Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TẠI CÁC DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG CƠ BẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.09 KB, 49 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH
GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TẠI CÁC DOANH NGHIỆP XÂY
DỰNG CƠ BẢN
I- ĐẶC ĐIỂM CỦA SẢN XUẤT XÂY LẮP ẢNH HƯỞNG ĐẾN HẠCH
TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
1. Đặc điểm của sản xuất xây lắp ảnh hưởng đến hạch toán chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm
1.1. Đặc điểm của sản phẩm xây lắp
Xây dựng cơ bản là một ngành sản xuất vật chất độc lập có chức năng tái
sản xuất tài sản cố định cho tất cả các ngành trong nền KTQD. Nó làm tăng sức
mạnh về kinh tế, tạo nên cơ sở vật chất cho xã hội. Một quốc gia có cơ sở hạ
tầng vững chắc thì quốc gia đó mới có điều kiện phát triển. Như vậy, việc xây
dựng cơ sở hạ tầng bao giờ cũng phát triển trước một bước so với các ngành
khác.
Cơ sở hạ tầng vững chắc thì xây dựng là một ngành không thể thiếu được,
cho nên một bộ phận lớn của thu nhập quốc dân nói chung và quĩ tích luỹ nói
riêng với vốn đầu tư nước ngoài nằm trong xây dựng cơ bản.
Sản phẩm xây lắp là những công trình, hạng mục công trình ... có đủ điều
kiện đưa vào sử dụng và phát huy tác dụng.
Sản phẩm xây lắp có tính đơn chiếc, quy mô lớn, kết cấu phức tạp, thời
gian xây dựng dài và có giá trị lớn, sản phẩm mang tính cố định, nơi sản xuất ra
sản phẩm đồng thời là nơi sản phẩm hoàn thành đưa vào sử dụng và phát huy
tác dụng.
Mỗi công trình được xây dựng theo một thiết kế kỹ thuật riêng, có giá trị
dự án riêng tạo một thời điểm nhất định. Đặc biệt sản phẩm xây dựng mang
nhiều ý nghĩa tổng hợp về mọi mặt kinh tế, chính trị, kỹ thuật, mỹ thuật.
Chi phí chi cho sản phẩm xây lắp rất đa dạng phong phú bao gồm nhiều
chủng loại nguyên vật liệu, sử dụng nhiều máy móc thi công và nhiều loại thợ
theo các ngành nghề khác nhau.
Vì các loại sản phẩm của ngành xây dựng cơ bản thường có quy mô lớn,
mất nhiều thời gian để hoàn thành công trình đưa vào sử dụng. Vì vậy để phù


hợp với yêu cầu của công việc thanh quyết toán về tài chính thì kế toán cần phải
phân biệt giữa sản phẩm trung gian và sản phẩm cuối cùng.
Sản phẩm trung gian là các công việc xây dựng các giai đoạn, các đợt xây
dựng đã hoàn thành bàn giao. Còn sản phẩm cuối cùng là các công trình hoàn
chỉnh có thể đưa vào sử dụng.
1.2. Đặc điểm tổ chức sản xuất sản phẩm xây lắp
Do đặc điểm của sản phẩm xây lắp mang tính đặc thù cao nên nó cũng
ảnh hưởng đến việc tổ chức sản xuất. Đó là :
Sản phẩm xây lắp là sản phẩm thiếu tính ổn định, luôn biến đổi theo địa
điểm và giai đoạn xây dựng. Chính vì vậy, việc quản lý công trình và tổ chức
sản xuất gặp nhiều khó khăn. Điều đó đòi hỏi các nhà xây dựng phải lựa chọn
các hình thức tổ chức sản xuất và quản lý thật linh hoạt.
Do chu kỳ sản xuất xây dựng các công trình thường kéo dài làm cho vốn
bị ứ đọng, nên các nhà xây dựng luôn phải chú ý đến nhân tố thời gian khi chọn
các phương án.
Quá trình sản xuất xây dựng phức tạp đòi hỏi các nhà tổ chức xây dựng
phải có trình độ tổ chức phối hợp cao trong sản xuất, phải phối hợp chặt chẽ
giữa các tổ chức xây dựng tổng thầu hay thầu chính và các tổ chức thầu phụ.
Các công trình tiến hành ngoài trời nên chịu ảnh hưởng lớn của thời tiết
khí hậu, gây khó khăn cho việc thi công và dự trữ vật liệu. Điều này đòi hỏi các
nhà tổ chức xây dựng phải lập tiến độ thi công và áp dụng cơ giới hoá một cách
hợp lý.
2. Yêu cầu của công tác quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm xây lắp
Do đặc điểm của xây dựng và sản phẩm xây dựng rất riêng nên việc quản
lý đầu tư xây dựng cơ bản khó khăn phức tạp hơn một số ngành khác. Vì vậy
trong quá trình quản lý đầu tư xây dựng phải đáp ứng được những yêu cầu sau:
- Phải tạo ra những sản phẩm xây lắp được thị trường chấp nhận cả về giá
cả, chất lượng, đáp ứng được mục tiêu kinh tế xã hội trong từng thời kỳ.
- Huy động và sử dụng có hiệu quả cao nhất từ các nguồn đầu tư trong và

