Tải bản đầy đủ (.pdf) (225 trang)

Nâng cao chất lượng chính trị của lực lượng dân quân tự vệ quân khu i giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.24 MB, 225 trang )

BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


NGUYỄN TIẾN CHUNG

N¢NG CAO CHÊT LƯợNG CHíNH TRị CủA LựC LƯợNG
DÂN QUÂN Tự Vệ QUÂN KHU I GIAI ĐOạN HIệN NAY
Chuyờn ngnh: Xõy dng ng và chính quyền nhà nước
Mã số: 62.31.02.03

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS Phạm gia Cư
2. PGS. TS Nguyễn Phương Đông

HÀ NỘI - 2013


BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


NGUYỄN TIẾN CHUNG

N¢NG CAO CHÊT LƯợNG CHíNH TRị CủA LựC LƯợNG
DÂN QUÂN Tự Vệ QUÂN KHU I GIAI ĐOạN HIệN NAY

LUN N TIN S CHNH TRỊ HỌC


HÀ NỘI - 2013


Lời cam đoan
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận
án là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Tiến Chung


MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG CHÍNH TRỊ CỦA LỰC LƯỢNG
DÂN QUÂN TỰ VỆ QUÂN KHU 1

Dân quân tự vệ, chất lượng chính trị của lực lượng dân
quân tự vệ Quân khu 1
1.2.
Quan niệm, tiêu chí và những vấn đề có tính ngun tắc
nâng cao chất lượng chính trị của lực lượng dân quân tự
vệ Quân khu 1

Chương 2 THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHÍNH TRỊ CỦA LỰC
LƯỢNG DÂN QUÂN TỰ VỆ QUÂN KHU 1
2.1.
Thực trạng nâng cao chất lượng chính trị của lực lượng
dân quân tự vệ Quân khu 1
2.2.
Nguyên nhân và kinh nghiệm nâng cao chất lượng chính
trị của lực lượng dân quân tự vệ Quân khu 1
Chương 3 YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG CHÍNH TRỊ CỦA LỰC LƯỢNG
DÂN QUÂN TỰ VỆ QUÂN KHU 1 GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY
3.1.
Những yếu tố tác động và yêu cầu nâng cao chất lượng
chính trị của lực lượng dân quân tự vệ Quân khu 1 giai
đoạn hiện nay
3.2.
Những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng chính trị của
lực lượng dân quân tự vệ Quân khu 1 giai đoạn hiện nay

4
8

27

1.1.

KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ

ĐƯỢC CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

27

43

69
69
85

101

101
121
152
156
157
171


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Số TT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

01


Chủ nghĩa xã hội

CNXH

02

Cơng tác đảng, cơng tác chính trị

CTĐ,CTCT

03

Cơng nghiệp hố, hiện đại hố

CNH,HĐH

04

Dân qn tự vệ

DQTV

05

Qn đội nhân dân

QĐND

06


Xã hội chủ nghĩa

XHCN

07

Qn sự, quốc phịng

QS,QP

08

Nhà xuất bản

09

Chính trị quốc gia

CTQG

10

Giáo dục quốc phòng

GDQP

Nxb



4
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
Từ khi Luật Dân quân tự vệ được ban hành, hoạt động xây dựng lực lượng
DQTV Quân khu 1 về chính trị đã được Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh Quân khu và cấp
uỷ, chính quyền các địa phương quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Nhờ đó, trình độ
giác ngộ chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống và năng lực thực hiện chức trách,
nhiệm vụ của lực lượng DQTV được nâng lên, góp phần tăng cường sự lãnh đạo
của cấp uỷ, hiệu lực quản lý của chính quyền, giữ vững ổn định chính trị, an tồn
xã hội ở địa phương, cơ sở. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, có rất nhiều vấn
đề mới tác động đến ý thức chính trị lực lượng DQTV Quân khu 1. Đó là những
vấn đề về biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta, sự phân hoá giầu nghèo,
đặc biệt thành phần tham gia DQTV đa dạng, phức tạp; về xây dựng lực lượng
tự vệ trong những doanh nghiệp không phải doanh nghiệp nhà nước… âm mưu
“phi chính trị hố” lực lượng vũ trang của các thế lực thù địch. Vì vậy, xây dựng
lực lượng DQTV vững mạnh về chính trị có ý nghĩa hết sức quan trọng, trong đó
việc nâng cao chất lượng chính trị của lực lượng DQTV là vấn đề then chốt.
Cơng trình “Nâng cao chất lượng chính trị của lực lượng DQTV
Quân khu 1 giai đoạn hiện nay” góp phần làm rõ những vấn đề cơ bản về lý
luận và thực tiễn; đề xuất những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng chính
trị của lượng DQTV Quân khu 1 giai đoạn hiện nay. Thực hiện nhiệm vụ đó,
tác giả luận án đã dựa trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng; sử dụng kết quả
nghiên cứu của một số cơng trình có liên quan đến đề tài luận án đã được
công bố trong những năm gần đây. Đồng thời tác giả luận án đã tiến hành
khảo sát thực tế hoạt động xây dựng lực lượng DQTV Quân khu 1 từ khi Luật
Dân quân tự vệ được ban hành đến nay.
Kết cấu luận án gồm: mở đầu; tổng quan vấn đề nghiên cứu; 3 chương (6
tiết); kết luận; danh mục các cơng trình khoa học của tác giả đã công bố liên
quan đến đề tài luận án; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Trong quá trình



