ý thức đánh giặc, cứu nước của nhân dân ta được gửi gắm trong hình
tượng Gióng. Ý thức trách nhiệm đối với đất nước được đặt lên hàng đầu với người anh hùng và
tạo cho người anh hùng những khả năng hành động phi thường.


Còn năm ngửa trên chõng tre mà Gióng địi có ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt để đánh tan quân giặc.
Ba tuổi, Gióng vẫn chưa biết đi nhưng tới lúc giặc đến thì vươn vai hố thành tráng sĩ, nhảy lên
mình ngựa, phi thẳng ra chiến trường. Khi cần có sức lực, tầm vóc để cứu nước thì Gióng lớn
nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa may xong đã căng đứt chỉ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

nghiệp đánh giặc. Như vậy mới đủ sức mạnh để chiến thắng quân thù. Gióng lớn lên từ trong lịng
nhân dân và do nhân dân ni dưỡng. Sức mạnh dũng sĩ của Gióng được ni bằng cơm gạo q
hương và tình thương vơ hạn của bà con.


Vì sao Gióng lại lớn nhanh như vậy? Gióng lớn lên từ khi nào và lớn lên để làm gì? Trước khi có
tiếng gọi cứu nước, Gióng chi nằm ngửa, khơng nói, khơng cười. Gióng mở miệng nói lời đầu tiên
là để đáp lại lời kêu gọi cứu nước. Dường như việc cứu nước có sức mạnh làm cho Gióng vụt lớn
lên. Việc cứu nước vô cùng to lớn và cấp bách, Gióng khơng lớn lên nhanh thì làm sao làm được
nhiệm vụ cứu nước ? Cuộc chiến đấu đòi hỏi dân tộc ta phải vươn mình phi thườnq như vậy. Hình
ảnh Gióng vươn vai là tượng đài bất hủ về sự trưởng thành vượt bậc, về hùng khí của một dân tộc
trước nạn ngoại xâm. Khi lịch sử đặt vấn đề sống cịn cấp bách, khi tình thế địi hỏi dân tộc vươn
lên một tầm vóc phi thường thì cả dân tộc vụt đứng dậy như Thánh Gióng, tự thay đổi tư thế, tầm
vóc của mình. Hình tượng cậu bé làng Gióng tiêu biểu cho sức mạnh tồn dân trong cuộc chiến
tranh cứu nước.



Gióng chính là hình ảnh của nhân dân. Nhân dân lúc bình thường thì âm thầm lặng lẽ, cũng như
Gióng ba năm khơng nói, khơng cười. Nhưng khi nước nhà gặp cơn nguy biến thi họ rất mẫn cảm,
tự nguyện đứng ra cứu nước cứu nhà. Cũng như Gióng, khi vua vừa phát lời kêu gọi, chú bé đã
đáp lời cứu nước.


Giặc đến chân núi Trâu, thế nước rất nguy. Vừa lúc sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt tới.
Gióng vùng dậy vươn vai một cái, bỗng thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt. Chi tiết này có liên
quan đến truyền thống của truyện cổ dân gian. Thời cổ, nhân dân quan niệm người anh hùng phải
khổng lổ về thể xác, sức mạnh và chiến công. Thần Trụ Trời, Sơn Tinh… đều là những nhân vật
khổng lồ. Cái vươn vai của Gióng là đạt đến độ phi thường ấy, Gióng nhảy lên mình ngựa, ngựa
phun lửa, phi thẳng ra chiến trường. Ngọn roi của Gióng quật giặc chết như rạ. Roi sắt gãy, Gióng
nhổ tre bên đường đánh tiếp. Gióng đánh giặc khơng chi bằng vũ khí vua ban mà cịn bằng cả cây
cối thân yêu của quê nhà.


Đánh tan giặc Ân, Gióng cưỡi ngựa lên đỉnh núi Sóc, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ
từ bay lên trời. Gióng ra đời đã khác thường thì ra đi cũng khác thường.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

lập đền thờ ngay tại q hương để mn đời ghi nhớ cơng ơn.


Gióng là hình tượng tiêu biểu, rực rỡ của người anh hùng đánh giặc cứu nước. Trong văn học dân
gian Việt Nam, đây là hình tượng người anh hùng đánh giặc đầu tiên, tiêu biểu cho lịng u nước
của nhân dân ta.


Gióng là người anh hùng mang trong mình sức mạnh của cả cộng đồng.Trong buổi đầu dựng
nước, sức mạnh của thần thánh, tổ tiên thể hiện ở sự ra đời thần kì của chú bé làng Gióng. Sức
mạnh của cộng đồng thể hiện ở việc bà con dân làng góp gạo ni Gióng.


</div>

<!--links-->

×