Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Tải Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh hoặc di tích của quê hương em (Điện Hòn Chén) - Văn mẫu lớp 8 thuyết minh Điện Hòn Chén

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (75.77 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>ĐỀ: Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh hoặc di tích của quê hương em. (Điện Hòn Chén)</b>


Từ Văn Miếu đi thuyền qua một đoạn uốn khúc hình chữ U của sơng Hương, Khúc quanh này len
lỏi qua một vùng núi trập trùng, cỏ cây xanh tươi là đến điện Hòn Chén.


<b>DÀN Ý CHI TIẾT</b>
<b>I. MỞ BÀI</b>


Từ Văn Miếu đi thuyền qua một đoạn uốn khúc hình chữ U của sơng Hương, Khúc quanh này len
lỏi qua một vùng núi trập trùng, cỏ cây xanh tươi là đến điện Hòn Chén.


<b>II. THÂN BÀI</b>
1. Nguồn gốc, xuất xứ


- sử sách cho biết ngôi đền đã xuất hiện từ thời xa xưa.


- Theo nội dung một tờ sớ do vua Minh Mạng ban cho đền Ngọc Trán đề ngày 8 tháng 5 năm
1834 thì đền đã có sẵn tại chỗ dưới thời Gia Long.


- Vào tháng 3 năm 1832, vua Minh Mạng đã cho tu sửa và mở rộng ngơi đền. Sau đó hai năm, đền
lại được trùng tu.


<b>2. Kết cấu</b>


- Một dãy núi thấp ăn từ chân Trường Sơn, chạy về phía đồng bằng Huế, bị một đoạn của dịng
sơng Hương chặn đầu lại ở tả ngạn.


- Cả dãy núi như bị dồn nén nguồn sinh lực ở đây tạo thành một ngọn núi có vẻ biệt lập, cây cối
mọc xanh um, cheo leo trên bờ vực tham, đó là chỗ sâu nhất của bờ sông Hương.


- Người xưa đã chơn hịn núi Ngọc Trản ấy để dựng đền thờ.



- Trên đỉnh núi có một chỗ trùng xuống, đường kính vài mét, chung quanh có vịng đá dựng như
giếng, hễ gặp mưa thì nước đọng lại trông giống cái chén đựng nước trong.


- Cho nên, từ xa xưa, hòn núi được đặt tên Ngọc Tràn Sơn (núi Chén Ngọn), dân gian gọi là Hịn
Chén.


- Mặt bằng kiến trúc của tồn bộ ngơi đền khơng rộng, gồm điện thờ chính là Minh Kinh đài
nằm ở giữa, mặt hướng ra sông, bên trái là nhà Quan Cư, Trịnh Cát Viện, Chùa Thánh, bên phải là
dinh Ngũ Vị Thánh Bà, bàn thờ các Quan, động thờ ỏng Hạ Ban (tức ông Hổ - con cọp), am Ngoại
Cảnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>3. Ý nghĩa</b>


- Ngày nay, điện Hòn Chén được nhiều người biết đến khơng những vì đó là một di tích tơn giáo
mà cịn là một kiến trúc cảnh quan nữa.


- Cơng trình kiến trúc tơn giáo ấy đã được người xưa lồng vào khung cảnh thơ mộng hữu tình
của núi sơng xứ Huế.


<b>III. KẾT BÀI</b>


- Điện Hòn Chén là một trong những cảnh quan tuyệt đẹp của Việt Nam.
- Chúng ta cần phải trân trọng và giữ gìn nó trường tồn cùng thời gian.
<b>BÀI VIỂT THAM KHẢO</b>


Từ Văn Miếu đi thuyền qua một đoạn uốn khúc hình chữ u của sông Hương, khúc quanh này len
lỏi qua một vùng núi trập trùng, cỏ cây xanh tươi là đến điện Hòn Chén.


Điện Hòn Chén là nơi ngày xưa người Chàm thờ nữ thần Po Nagar, sau đó, người Việt theo Thiên


Tiên Thánh Giáo tiếp tục thờ bà dưới danh xưng Thánh mẫu Thiên Y A Na. Từ năm 1945, Liễu
Hạnh Công chúa, tức Vân Hương Thánh Mẫu gốc gác từ miền Bắc, cũng được đưa vào thờ ở đây.
Ngồi ra, tại điện Hịn Chén, người ta cịn thờ Phật, thờ Thánh Quan Công và hơn 100 vị thần
thánh khác thuộc vào hàng đồ đệ của các thánh thần nói trên. Vua Đồng Khánh cũng là một trong
những đồ đệ ấy.