5
thực hiện luận án, một số nội dung nghiên cứu của đề tài luận án đã được tác giả
công bố trong 4 bài báo ở các Tạp chí Quốc phịng tồn dân; Tạp chí Dân qn
tự vệ & Giáo dục quốc phịng; Tạp chí Nghệ thuật qn sự Việt Nam.
2. Lý do lựa chọn đề tài
Trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng DQTV rộng
khắp có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc giữ vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng. Đây chính là sự kế thừa truyền
thống, kinh nghiệm tổ chức lực lượng vũ trang trong lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc; vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin, tư
tưởng quân sự Hồ Chí Minh vào điều kiện lịch sử mới của đất nước và thời đại.
Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng, khơng thốt ly sản
xuất, công tác là một bộ phận của lực lượng vũ trang nhân dân nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, phục vụ chiến
đấu, làm nịng cốt cùng tồn dân đánh giặc, bảo vệ địa phương, cơ sở. Trong
thời bình, lực lượng DQTV có vai trị quan trọng bảo vệ sản xuất, phòng,
chống khắc phục hậu quả thiên tai, bảo vệ Đảng, chính quyền, tính mạng tài
sản của nhân dân. Trong chiến tranh, DQTV là lực lượng tại chỗ, giữ vai trò
nòng cốt trong chiến đấu bảo vệ địa phương cơ sở; phối hợp với các đơn vị chủ
lực tiến công tiêu diệt địch.
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh về chính trị làm cơ
sở nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu là quan điểm nhất
quán của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì thế, việc nâng cao chất lượng chính trị
của lực lượng DQTV ln là vấn đề trung tâm, then chốt trong xây dựng lực
lượng DQTV cả trong thời bình và khi đất nước có chiến tranh.
Hiện nay, việc bảo đảm chất lượng chính trị của DQTV Quân khu 1
có nhiều thuận lợi, nhưng cũng đang đứng trước những khó khăn thách
thức. Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN làm cho cơ cấu xã hội

-giai cấp biến đổi hết sức phức tạp. Những tiêu cực từ mặt trái của kinh tế
thị trường đã và đang tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, làm cho


6
một bộ phận bị suy thối về chính trị, đạo đức, lối sống, trong đó có lực lượng
DQTV. Thực tế đó càng địi hỏi phải chăm lo xây dựng, nâng cao chất lượng
chính trị của lực lượng DQTV Quân khu 1.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang ráo riết thực hiện âm
mưu “diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ nhằm xóa bỏ CNXH ở nước ta. Để thực
hiện mục tiêu này chúng tìm mọi thủ đoạn phá hoại sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang nhân dân, chia rẽ lực lượng vũ
trang với nhân dân, phá hoại tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của các lực lượng
vũ trang nhân dân ta nói chung và lực lượng DQTV nói riêng.
Những năm qua quán triệt các quan điểm, chủ trương của Đảng, Luật
Dân quân tự vệ, hoạt động xây dựng lực lượng DQTV Quân khu 1 đã có
chuyển biến tích cực trong cơng tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện.
Nhờ đó, chất lượng chính trị của lực lượng DQTV cơ bản được giữ vững, chất
lượng tổng hợp được nâng lên, góp phần vào tăng cường sự lãnh đạo của cấp
uỷ, hiệu lực quản lý của chính quyền, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an
toàn xã hội ở địa phương, cơ sở. Tuy nhiên, do trình độ dân trí, nhất là của
đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa trên địa bàn Quân khu 1 còn
thấp. Đất nước phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, toàn bộ hoạt
động quản lý xã hội, trong đó có nội dung quản lý xây dựng DQTV chưa theo
kịp sự phát triển kinh tế - xã hội. Cịn có biểu hiện chưa nhận thức đầy đủ về
vị trí, vai trị chiến lược của lực lượng DQTV trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Nhìn chung, chất lượng chính trị của lực lượng DQTV Quân
khu 1, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng biên giới chưa
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, hiệu quả hoạt động chưa cao, đặc biệt khi có tình
huống phức tạp về chính trị, xã hội ở địa phương, cơ sở.