ngoài nước.
- Xây dựng phải đúng theo qui hoạch được duyệt, thiết kế hợp lý thẩm
mỹ, xây dựng đúng tiến độ, đạt chất lượng cao.
Thực tế trong nhiều năm qua xây dựng cơ bản là một ngành làm thất
thoát một phần không nhỏ nguồn vốn đầu tư của Nhà nước. Nguyên nhân cơ
bản là do quản lý vốn đầu tư chưa được chặt chẽ.
Hiện nay, trong lĩnh vực xây dựng cơ bản chủ yếu áp dụng phương pháp
đấu thầu, giao nhận thầu xây dựng. Doanh nghiệp muốn trúng thầu một công
trình phải xây dựng một giá thầu hợp lý cho công trình đó dựa trên cơ sở xác
định mức đơn giá xây dựng cơ bản do Nhà nước ban hành trên cơ sở giá thị
trường và bản thân doanh nghiệp. Giá trúng thầu không vượt quá giá thành dự
toán được duyệt. Mặt khác phải đảm bảo sản xuất kinh doanh có lãi.
Để thực hiện tất cả các yêu cầu trên đòi hỏi doanh nghiệp phải tăng
cường công tác quản lý kinh tế đặc biệt là quản lý về tập hợp chi phí sản xuất.
Trong đó trọng tâm là công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm xây lắp.
3. Nhiệm vụ kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây
lắp
Việc giảm chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp có ý nghĩa
rất lớn đối với mỗi doanh nghiệp xây dựng. Vì vậy, việc xác định đúng đắn đối
tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành phù hợp với điều
kiện hiện tại của doanh nghiệp và thoả mãn mọi yêu cầu quản lý đặt ra hết sức
cần thiết. Cụ thể:
- Xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất phù hợp với tổ chức
sản xuất ở doanh nghiệp, đồng thời xác định đúng đối tượng tính giá thành.
- Kiểm tra đối chiếu thường xuyên việc thực hiện các chi phí vật tư, nhân
công máy thi công và các dự toán chi phí khác. Từ đó đưa ra các biện pháp ngăn
chặn kịp thời.
- Tình giá thành sản phẩm xây lắp chính xác kịp thời theo đúng khoản
mục giá thành.

- Việc kiểm tra thực hiện hạ giá thành theo từng khoản mục chi phí của
các hạng mục công trình. Từ đó đề ra các biện pháp hạ giá thành sản phẩm một
cách liên tục.
- Xác định đúng đắn, bàn giao thanh toán kịp thời khối lượng công tác
xây lắp hoàn thành.
- Kiểm tra định kỳ và đánh giá khối lượng thi công dở dang theo nguyên
tắc qui định. Đánh giá đúng kết quả hoạt động sản xuất của doanh nghiệp ở từng
công trình, bộ phận thi công... và lập báo cáo về chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm xây lắp một cách kịp thời.
5. Ý nghĩa của phân tích chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
xây lắp
Trong nền kinh tế thị trường, mục đích kinh doanh của tất cả các doanh
nghiệp sản xuất nói chung cũng như các doanh nghiệp xây lắp nói riêng đều là
tối đa hoá lợi nhuận. Trong công tác quản lý doanh nghiệp, chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm là những chỉ tiêu kinh tế quan trọng và luôn được các
nhà quản lý quan tâm, chú trọng. Việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành đầy đủ, kịp thời và chính xác có ý nghĩa đặc biết quan trọng trong việc
cung cấp thông tin cho lãnh đạo để ra các quyết định quản lý phù hợp.
Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có nhiệm vụ ghi chép
mọi sự biến động của chi phí sản xuất và tính giá thành thông qua các kỹ thuật
tính toán và phân tích chi phí sản xuất cho phép doanh nghiệp duy trì được bức
tranh thực về hiệu quả hoạt động hiệu quả kinh doanh. Đây là một vấn đề không
thể thiếu được cho những quyết định và xử lý các yếu tố đầu vào. Từ số liệu
phân tích, các nhà quản trị phải tìm ra những biện pháp nhằm quản lý, điều hành
chi phí theo chiến lược thị trường.
Giá thành không chỉ là chỉ tiêu ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận và đo
lường hiệu quả kinh doanh trong kỳ mà còn giữ chức năng thông tn và kiểm tra
về chi phí. Bởi vậy, hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây dựng cơ bản sẽ tạo điều kiện cho việc
phân tích, cung cấp thông tin cho nhà quản trị doanh nghiệp định mức tối ưu