Thiên Tiên Thánh Giáo là một tơn giáo bình dân địa phương, khơng thấy có kinh điển chính thức,
lịch sử rất mơ hồ, mang đầy tính huyền thoại được truyền miệng từ đời này qua đời khác, chẳng
thấy sử sách nào ghi chép rõ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

thấy thân cây ấy trôi về quê cũ. Khi trở lại làng xưa cha mẹ nuôi đã chết từ lâu, nàng lập đền thờ
tại núi Đại An. Sau khi mẹ con bay về tiên cảnh, nàng thường xuất hiện nhiều nơi để cứu nhân độ
thế.


Theo truyền thuyết địa phương, một trong những nơi mà người đàn bà thần tiên ấy xuất hiện giúp
đời là núi Ngọc Trản thuộc làng Hải Cát ở Thừa Thiên. Dân làng liền dựng lên một ngơi đền tại
hịn núi này để thờ bà.


Sử sách cho biết ngôi đền đã xuất hiện tự thời xa xưa.


Theo nội dung một tờ sớ do vua Minh Mạng ban cho đền Ngọc Trản đề ngày 8 tháng 5 năm 1834
thì đền đã có sẵn tại chỗ dưới thời Gia Long.


Vào tháng 3 năm 1832, vua Minh Mạng đã cho tu sửa và mở rộng ngơi đền. Sau đó hai năm, đền
lại được trùng tu.


Từ năm 1883 đến năm 1885, vì những éo le của lịch sử, vua Đồng Khánh chờ đợi mãi vẫn chưa
được nối ngôi cha nuôi là vua Tự Đức. Ông nhờ mẹ là bà Kiên Thái Vương lên đền Ngọc Trản cầu
đảo và hỏi Thánh Mẫu Thiên Y A Na xem mình có làm vua được khơng. Mẫu cho biết ông sẽ toại
nguyện. Bởi vậy, sau khi tức vị năm 1886, vua Đồng Khánh liền xây lại đền này một cách khang


trang, làm thêm nhiều đồ tự khí để thờ và đổi tên ngôi đền thành ra Huệ Nam Điện để tỏ lòng biết
ơn Thánh Mẫu. Huệ Nam nghĩa là ban ân huệ cho nước Nam, vua Nam. Có một điều kỳ lạ là
chính vua Đồng Khánh đã đưa cuộc lễ hàng năm tại đây vào hàng Quốc lễ và tự nhận mình là đồ
đệ của Thánh Mẫu, mặc dù nhà vua chỉ gọi Thánh Mẫu bằng “chị”. Theo nguyên tắc xưa, ông vua
nào cũng đứng trên các thánh thần trong cả nước, nhưng ở đây vua Đồng Khánh lại hạ mình xuống
làm em của Thánh Mẫu. Hiện nay, trong đền vẫn còn thờ vài bức tranh ảnh của nhà vua.


Ngày nay, điện Hòn Chén được nhiều người biết đến khơng những vì đó là một sự tích tơn giáo
mà cịn là một kiến trúc cảnh quan nữa. Cơng trình kiến trúc tơn giáo ấy đã được người xưa lồng
vào khung cảnh thơ mộng hữu tình của núi sơng xứ Huế.