Là người đã có thời gian khá dài cơng tác ở các cơ quan quân sự địa
phương của Quân khu 1, vì vậy, tác giả lựa chọn vấn đề nghiên cứu “Nâng
cao chất lượng chính trị của lực lượng dân quân tự vệ Quân khu 1 giai đoạn
hiện nay” làm đề tài luận án tiến sỹ chính trị học, chuyên ngành Xây dựng


7
Đảng và Chính quyền nhà nước. Đề tài khơng trùng lặp với các cơng trình
nghiên cứu đã cơng bố những năm gần đây, phù hợp với mã số chuyên ngành
Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài luận án
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn nâng
cao chất lượng chính trị của lực lượng DQTV Quân khu 1, góp phần xây dựng lực
lượng DQTV Quân khu 1 vững mạnh hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài lụân án: Nâng cao chất lượng
chính trị của lực lượng DQTV Quân khu 1.
* Phạm vi nghiên cứu: Tập trung đi sâu nghiên cứu chất lượng chính trị
và hoạt động nâng cao chất lượng chính trị của lực lượng DQTV ở một số địa
phương trên địa bàn Quân khu 1 kể từ khi có Luật Dân quân tự vệ đến nay.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài luận án
* Đóng góp mới về khoa học của đề tài luận án:
- Luận giải và nêu ra quan niệm chất lượng chính trị và nâng cao chất
lượng chính trị của lực lượng DQTV.
- Rút ra những kinh nghiệm nâng cao chất lượng chính trị của lực lượng
DQTV Quân khu 1.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng chính trị
của lực lượng DQTV Quân khu 1 đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
giai đoạn hiện nay.
*Ý nghĩa thực tiễn của đề tài luận án:

Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho
Đảng, Nhà nước mà trực tiếp là Đảng uỷ, Bộ tư lệnh Quân khu 1, cấp uỷ,
chính quyền các tỉnh, thành phố trên địa bàn Quân khu xác định các chủ trương
giải pháp nâng cao chất lượng chính trị lực lượng DQTV các địa phương, cơ
sở. Luận án có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy mơn
CTĐ,CTCT và giáo dục quốc phịng trong các nhà trường quân đội.


8
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án
1.1. Những cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi có liên quan đến đề
tài luận án
Ở Liên Xơ đã có một số cơng trình nghiên cứu về lực lượng du kích
trong chiến tranh giữ nước 1941 - 1945. Cơng trình Học thuyết Mác - Lênin về
chiến tranh và quân đội của Bộ Quốc phịng Liên Xơ, đã khái qt và phân tích
hoạt động lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Nhà nước Xô viết trong lãnh đạo,
chỉ đạo, xây dựng tổ chức và hoạt động của lực lượng dân quân trong chiến
tranh. Công trình này đã nêu rõ, ngay từ những ngày đầu của cuộc chiến tranh
cùng với việc động viên quân đội, Đảng và Chính phủ Liên Xơ đã “thành lập
các sư đoàn dân quân. Ở Mátxcơva trong 4 ngày đã thành lập 11 sư đoàn gồm
137.000 người. Ở Lêningrát, số lượng dân quân đã vượt quá 300.000 người.
Chiến tranh bước sang tháng thứ hai thì tất cả các thành phố, huyện lỵ trong
nước đã xây dựng được những tiểu đoàn xung kích. Chỉ riêng ở thành phố
Mátxcơva và tỉnh Mátxcơva đã có đến 187 tiểu đồn” [60, tr.274-275].
Về chiến cơng của lực lượng du kích trong chiến tranh giữ nước, cơng
trình này viết: “Trong những năm 1942 - 1943 ở các vùng lãnh thổ bị qn phát
xít Đức chiếm đóng có trên một ngàn đội du kích hoạt động, gồm hàng chục
vạn người Xô viết chiến đấu. Chỉ trong hai năm đầu của chiến tranh du kích đã
tiêu diệt trên 300 ngàn quân chiến đóng, trong đó có 30 tên tướng, 6.636 sỹ

quan, 1.520 phi công và bắt sống 2.747 tên. Trong thời gian ấy ở vùng sau lưng
địch, du kích đã phá được 3.623 cầu, đánh đổ 1.000 đoàn xe lửa quân sự, phá
huỷ và chiếm được 476 máy bay, 1.276 xe tăng và xe bọc thép, 541 khẩu pháo,
2.320 súng máy, 1.4645 xe hơi và nhiều máy móc dụng cụ chiến tranh khác.
Du kích đã giúp bộ đội tiến cơng giải phóng nhiều tỉnh và nước cộng hồ”[60,
tr.274]. Để đối phó với lực lượng du kích, Bộ tư lệnh phát xít Đức đã phải tung
ra lực lượng rất lớn “Có đến 10% lực lượng quân Đức hoạt động ở mặt trận Xô