trong quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành của doanh nghiệp.
6. Nội dung phân tích
Để cung cấp những thông tin khái quát về tình hình tiết kiệm chi phí, hạ
giá thành sản phẩm cho nhà quản lý, công việc đầu tiên của nhà phân tích chi
phí sản xuất và tính giá thành là tiến hành đánh giá chung tình hình thực hiện kế
hoạch giá thành sản phẩm.
Bên cạnh đó, theo chế độ kế toán Việt Nam, giá thành sản phẩm xây lắp
gồm 4 khoản mục: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp,
chi phí sử dụng máy thi công và chi phí sản xuất chung. Việc phân tích từng
khoản mục chi phí sẽ giúp cho người sử dụng thông tin nắm bắt được sự ảnh
hưởng của từng nhân tố đối với giá thành.
Trình tự phân tích:
1. So sánh giá thành thực tế với giá thành kế hoạch để xác định xem
doanh nghiệp vượt chi hay tiết kiệm chi phí:
So sánh về mặt số lượng : ∆ = Z
tt
– Z
kh
So sánh về mặt tỷ trọng :
100x
kh
tt
Ζ
Ζ
Nếu ∆ ≤ 1 hoặc tỷ lệ trên ≤ 1thì doanh nghiệp đã thực hiện được kế hoạch
hạ giá thành.
2. Tính tỷ trọng số chênh lệch trong tổng chi phí của từng khoản mục
trong tổng giá thành kế hoạch.
3. Tiến hành so sánh từng khoản mục chi phí:
- Về mặt số lượng :


1
=
Chi phí thực tế
từng khoản mục
-
Chi phí kế hoạch
từng khoản mục
- Về mặt tỷ trọng:

2
=
Tỷ trọng từng khoản mục
chi phí thực tế
-
Tỷ trọng từng khoản mục
chi phí kế hoạch
Nếu ∆1, ∆2 < 0 : Doanh nghiệp đã tiết kiệm chi phí
Nếu ∆1, ∆2 > 0 : Doanh nghiệp đã lãng phí chi phí
 Phân tích khoản mục chi phí nguyên vật liệu
Mức tăng giảm khoản mục chi phí nguyên vật liệu cho một đơn vị sản
phẩm thực hiện so với kế hoạch ảnh hưởng đến sự biến đổi của giá thành sản
phẩm được tính như sau:
Số tuyệt đối:
i
n
i
ii
n
i

i
GmGm
0
1
01
1
1
∑∑
==

Số tương đối:
0
1 1
0011
Ζ

∑ ∑
= =
n
i
n
i
iiii
GmGm
Trong đó: Z
0
là giá thành sản xuất của 1 đơn vị sản phẩm kế hoạch
G
0
, G

1
là giá thực tế và kế hoạch của vật tư i
M
1
, m
0
là mức tiêu hao thực tế và kế hoạch vật tư i cho một
đơn vị sản phẩm
Nếu kết quả tính được là số âm (-) chứng tỏ doanh nghiệp đã giảm chi phí
vật tư và lảm giảm giá thành sản phẩm.
Nếu kết quả tính được là số dương (+) thì ngược lại với trường hợp trên.
Nếu kết quả bằng không (0) chứng tỏ tình hình chi phí vật tư của doanh
nghiệp không có ảnh hưởng gì đến sự biến động của giá thành sản phẩm.
 Phân tích khoản mục chi phí nhân công trực tiếp
Trình tự diễn ra như sau:
Bước 1: Đánh giá chung:
Tính chênh lệch
tiền lương tuyệt đối
=
Quỹ lương
thực tế
-
Quỹ lương
kế hoạch
Nếu chênh lệch âm (-) là hụt chi quỹ lương
Nếu chênh lệch dương (+) là vượt chi quỹ lương
Tính chênh lệch
tương đối
=
Quỹ lương

thực tế
-
Quỹ lương
kế hoạch
x
Tỷ lệ hoàn
thành kế hoạch
sản xuất
Nếu chênh lệch âm (-) thì số tính được là tiết kiệm tương đối quỹ lương
Nếu chênh lệch dương (+) thì số tính được là vượt chi không hợp lý quỹ lương.
Bước 2: Tìm nguyên nhân làm tăng, giảm quỹ lương:
Quỹ tiền lương
(L)
=
Số lương lao
động (N)
x
Mức tiền lương
bình quân người
(1)
Phân tích mức độ ảnh hưởng bằng cách thay thế liên hoàn
Nhân tố 1: “ Số lương lao động trực tiếp”
∆L = (N
1
- N
0
) x l
0
Nhân tố 2: “Lương bình quân/người”
∆L