Một dãy núi thấp ăn từ chân Trường Sơn, chạy về phía đồng bằng Huế, bị một đoạn của dịng sơng
Hương chặn đầu lại ở tả ngạn. Cả dãy núi như bị dồn nén nguồn sinh lực ở đây, tạo thành một
ngọn núi có vẻ biệt lập, cây cối mọc xanh um, cheo leo trên bờ vực thẳm, đó là chỗ sâu nhất của
bờ sông Hương. Người xưa đã chơn hịn núi Ngọc Trản ấy để dựng đền thờ. Trên đỉnh núi có một
chỗ trũng xuống, đường kính vài mét, chung quanh có vịng đá dựng như giếng, hễ gặp mưa thi
nước đọng lại trông giống cái chén đựng nước trong. Cho nên, từ xa xưa, hòn núi được đặt tên
Ngọc Trản Sơn (núi Chén Ngọn), dân gian gọi là Hịn Chén.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Khoảng 10 cơng trình kiến trúc xinh xắn của ngôi đền đều nằm ở lưng chừng sườn đông - nằm
thoai thoải giữa ngọn núi, ẩn mình dưới bóng râm của một khóm rừng cổ thụ tán lá sum suê.
Những hệ thống bậc cấp chạy từ đền cao xuống tận bến nước trong xanh. Mặt sông phẳng lặng
như gương, cho kiến trúc nghiêng mình soi bóng. Du thuyền cập bến, đứng nhìn lên, khách dễ
tưởng mình đang lạc vào một chốn thần tiên.


Mặt bằng kiến trúc của tồn bộ ngơi đền khơng rộng, gồm điện thờ chính 12 Minh Kinh đài nằm ở
giữa, mặt hướng ra sông, bên trái là nhà Quan Cư, Trịnh Cát Viện, Chùa Thánh, bên phải là dinh
Ngũ Vị Thánh Bà, bàn thờ các Quan, động thờ ông Hạ Ban (tức ông Hổ - con cọp), am Ngoại
Cảnh. Dưới bờ sông, cuối đường bên trái là am Thuỷ Phủ. Trên mặt bằng kiến trúc ấy, cịn có một
số bệ thờ và am nhỏ khác nằm rải rác đó đây như am cơ Ngọc Lan, am Trung Thiên.



Đáng để ý nhất trong tất cả vẫn là Minh Kinh đài, xây dựng năm 1886, dưới thời vua Đồng Khánh,
chia làm ba cung (theo thứ tự từ cao xuống thấp, từ sau đến trước, căn cứ vào chức năng thờ
phụng). Minh Kinh Cao đài Đệ Nhất Cung còn gọi là Thượng Cung hay Thượng Điện, chia làm
hai tầng. Tầng trên thờ Thánh Mẫu Thiên Y A Na, Thánh Mẫu Vân Hương, ảnh vua Đồng Khánh
và một số thần thánh cao cấp khác trong tôn giáo này; tầng dưới cùng chỗ tiếp khách và nơi ở của
người thủ từ.


Minh Kinh Trung đài Đệ Nhị Cung còn gọi là cung Hội Đồng thờ hàng chục tượng thần thánh
khác nhau, có cả tượng phật; và dùng làm nơi thiết trí các đồ thờ, để rước sắc trong những dịp lễ
lớn: Vịng Cung Nghinh Mầu, Phụng Liễn, Long Đình.


Minh Kinh Tiểu đài Để Tam Cung còn gọi là Tiền Điện, có xây một hương án lớn, hai bên đặt
trống, chuông, là chỗ cử hành tế lễ. Nơi cúng lạy của khách hành hương còn được nổi rộng thêm
bằng một mái hiên và cái sân ở mặt trước toà nhà.


Trên bờ nóc, bờ quyết của Minh Kinh Đài cũng như các cơng trình kiến trúc; khác ở chung quanh,
hình ảnh con phượng được dùng nhiều để trang trí vì con phượng tượng trưng cho đàn bà, ở đây là
chỗ thờ nữ. Nó cũng được dùng để trang trí rất nhiều trên các đồ tự khí.


Đứng ở các hệ thống bậc cấp dẫn xuống bến để nhìn ra viên cảnh trước mặt người ta thưởng thức
được một bức tranh sơn thuỷ vẽ bằng gam màu xanh với cả; độ đậm nhạt khác nhau của dịng
sơng, làng mạc, núi non hàng hàng lớp lớp trải rộng, vươn dài. Gần nhất bên phải là hòn núi Kim
Phụng uy nghi. Ngay bên trái đền, vách đá cheo leo trên bờ dốc vực thẳm, cùng với tượng cọp
trừng mắt đứng nhìn dưới vịm động thâm u, dường như được dùng làm mối đe doạ thường xun
đối với những người yếu bóng vía và làm tăng thêm vẻ linh thiêng thần bí của thần thánh đối với
“con tôi”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5></div>

<!--links-->

×