9
- Đức được sử dụng để chống lại du kích. Ngồi ra bọn phát xít phải dành
nhiều lực lượng để tiến hành cái gọi là: “chiến tranh thụ động” chống du kích
để bảo vệ các đường xe lửa và những đường giao thông quan trọng khác.
Nhưng tất cả những biện pháp này đều khơng giúp bọn Hít le hạn chế đáng kể
quy mơ của phong trào du kích” [60, tr.275].
Về nguyên nhân của những thành công trong xây dựng lực lượng du kích
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc XHCN, các cơng trình
của Liên Xơ đều thống nhất cho rằng, “cái chính để bảo đảm thắng lợi trong cuộc
đấu tranh chống quân thù là ngay từ đầu đã xây dựng được những tổ chức đảng bí
mật vững chắc, trong q trình đấu tranh, những tổ chức này đã phát triển một đội
ngũ đông đảo và đã lãnh đạo phong trào du kích rộng rãi” [60, tr.274].
Từ vai trị và thành tích của lực lượng du kích trong chiến tranh giữa nước
vĩ đại, các cơng trình của Liên Xơ đều thống nhất khẳng định rằng việc tổ chức
lực lượng du kích để tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc XHCN là cần
thiết. Vấn đề này xuất phát từ luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính chất
chính nghĩa, vai trị của quần chúng nhân dân trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc;
về tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc XHCN; xuất phát từ kinh
nghiệm lịch sử và truyền thống của dân tộc Nga.
Tuy nhiên các cơng trình của Liên Xô chỉ đề cập đến sự cần thiết phải tổ
chức xây dựng lực lượng du kích khi chiến tranh bảo vệ Tổ quốc XHCN xảy

ra, mà không đề cập đến sự cần thiết phải tổ chức xây dựng lực lượng này
trong điều kiện đất nước hồ bình. Đây là điểm khác về xây dựng và sử dụng
lực lượng dân quân của Liên Xô với Việt Nam. Mặc dù vậy, những kinh
nghiệm về lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức và hoạt động của lực lượng du kích trong
chiến tranh mà Đảng Cộng sản và Nhà nước Liên Xô đã tổng kết là những tài liệu
có giá trị lý luận, thực tiễn đối với việc xây dựng lực lượng DQTV đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Ở Trung Quốc có lực lượng Dân binh. Điều 36 Luật nghĩa vụ quân sự
Trung Hoa xác định Dân binh là tổ chức vũ trang quần chúng khơng thốt ly


10
sản xuất, là trợ thủ và là lực lượng hậu bị của Quân giải phóng nhân dân Trung
Quốc. Điều 37 của Luật này xác định, xã, bản, làng, thị trấn và các đơn vị hành
chính, sự nghiệp, xí nghiệp thành lập tổ chức dân binh. Chủ đề về cơng tác
chính trị trong lực lượng Dân binh trong tài liệu giáo trình cơng tác chính trị
của qn giải phóng Trung quốc do Chương Tư Nghị chủ biên [72, tr.724];
khẳng định, lực lượng Dân binh là một thành phần của lực lượng vũ trang, do
Đảng Cộng sản lãnh đạo. Lực lượng Dân binh không chỉ được tổ chức xây
dựng trong thời chiến mà cịn tổ chức xây dựng trong thời bình để bảo vệ
thành quả cách mạng, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng tiến hành chiến tranh
nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Đề cập đến chức năng, nhiệm vụ của lực lượng dân
binh, cơng trình này chỉ rõ lực lượng dân binh có trách nhiệm bảo vệ, tơn trọng,
giúp đỡ chính quyền cách mạng, chấp hành Hiến pháp, pháp luật Nhà nước, bảo
vệ đời sống yên lành của nhân dân, đồng thời phải xung kích trên mặt trận lao
động sản xuất. Cơng tác chính trị trong xây dựng lực lượng dân binh phải giáo
dục cho mỗi dân binh nhận thức được chức năng, nhiệm vụ, nghĩa vụ của mình,
trên cơ sở đó mà xây dựng mối quan hệ mật thiết với nhân dân.
Ở Cu Ba có lực lượng Dân quân bộ đội lãnh thổ. Điều 50 Bộ Luật Quốc
phòng Cu Ba quy định: Dân quân bộ đội lãnh thổ là một bộ phận của các lực

lượng vũ trang cách mạng và là một trong những hình thức tổ chức của nhân dân
Cu Ba để tiến hành đấu tranh vũ trang và thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng
khác. Luật này cũng quy định rõ trách nhiệm của Bộ các lực lượng vũ trang cách
mạng, chính quyền địa phương các cấp, các doanh nghiệp đối với xây dựng,
quản lý, sử dụng lực lượng Dân quân bộ đội lãnh thổ
Tóm lại, dưới ánh sáng học thuyết Mác - Lênin về bảo vệ Tổ quốc
XHCN; về tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, tuy tên gọi và
cách thức tổ chức và sử dụng lực lượng dân quân ở các nước Liên Xô, Trung
Quốc, Cu Ba khác nhau, ở trong những thời điểm và hoàn cảnh lịch sử khác
nhau, nhưng đều khẳng định vị trí, vai trị của lực lượng dân qn; chỉ ra