2
= N
1
x(l
1
- l
0
)
 Phân tích khoản mục chi phí sử dụng máy thi công và chi phí sản xuất chung
Chi phí sử dụng máy thi công và chi phí sản xuất chung bao gồm nhiều
loại, có loại mang tính chất chất biến đổi, có loại cố định, có loại vừa biến đổi
vừa cố định. Do vậy, để đảm bảo tính chính xác các nhận xét, trước khi phân
tích cần tiến hành điều chỉnh các khoản biến phí theo tỷ lệ % hoàn thành kế
hoạch sản xuất.
Tóm lại, việc phân tích tính giá thành sản phẩm xây lắp có thể được thể
hiện trên bảng sau:
BẢNG PHÂN TÍCH GIÁ THÀNH
Tên công trình
Từ... đến...
Đơn vị tính: Đồng
T
T
Khoản mục chi phí
Kế hoạch Thực tế Chênh lệch
Số tiền % Số tiền % Số tiền %
1
2
3
4
Chi phí NVLTT

Chi phí NCTT
Chi phí SDMTC
Chi phí SXC
Cộng
Biểu số : Bảng phân tích giá thành
II- NỘI DUNG CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN
PHẨM XÂY LẮP
1. Chi phí sản xuất
1.1. Bản chất chi phí sản xuất
Cũng như các ngành sản xuất vật chất khác, quá trình sản xuất của ngành
xây lắp là quá trình tiêu hao các lao động sống và lao động vật hoá để tạo nên
giá trị sử dụng của các sản phẩm để phục vụ cho nhu cầu của con người. Trong
điều kiện sản xuất hàng hoá, các chi phí này được biểu hiện dưới dạng giá trị,
gọi là chi phí sản xuất.
Tương tự như vậy, chi phí sản xuất trong quá trình xây lắp là biểu hiện
bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cấu thành
nên sản phẩm xây lắp trong một thời kỳ nhất định.
Tuy nhiên, để hiểu đúng khái niệm trên cần phân biệt giữa chi phí và chi
tiêu. Đây là hai hai niệm khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Chi
tiêu của doanh nghiệp là sự chi ra sự giảm đi thuần tuý của các tài sản của
doanh nghiệp.
Về lượng, giữa chi tiêu và chi phí có sự khác nhau, chi phí không bao
gồm:
+ Các khoản chi tiêu làm giảm tài sản này nhưng lại làm tăng tài sản khác
của doanh nghiệp, do đó không làm giảm nguồn vốn chủ sở hữu (Ví dụ: Dùng
tiền để lấy ký cược ký quĩ, mua bảo hiểm rủi ro chờ phân bổ...)
+ Các khoản chi tiêu làm giảm tài sản của doanh nghiệp nhưng đồng thời
cũng làm giảm khoản nợ phải trả. Trường hợp này NVCSH cũng bị tác động.
Như vậy, thực chất chi phí là sự giảm đi của tài sản hoặc là sự tăng lên
của khoản nợ phải trả trong kì mà không làm tăng tài sản khác hoặc không làm

giảm nợ phải trả khác của doanh nghiệp.
Ngoài sự khác nhau về lượng giữa chi phí và chi tiêu còn có sự khác nhau
về thời gian.
Sự khác nhau là do có sự không phù hợp thời gian phát sinh các khoản
chi tiêu và thời gian phát huy tác dụng (mang lại tính lợi ích kinh tế của chúng),
tức thời gian tạo ra thu nhập của doanh nghiệp. Chính điều này đã phát sinh ra
khái niệm “chi phí trả trước“ và “chi phi phải trả” trong các nguyên tắc của kế
toán dồn tích. Việc ghi nhận doanh thu và chi phí là căn cứ vào thời điểm phát
sinh các nghiệp vụ chứ không căn cứ vào thời điểm phát sinh luồng tiền.
Trong các doanh nghiệp xây lắp ngoài hoạt động sản xuất chung ra còn
có các hoạt động sản xuất phụ trợ khác. Do đó, chi phí sản xuất trong doanh
nghiệp gồm: Chi phí trong xây lắp và chi phí ngoài xây lắp.
Chi phí trong xây lắp là những chi phí phát sinh trong quá trình xây lắp
của doanh nghiệp. Chi phí ngoài xây lắp là những chi phí phát sinh ngoài lĩnh
vực xây dựng như sản xuất phụ, công tác vận chuyển và các dịch vụ khác.
Trong đó chi phí trong xây lắp là chủ yếu.
1.2. Phân loại chi phí
Chi phí sản xuất ở các doanh nghiệp nói chung, các doanh nghiệp xây
lắp nói riêng bao gồm nhiều loại có nội dung kinh tế, công cụ và đặc tính khác
nhau nên yêu cầu quản lý từng loại cũng khác nhau
Để đáp ứng yêu cầu của công tác lập dự toán, quản lý, hạch toán kiểm
soát chi phí cần thiết phải tiến hành phân loại cụ thể chi phí sản xuất của doanh
nghiệp theo các tiêu thức nhất định. Có nhiều cách phân chia chi phí sản xuất
song phải đảm bảo các yêu cầu: Tạo điều kiện sử dụng thông tin nhanh nhất cho
các công tác quản lý, phục vụ tốt yêu cầu kiểm tra, giám sát chi phí. Đáp ứng
đầy đủ kịp thời những thông tin cần thiết cho việc tính toán hiệu quả, các
phương án sản xuất, nhưng lại cho phép tiết kiệm chi phí, hạch toán thuận lợi
cho cho sử dụng thông tin hạch toán kế toán.
1.2.1. Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố chi phí
Mỗi yếu tố chi phí sản xuất bao gồm các chi phí sản xuất có tính chất, nội