11
những nhiệm vụ, nguyên tắc lãnh đạo, quản lý, sử dụng lực lượng này. Đây là
những tư liệu có giá trị lý luận và phương pháp luận nghiên cứu về chất lượng
chính trị và nâng cao chất lượng chính trị của lực lượng DQTV ở Quân khu 1
trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Cơng trình nghiên cứu ở trong nước liên quan đến đề tài
Trung thành và vận dụng sáng tạo học thuyết quân sự Mác - Lênin,
kế thừa và phát huy kinh nghiệm, truyền thống, kế sách, nghệ thuật giữ
nước của cha ông và tiếp thu tinh hoa quân sự thế giới, Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đặc biệt quan tâm chăm lo đến việc xây dựng lực lượng DQTV,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể đất nước và thời đại. Xây dựng lực
lượng DQTV trong cả thời chiến và thời bình là quan điểm nhất quán của
Đảng, Nhà nước ta. Quán triệt quan điểm của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Luật DQTV, đã có nhiều cơ quan, cán bộ khoa học nghiên cứu về tổ chức,
hoạt động của DQTV trong các thời kỳ cách mạng. Những cơng trình nghiên
cứu ở trong nước có liên quan đến đề tài luận án bao gồm hai nhóm: Nhóm
những cơng trình nghiên cứu về tổ chức xây dựng và hoạt động của lực lượng

DQTV trên các địa bàn của cả nước; Nhóm những cơng trình nghiên cứu về tổ
chức xây dựng và hoạt động của lực lượng DQTV Quân khu 1 với nội dung và
phạm vi khác nhau.
* Những cơng trình nghiên cứu về tổ chức xây dựng và hoạt động
của lực lượng DQTV của cả nước trong các thời kỳ cách mạng.
Năm 1970, đồng chí Lê Duẩn[40], nguyên Tổng Bí thư Đảng
Cộng sản Việt Nam có tác phẩm Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự
do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới. Ở tác phẩm này tác
giả đã đề cập, phân tích đến những vấn đề cơ bản về đường lối chiến tranh
nhân dân của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong nội
dung bàn về lực lượng vũ trang địa phương, tác giả chỉ rõ phải xây dựng lực


12
lượng DQTV ở miền Bắc, lực lượng du kích ở miền Nam vững mạnh rộng
khắp trên cả ba vùng chiến lược thành thị, đồng bằng, rừng núi làm nòng cốt
cho nhân dân chiến đấu, bảo vệ, giải phóng quê hương. Để xây dựng lực lượng
DQTV vững mạnh, rộng khắp, tác giả chỉ rõ phải tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác quân sự địa phương, khắc phục những nhận thức không
đúng như: xem nhẹ công tác quân sự địa phương, xem nhẹ vai trò của lực
lượng tại chỗ, khơng đi từ xây dựng cơ sở chính trị, vận động quần chúng để
củng cố, xây dựng bộ đội địa phương, DQTV.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phịng có tác phẩm
Nắm vững đường lối chiến tranh nhân dân, đánh thắng chiến tranh phá hoại
của đế quốc Mỹ. Trong tác phẩm này, tác giả đã làm sáng tỏ đường lối chiến
tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại; rút ra những kinh nghiệm lớn,
những bài học quý báu mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã thu được trong
những năm chiến đấu anh dũng, kiên cường và thắng lợi chống chiến tranh phá
hoại của giặc Mỹ trên miền Bắc nước ta. Về vị trí, vai trị của lực lượng DQTV
trong chống chiến tranh phá hoại bảo vệ miền Bắc, củng cố xây dựng hậu

phương đã được tác giả chỉ rõ: “Dù trong hoàn cảnh nào, nếu xây dựng được
lực lượng tự vệ và dân quân mạnh, thì chẳng những ln bảo đảm được sẵn
sàng chiến đấu và chiến đấu tốt mà cịn đảm bảo duy trì và đẩy mạnh sản xuất
trong mọi tình huống”[57, tr.89]. Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng lực
lượng DQTV ở miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng chí Võ
nguyên Giáp khẳng định: “Nếu các địa phương lãnh đạo tốt hơn, chỉ huy chặt
chẽ hơn, tổ chức huấn luyện thích hợp hơn thì chắc chắn đây là một lực lượng
rất mạnh, đáp ứng được yêu cầu của địa phương trong thời chiến cũng như
trong thời bình”[57, tr.95]. Để xây dựng lực lượng DQTV vững mạnh tác giả
khẳng định: “Cần phải nắm chắc vấn đề nâng cao chất lượng, nâng cao sức
mạnh chiến đấu, coi trọng khâu then chốt là đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
chỉ huy”[57, tr.105]


13
Đại tướng Văn Tiến Dũng, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phịng, năm
1979 có cơng trình Sức mạnh giữ nước của dân tộc Việt Nam. Trong mục bàn
về tổ chức và hoạt động của DQTV, tác giả đã khái quát kinh nghiệm của tổ
tiên về tổ chức lực lượng vũ trang địa phương trong cơng cuộc giữ nước; phân
tích làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về xây dựng lực
lượng DQTV; những thành tích và chiến cơng của lực lượng DQTV trong
kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ, cứu nước; khái quát kinh
nghiệm của Liên Xô, Trung Quốc trong trong xây dựng lực lượng dân DQTV.
Trên cơ sở đó, tác giả xác định: “Dân quân tự vệ cần được xây dựng mạnh
mẽ, rộng khắp với quy mơ thích hợp, thực hiện ở đâu có sản xuất, có dân là có
dân quân tự vệ. Tổ chức vừa có lực lượng nịng cốt và lực lượng rộng rãi, lực
lượng chiến đấu và lực lượng phục vụ chiến đấu, lực lượng tại chỗ và lực
lượng cơ động, có bộ binh và một số đơn vị binh chủng. Quy mơ tổ chức có
thể đến đại đội, tiểu đồn, trung đồn, xí nghiệp lớn có thể tổ chức sư đồn tự
vệ… Hết sức coi trọng chất lượng. Chú ý tăng cường thành phần cơng nhân,

số lượng đảng viên, đồn viên cho lực lượng DQTV” [42, tr.230].
Năm 1998, Tổng cục Chính trị có cơng trình: Cơng tác đảng, cơng tác
chính trị trong xây dựng và hoạt động của dân quân tự vệ. Cơng trình này đã
xác định nhiệm vụ u cầu CTĐ,CTCT trong xây dựng lực lượng DQTV,
trong đó việc thường xuyên làm trong sạch đội ngũ, bảo đảm độ tin cậy về
chính trị được xác định là một nhiệm vụ quan trọng của CTĐ,CTCT trong
nhiệm vụ xây dựng và hoạt động của DQTV.
Học viện Chính trị có giáo trình về Cơng tác đảng, cơng tác chính trị
trong cơng tác qn sự địa phương. Trong giáo trình này có chủ đề
CTĐ,CTCT trong xây dựng và hoạt động của DQTV. Chủ đề đã xác định rõ
vị trí, vai trị, nhiệm vụ, u cầu, nội dung, biện pháp CTĐ,CTCT trong xây
dựng và hoạt động của DQTV.
Cục Dân quân tự vệ có tài liệu Hệ thống các văn bản nhà nước về công
tác dân quân tự vệ và giáo dục quốc phòng (2011). Tài liệu này đã trích các


14
văn kiện nghị quyết của Đảng, pháp lệnh, luật, Nghị định của Chính phủ về
thực hiện Luật Dân quân tự vệ; các chương trình huấn luyện, giáo dục chính
trị, CTĐ,CTCT, tổ chức biên chế, vũ khí, trang bị, đào tạo, bồi dưỡng, tập
huấn cán bộ, hoạt động và các chế độ chính sách đối với DQTV; chỉ rõ những
yêu cầu về chất lượng chính trị của DQTV.
Học viện quốc phịng (2002) có giáo trình cơng tác đảng, cơng tác
chính trị trong cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương. Trong nội dung
xây dựng lực lượng vũ trang địa phương vững mạnh về chính trị, giáo trình
này xác định phải khơng ngừng nâng cao giác ngộ cách mạng, bản lĩnh chính
trị cho lực lượng DQTV; giáo dục về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của lực
lượng DQTV trong tình hình mới.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm (2004) có giáo trình về
quốc phịng, an ninh và đối ngoại. Trong chủ đề xây dựng lực lượng DQTV

trong tình hình mới, giáo trình này đã phân tích luận giải sâu sắc quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về xây
dựng lực lượng DQTV; xác định nguyên tắc lãnh đạo, quản lý, huấn luyện, giáo
dục; chỉ rõ trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền và các tổ chức
trong hệ thống chính trị đất nước đối với xây dựng lực lượng DQTV vững mạnh
về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Những luận giải của cơng trình này về vai trị, nội
dung xây dựng và hoạt động của DQTV là những tư liệu có giá trị lý luận, thực
tiễn để tác giả kế thừa phục vụ cho nội dung của đề tài luận án.
Chấp hành chỉ thị của Đảng uỷ Quân sự Trung ương, nay là Quân uỷ
Trung ương, các đơn vị, địa phương đã tiến hành tổng kết 6 năm (2002 2008) thực hiện Chỉ thị 16 - CT/TW ngày 5 tháng 10 năm 2002 của Ban Bí
thư về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng DQTV và lực
lượng dự bị động viên trong tình hình mới, từ xã phường, thị trấn đến Trung
ương; Tổng kết 12 năm thực hiện Pháp lệnh DQTV được tổ chức từ cấp xã
đến quân khu, bộ, ngành Trung ương. Từ tổng kết thực tiễn các cấp đã bước
đầu rút ra một số kinh nghiệm về lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các


15
quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về xây dựng lực
lượng DQTV. Các đơn vị đều khẳng định tầm quan trọng của việc phải xây
dựng lực lượng DQTV vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng
của cấp uỷ, chính quyền địa phương và vai trị của các Qn khu đối với việc
lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt động xây dựng lực lượng DQTV; chỉ rõ, quá trình
thực hiện phải làm tốt cơng tác chuẩn bị, có kế hoạch và hướng dẫn cụ thể cho
từng cấp, nhất là phải phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ từng đơn vị cơ sở và
có tính khả thi và triển khai thực hiện toàn diện các nội dung xây dựng DQTV
vững mạnh; nắm chắc những mặt, những nội dung trọng tâm, trọng điểm để
tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tập trung lực lượng dứt điểm kịp thời, đúng kế
hoạch; quan tâm dự báo tình hình, thường xuyên sâu sát, bám nắm cơ sở, kịp