dung kinh tế giống nhau, do đó không cần xét đến chi phí đó phát sinh ở địa
điểm nào và dùng làm gì. Căn cứ vào tiêu thức này thì toàn bộ chi phí sẽ bao
gồm các yếu tố sau:
Chi phí nguyên vật liệu: Bao gồm toàn bộ chi phí về các loại nguyên vật
liệu chính (như gạch, vôi, đá, cát, sỏi, xi măng, sắt thép...), cấu kiện bê tông, vật
liệu phụ, phụ tùng thay thế, thiết bị xây dựng cơ bản...
Chi phí nhân công: Là toàn bộ tiền công phải trả cho người lao động và
các khoản phải trả khác trong doanh nghiệp như tiền lương (lương chính, lương
phụ, phụ cấp của công nhân viên), bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí
công đoàn trích theo tỷ lệ phần trăm theo chế độ qui định.
Chi phí khấu hao TSCĐ: Là toàn bộ số tiền trích khấu hao TSCĐ sử
dụng cho sản xuất doanh nghiệp.
Chi phí dịch vụ mua ngoài: Là số tiền trả cho các dịch vụ mua ngoài
phục vụ cho sản xuất trong doanh nghiệp như chi phí về điện, nước, điện thoại,
chi phí thuê máy...
Chi phí bằng tiền khác: Là toàn bộ số chi phí phát sinh trong quá trình
sản xuất ngoài 4 yếu tố chi phí kể trên.
 Việc phân loại theo yếu tố chi phí có ý nghĩa quan trọng đối với quản lý vĩ mô và
quản trị doanh nghiệp:
+ Là cơ sở lập dự toán và kiểm tra việc thực hiện các dự toán chi phí sản
xuất là cơ sở để thiết lập kế hoạch cân đối: cân đối dự toán chi phí với kế hoạch
cung cấp vật tư, lao động .... dtrong doanh nghiệp.
+ Là cơ sở để xác định mức tiêu hao vật chất và tính thu nhập quốc dân
trong từng doanh nghiệp
1.2.2. Phân loại chi phí theo khoản mục giá thành
Những chi phí sản xuất có cùng mục đích và công dụng được xếp vào
cùng một khoản mục chi phí. Theo tiêu thức phân loại này, toàn bộ chi phí sản
xuất phát sinh trong kỳ được chia ra làm các khoản mục chi phí sau:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Là giá trị các loại nguyên liệu chính,
vật liệu phụ, nhiên liệu sử dụng trực tiếp cho thi công xây lắp công trình.

Chi phí nhân công trực tiếp: Là các chi phí tiền lương chính, lương phụ,
phụ cấp lương của công nhân trực tiếp tham gia xây lắp công trình không bao
gồm các khoản trích theo tiền lương như KPCĐ, BHXH, BHYT của công nhân
trực tiếp xây lắp.
Chi phí sử dụng máy thi công: Là chi phí cho các máy thi công nhằm
thứ hiện khối lượng công tác xây lắp bằng máy. Chi phí sử dụng máy thi công
bao gồm chi phí thường xuyên và chi phí tạm thời.
Chi phí thường xuyên sử dụng máy thi công gồm: Lương chính, lương
phụ của công nhân điều khiển máy, phục vụ máy...; chi phí vật liệu; chi phí
CCDC, chi phí khấu hao TSCĐ; chi phí dịch vụ mua ngoài; chi phí khác bằng
tiền.
Chi phí tạm thời sử dụng máy thi công gồm: Chi phí sửa chữa lớn máy thi
công (đại tu, trung tu...); chi phí công trình tạm thời cho máy thi công (lều, lán,
bệ, đường ray chạy máy...). Chi phí tạm thời có thể phát sinh trước (được hạch
toán vào TK 142) sau đó được phân dần vào bên nợ TK 623. Hoặc phát sinh sau
nhưng phải tính trước vào chi phí xây lắp trong kỳ (do liên quan tới việc sử
dụng thực tế máy thi công trong kỳ), trường hợp này phải tiến hành trích trước
chi phí sử dụng TK 335 (ghi Nợ TK 623, Có TK 335).
Chi phí sản xuất chung: Bao gồm tất cả các chi phí phục vụ cho quá
trình sản xuất thi công ngoại trừ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân
công trực tiếp và chi phí sử dụng máy thi công. Loại chi phí này bao gồm:
 Chi phí nhân viên quản lý đội, công trình (Tiền lương và các khoản phải trích
theo tiền lương theo tỷ lệ quy định (19%) của nhân viên quản lý đội và công
nhân trực tiếp tham gia xây lắp...)
 Chi phí vật liệu phụ, nhiên liệu, công cụ dụng cụ (ván khuôn, giàn giáo, dụng cụ
bảo hộ lao động...)
 Chi phí về khấu hao TSCĐ dùng chung cho hoạt động của đội
 Chi phí dịch vụ thuê ngoài
 Chi phí bằng tiền khác
Chỉ những chi phí gắn liền với quá trình hoạt động sản xuất của đội sản