thời phát hiện những vấn đề mới nảy sinh về nhận thức tư tưởng, những mặt
yếu, khâu yếu trong xây dựng lực lượng DQTV, đề xuất các biện pháp khắc
phục sửa chữa kịp thời. Đồng thời các Quân khu cũng xác định trong quá
trình tổ chức thực hiện phải phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, các ngành
với cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương, trên cơ sở phát huy vai trò làm
tham mưu của cơ quan quân sự địa phương trong xây dựng lực lượng dân
quân tự vệ vững mạnh; coi trọng bồi dưỡng nâng cao phẩm chất chính trị cho
lực lượng DQTV. Quan tâm chăm lo xây dựng lực lượng DQTV nịng cốt.
Đầu tư thích đáng cơ sở vật chất, kinh phí, tư liệu, tài liệu, thời gian, lực
lượng, phương tiện tạo các điều kiện thuận lợi cho hoạt động của DQTV.
Thường xuyên chăm lo nâng cao đời sống vật chất tinh thần của DQTV, nhất
là bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện, trang bị cho hoạt động thực hiện
nhiệm vụ của DQTV thời kỳ mới.
Báo cáo tổng kết của các đơn vị, địa phương cũng đã chỉ ra những
nguyên nhân làm hạn chế đến kết quả xây dựng lực lượng DQTV. Đáng chú ý
là, nhận thức của một bộ phận cán bộ, nhân dân cịn hạn chế, có biểu hiện cịn
coi nhẹ vị trí, vai trò của lực lượng DQTV trong sự nghiệp xây dựng và bảo


16
vệ Tổ quốc; có nơi chưa thực sự quan tâm bảo đảm chế độ, chính sách cho lực
lượng DQTV trong huấn luyện và hoạt động theo quy định của pháp luật; việc
xây dựng và quản lý lực lượng tự vệ ở các doanh nghiệp cịn khó khăn. Nhiều
vùng nơng thơn thuộc khu vực đồng bằng đông dân, vùng trung du miền núi
lực lượng lao động làm ăn xa, không bảo đảm nguồn lực tại chỗ để tuyển
chọn vào dân quân tự vệ. Những địa phương kinh tế chậm phát triển, cịn
nhiều hộ nghèo nên việc bảo đảm chế độ chính sách cho DQTV huấn luyện
và hoạt động gặp khó khăn…
Cùng với các cơng trình của các học viện, nhà trường, cơ quan nghiên
cứu, chỉ đạo, báo cáo tổng kết của các đơn vị, cịn có nhiều bài viết của các

cán bộ lãnh đạo chỉ huy, quản lý, cán bộ khoa học nghiên cứu về xây dựng tổ
chức và hoạt động của lực lượng DQTV trong các thời kỳ cách mạng. Đặc
biệt từ khi Quốc hội khố XII thơng qua Luật Dân quân tự vệ đã có nhiều cán
bộ khoa học, lãnh đạo quản lý nghiên cứu, quán triệt các quan điểm của Đảng,
pháp luật của Nhà nước về xây dựng lực lượng DQTV ở các cấp, các ngành, địa
phương cơ sở. Có thể dẫn ra ở đây một số cơng trình tiêu biểu :
Đại tá Hồng Văn Thanh [101]; Dân quân tự vệ tỉnh Quảng Trị - Lực
lượng nòng cốt trong phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai ở cơ sở.
Đại tá Nguyễn Chiến Trường[102]; Xây dựng lực lượng dự bị động viên và
xây dựng dân quân tự vệ vững mạnh ở vùng biên giới tỉnh Gia Lai. Đại tá Lê
Minh Quang [93]; Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ biển của tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, kết quả bước đầu và kinh nghiệm. Thượng tá Nguyễn Minh Triều
[103]; Các địa phương trên địa bàn Quân khu 9 thực hiện tốt chế độ chính
sách cho lực lượng dân quân tự vệ. Trịnh Văn Nuôi [91]; Công ty cấp thoát
nước tỉnh Trà Vinh xây dựng trung đội tự vệ súng máy phịng khơng 12,7 mm
vững mạnh. Thượng tá, Nguyễn Văn Trường [104]; Một số giải pháp xây
dựng lực lượng dân quân tự vệ biển trên địa bàn Quân khu 5. Ngọc Thắng
[105]; Công tác xây dựng lực lượng dân quân tự vệ ở Thanh Hoá. Đại tá Bùi