xuất, phân xưởng mới được xếp vào loại này.
Để tính giá thành toàn bộ trong doanh nghiệp xây lắp, bên cạnh chi phí
sản xuất còn có chi phí ngoài sản xuất. Chi phí ngoài sản xuất gồm 2 loại:
Chi phí bán hàng: Gồm chi phí thực tế phát sinh trong quá trình tiêu thụ
sản phẩm xây lắp.
Chi phí quản lý doanh nghiệp: Gồm chi phí tiền lương cho nhân viên
quản lý doanh nghiệp, chi phí vật liệu, dụng cụ quản lý...
Cách phân loại này có tác dụng: Phục vụ cho yêu cầu quản lý chi phí sản
xuất theo định mức, công tác kế hoạch hoá, phân tích và đánh giá sản phẩm theo
khoản mục, giám sát tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và hạ giá thành.
1.2.3. Phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí với đối tượng
chịu chi phí
Chi phí trực tiếp: Là chi phí phát sinh liên quan trực tiếp đến việc sản
xuất một loại công trình, hạng mục công trình, một loại hoạt động xây lắp hoặc
một địa điểm nhất định và có thể và có thể hạch toán quy nạp cho công trình,
hạng mục công trình hoạt động theo địa điểm đó. Đối với chi phí trực tiếp hoàn
toàn có thể căn cứ vào chứng từ gốc để tập hợp cho từng đối tượng chịu chi phí.
Chi phí gián tiếp: Là chi phí phát sinh có liên quan đến nhiều loại công
trình, hạng mục công trình, hoạt động hoặc địa điểm khác nhau. Do đó không
thể tập hợp, qui nạp trực tiếp nên chi phí này đựơc được tính cho các đối tượng
liên quan bằng các phân bổ thích hợp. Đối vơi các chi phí gián tiếp bắt buộc
phải áp dụng phương pháp phân bổ. Mức độ chính xác của chi phí gián tiếp tập
hợp cho từng đối tượng tuỳ thuộc vào tính khoa học, hợp lý của tiêu chuẩn dùng
để phân bổ chi phí.
1.2.4. Phân loại theo mối quan hệ giữa chi phí với khối lượng hoạt động
Chi phí sản xuất được chia thành: + Các chi phí bất biến (định phí)
+ Chi phí khả biến (biến phí)
+ Chi phí hỗn hợp
Chi phí bất biến (định phí): Là chi phí mà tổng số không thay đổi khi có
sự thay đổi về khối lượng hoạt động nhưng chi phí trung bình của một đơn vị

khối lượng hoạt động thay đổi theo thời gian.
Chi phí khả biến (biến phí): Là các chi phí mà tổng số thay đổi tỷ lệ với
sự thay đổi của khối lượng hoạt động
Chi phí hỗn hợp: Là chi phí mà bản thân nó gồm cả yếu tố định phí và
biến phí. Để phục vụ việc lập kế hoạch, kiểm soát và chủ động điều tiết chi phí
hỗn hợp, các nhà quản lý doanh nghiệp cần phân tích chi phí hỗn hợp thành các
yếu tố định phí và biến phí bằng các phương pháp thích hợp.
Phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí với khối lượng hoạt động
có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý của doanh nghiệp:
+ Giúp nhà quản trị xác định đúng đắn phương hướng và biện pháp nâng
cao hiệu quả của chi phí sản xuất. Đối với biến phí cần tiết kiệm tổng chi phí và
chi phí cho một đơn vị khối lượng hoạt động, đối với định phí cần nâng cao hiệu
lực của chi phí trong sản xuất.
+ Là cơ sở để thiết kế, xây dựng mô hình chi phí trong mối quan hệ giữa
Chi phí - Khối lượng - Lợi nhuận xác định điểm hoà vốn và các quy định quan
trọng khác.
 Ngoài các cách phân loại trên còn có các phương pháp phân loại chi phí
khác như sau:
◊ Phân loại chi phí thành chi phí sản xuất và chi phí ngoài sản xuất.
◊ Phân loại chi phí theo chi phí thời kỳ và chi phí sản phẩm
◊ Chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát được
Như vậy, mỗi cách phân loại chi phí sản xuất có ý nghĩa riêng, phục vụ
cho từng đối tượng quản lý và từng đối tượng cung cấp thông tin cụ thể, nhưng
chúng luôn bổ sung cho nhau nhằm quản lý có hiệu quả nhất về toàn bộ chi phí
sản xuất phát sinh trong phạm vi từng doanh nghiệp và trong thời kỳ nhất định.
2. Giá thành sản phẩm xây lắp
2.1 Bản chất giá thành
Giá thành sản phẩm xây lắp là toàn bộ chi phí sản xuất và chi phí ngoài
sản xuất theo số lượng và loại sản phẩm đã hoàn thành.
Giá thành sản phẩm xây lắp là những chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh

chất lượng hoạt động sản xuất, quản lý của doanh nghiệp, kết quả của sử dụng
các loại vật tư, tài sản trong quá trình sản xuất cũng như các giải pháp kinh tế kỹ
thuật mà doanh nghiệp thực hiện nhằm đạt mục đích sản xuất ra khối lượng sản
phẩm nhiều nhất với chi phí thấp nhất. Giá thành sản phẩm còn là căn cứ để tính
toán xác định hiệu quả kinh tế các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
Bản chất kinh tế của giá thành sản phẩm xây lắp là giá trị của các hao phí
lao động sống, lao động vật hoá và chi phí cần thiết khác kết tinh trong sản
phẩm xây lắp. Giá thành sản phẩm xây lắp là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh
liên kết hoạt động sản xuất kinh doanh sử dụng các loại vật tư, tại sản cũng như
Chi phí sản xuất
Chi phí tính vào
Giá thànhsản phẩm xây lắp
Chi phí trực tiếp
Chi phí khôngtính vào giá thành
Chi phí gián tiếp
các giải pháp kinh tế kỹ thuật trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp. Bên
cạnh đó giá thành sản phẩm xây lắp còn là căn cứ để xác định hiệu quả kinh tế
các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.Vì vậy giá thành sản phẩm phải được
xác định một cách chính xác trung thực, giúp doanh nghiệp cũng như Nhà Nước
có căn cứ xem xét, đánh giá và đề ra các biện pháp thích ứng với hoạt động của
doanh nghiệp trong từng giai đoạn cụ thể.
2.2. Mối quan hệ giữa chi phí và giá thành
Để thấy rõ bản chất giá thành sản phẩm cần phân biệt giá thành sản phẩm
với chi phí sản xuất.
Giá thành sản phẩm và chi phí sản xuất là hai khái niệm khác nhau nhưng
có mối quan hệ mật thiết. Chi phí sản xuất là cơ sở để tính giá thành sản phẩm,
chi phí biểu hiện sự hao mòn còn giá thành biểu hiện kết quả. Đây là hai mặt
thống nhất của cùng quá trình vì chúng giống nhau về chất. Nhưng giữa chi phí
và giá thành có sự khác biệt về lượng. Chi phí sản xuất thể hiện chi phí mà
doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong một thời kỳ không

tính đến chi phí đó có liêm quan đến sản phẩm đã hoàn thành hay chưa. Giá
thành là chi phí tính cho một sản phẩm, công trình, hạng mục công trình hay
khối lượng sản phẩm xây lắp hoàn thành theo quy định. Gía thành sản phẩm xây
lắp còn có thể bao gồm cả chi phí sản xuất của khối lượng xây lắp dở dang đầu
kỳ và không bao gồm chi phí sản xuất của khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ
chuyển sang kỳ sau. Mối quan hệ được biểu hiên bằng sơ đồ:
Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ chi phí và giá thành
2.3. Phân loại giá thành sản phẩm xây lắp
2.3.1. Phân loại theo thời điểm và cơ sở số liệu tính giá thành sản phẩm
 Giá thành dự toán (Zdt)
Sản phẩm xây lắp có giá trị lớn, thời gian thi công dài, mang tính đơn
chiếc... nên mỗi công trình, hạng mục công trình đều có giá thành dự toán riêng.
Giá thành dự toán của công trình, hạng mục công trình là chi phí dự toán để
hoàn thành khối lượng xây lắp công trình. Giá thành dự toán xây lắp được xác
định trên khối lượng thiết kế được duyệt, các định mức dự toán và đơn giá
XDCB do cấp có thẩm quyền ban hành và dựa theo mặt bằng giá cả thị trường.
Do đặc điểm của sản phẩm xây lắp nên giá thành dự toán xây lắp mang
tính chất xã hội, nó phản ánh trình độ tổ chức kỹ thuật nói chung của toàn xã hội
vì cơ sở để xác định là khối lượng từ thiết kế được duyệt, cả định mức dự toán
và đơn giá xây dựng cơ bản hiện hành. Thông qua tổng dự toán công tác xây lắp
chúng ta có thể đánh giá được thành tích của doanh nghiệp. Nó là hạn mức chi
phí cao nhất mà doanh nghiệp có thể chi ra để đảm bảo có lãi, là tiêu chuẩn
phấn đấu hạ định mức thực tế. Giá thành dự toán công tác xây lắp là căn cứ để
kế hoạch hoá giá thành công tác xây lắp và vạch ra các biện pháp tổ chức kinh
tế kỹ thuật nhằm đảm bảo nhiệm vụ hạ giá thành công tác xây lắp được giao.
Trong điều kiện hiện nay, để thi công xây lắp một công trình thì các đơn
vị xây dựng được tham gia đấu thầu. Đơn vị thắng thầu là đơn vị xây dựng giá
đấu thầu công tác xây lắp hợp lý, đảm bảo chất lượng thi công công trình. Do
vậy, trong giá thành dự toán của từng công trình, hạng mục công trình còn có 2
loại giá thành là:

- Giá thành đấu thầu công tác xây lắp: Giá thành đấu thầu công tác xây
lắp được hình thành từ cơ chế quản lý bằng cách đấu thầu trong xây dựng. Đây
cũng là một loại giá thành dự toán công tác xây lắp do chủ đầu tư đưa ra để các
tổ chức xây lắp căn cứ vào đó mà tính toán giá thành dự thầu công tác xây lắp
của mình. Nếu như thấy giá thành của mình bằng hoặc thấp hơn giá thành do
chủ thầu đưa ra thì sẽ tham gia đấu thầu thi công xây lắp công trình.
- Giá thành hợp đồng công tác xây lắp: Giá thành hợp đồng là một loại
giá thành dự toán công tác xây lắp ghi trong hợp đồng được ký kết giữa chủ đầu
tư và tổ chức xây lắp sau khi đã thoả thuận giao nhận thầu. Đây cũng là giá
thành của tổ chức xây lắp thắng thầu trong khi đấu thầu và được chủ đầu tư thoả
thuận ký hợp đồng giao thầu (giá thành dự thầu công tác xây lắp của tổ chức
xây lắp trúng thầu).
 Giá thành kế hoạch xây lắp (Zkh)
Giá thành kế hoạch công tác xây lắp là giá thành xác định xuất phát từ
những điều kiện cụ thể ở mỗi đơn vị xây lắp trên cơ sở biện pháp thi công, các
định mức, đơn giá áp dụng trong đơn vị.
Giá thành kế hoạch công tác xây lắp khác với giá thành dự toán xây lắp là
được lập ra không dựa vào định mức dự toán mà dựa vào những định mức chi
phí nội bộ của tổ chức xây lắp hoặc của công trình. Về nguyên tắc, định mức
nội bộ này phải tiên tiến hơn định mức dự toán. Vì vậy giá thành kế hoạch công
tác xây lắp chỉ được bằng hoặc nhỏ hơn giá thành hợp đồng nên giá thành kế
hoạch là cơ sở để phấn đấu hạ giá thành công tác xây lắp trong giai đoạn kế
hoạch. Điều này phản ánh trình độ quản lý giá thành của doanh nghiệp xây lắp.
Giá thành kế hoạch công tác xây lắp được xác định theo công thức (tính
cho từng công trình, hạng mục công trình):
Giá thành kế hoạch
công tác xây lắp
=
Giá thành
dự toán xây lắp

-
Mức hạ giá
thành kế hoạch
 Giá thành thực tế xây lắp (Ztt)
Giá thành thực tế xây lắp được tính toán theo chi phí thực tế của tổ chức
xây lắp đã bỏ ra để thực hiện các khối lượng xây lắp mà đơn vị nhận thầu, giá
thành thực tế được xác định theo số liệu của kế toán.
Muốn đánh giá được giá trị chất lượng hoạt động sản xuất thi công của tổ
chức xây lắp thì ta phải tiến hành so sánh các loại giá thành trên với nhau. Giá
thành dự toán mang tính xã hội cho nên việc so sánh giá thành thực tế với giá
thành dự toán cho phép ta đánh giá sự tiến bộ hay yếu kém trong doanh nghiệp
xây lắp trong điều kiện cụ thể về cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ tổ chức
quản lý của bản thân doanh nghiệp. Trong việc so sánh này cần đảm bảo tính
thống nhất và có thể so sánh được, tức là được thực hiện trên cùng một đối
tượng tính giá thành (từng công trình, hạng mục công trình, hoặc khối lượng
xây lắp hoàn thành nhất định).
Về nguyên tắc thì mối quan hệ giữa các loại giá thành trên phải đảm bảo
như sau : Zdt > Zkh > Ztt.
Đây cũng là nguyên tắc khi xây dựng giá thành và tổ chức thực hiện kế
hoạch giá thành. Có như vậy doanh nghiệp mới đảm bảo có lãi, có tích luỹ cho
Nhà nước và cho doanh nghiệp.
III- TỔ CHỨC KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH
XÂY LẮP
1. Vai trò và yêu cầu của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm xây lắp

×