17
Xuân Nghĩa[90]; Bộ đội địa phương và dân quân tự vệ Quảng Bình trong
những năm đầu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Thiếu tá, Trần
Thị Hương: Du kích Tuyên Quang trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược. Đại tá, Hồ Xuân Thức[107]; Các Bộ, ngành địa phương tập
trung chỉ đạo xây dựng lực lượng dân quân tự vệ năm 2011 theo quy định của
Luật Dân quân tự vệ. Đại tá Nguyễn Đức Vang [130]; Các địa phương tập trung
chỉ đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cán bộ, huấn luyện dân quân tự vệ
năm 2011. Đại tá, Lưu Công Triệu [108]; Đăng ký, quản lý dân quân tự vệ rộng
rãi là một nội dung xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp.
Những cơng trình trên đã đề cập đến nhiều phương diện khác nhau về

xây dựng, tổ chức và hoạt động của DQTV ở các địa bàn khác nhau của đất
nước. Có cơng trình chỉ đi sâu phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn một mặt,
một nội dung của hoạt động xây dựng lực lượng DQTV. Tác giả Nguyễn Đức
Vang ở Quân khu 9 cho rằng thực hiện tốt cơng tác chính sách của Đảng, nhà
nước đối với DQTV là thiết thực tạo ra động lực thúc đẩy DQTV các địa
phương thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Thực hiện tốt việc đăng ký,
quản lý DQTV rộng rãi được tác giả Lưu Công Triệu xác định là một nội
dung quan trọng bảo đảm tiêu chuẩn chính trị của lực lượng DQTV theo đúng
quy định của Luật Dân quân tự vệ. Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi
dưỡng, tập huấn cán bộ, huấn luyện DQTV được tác giả Nguyễn Đức Vang
xác định là một nội dung quan trọng của xây dựng lực lượng DQTV vững
mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, khơng ngừng nâng cao chất lượng tổng
hợp và sức mạnh chiến đấu. Trong bài một số kinh nghiệm xây dựng tiểu đội
dân quân thường trực xã Mường Nhà, Tạp chí DQTV - GDQP, tháng 8 năm
2011, tác giả Phan Hương cho rằng để xây dựng lực lượng DQTV thường
trực cần phải thường xuyên làm tốt cơng tác củng cố, kiện tồn tổ chức, bảo
đảm lực lượng DQTV thường trực đủ số lượng và chất lượng, chú trọng về
chất lượng chính trị; tăng cường cơng tác giáo dục chính trị, bồi dưỡng kiến


18
thức pháp luật gắn với huấn luyện quân sự, bảo đảm đủ các điều kiện cần thiết
cho DQTV thường trực hoạt động.
Nghiên cứu xây dựng DQTV vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức,
xây dựng nhân tố chính trị - tinh thần của lực lượng DQTV có các cơng trình:
Đại tá, PGS, TS Lê Duy Chương [39]; Nâng cao bản lĩnh chính trị cho cán bộ
dân quân ở vùng cao biên giới trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở luận giải vai
trị của bản lĩnh chính trị đối với nâng cao chất lượng chính trị của đội ngũ cán
bộ DQTV; đặc điểm và những khó khăn, thách thức hiện nay, tác giả đề xuất
một số giải pháp nâng cao bản lĩnh chính trị cho cán bộ DQTV ở vùng cao biên

giới hiện nay: Nâng cao lập trường tư tưởng, bản chất giai cấp cơng nhân, trình
độ chính trị cho đội ngũ cán bộ dân quân; nâng cao nhận thức và nắm vững pháp
luật của nhà nước để thực hiện các nhiệm vụ QS,QP được giao; Nâng cao phẩm
chất đạo đức cách mạng, năng lực công tác QS,QP địa phương cho cán bộ dân
quân. Theo tác giả việc nâng cao bản lĩnh chính trị là một nội dung, biện pháp
trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng chính trị của đội ngũ cán bộ và chất
lượng tổng hợp của lực lượng DQTV.
Phát triển đảng viên trong lực lượng DQTV là một trong những giải
pháp cơ bản để nâng cao chất lượng chính trị lực lượng DQTV. Về vấn đề
này, có các bài của Nguyễn Tiến Dũng [41]; Một số kinh nghiệm công tác
phát triển đảng viên trong lực lượng dân quân tự vệ ở các địa phương trên
địa bàn Tây Nguyên. Trần Đình Trọng [109]; Đảng uỷ quân sự huyện Quang
Bình, Hà Giang làm tốt cơng tác tham mưu phát triển đảng viên trong lực
lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên. Các tác giả đã khẳng định phát triển
đảng viên trong lực lượng DQTV ở các địa phương trên địa bàn là một nội
dung trọng tâm của công tác QS,QP ở địa phương, cơ sở nhằm tăng tỷ lệ đảng
viên, góp phần xây dựng chi bộ quân sự xã, phường, thị trấn trong sạch vững
mạnh. Từ kết quả thực hiện công tác phát triển đảng viên ở các địa phương
trên địa bản Tây Nguyên và ở Hà Giang, các tác giả đã khái quát một số kinh


19
nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, đó là: thường xun làm
tốt cơng tác tuyển chọn và và quản lý DQTV, trên cơ sở đó tạo nguồn phát
triển đảng viên; phát huy vai trò của quần chúng và nhân dân đối với công tác
phát triển đảng viên trong lực lượng DQTV; thực hiện tốt thủ tục kết nạp
đảng viên và phát huy vai trò của các đơn vị quân đội trên địa bàn tham gia
vào phát triển đảng viên cho lực lượng DQTV địa bàn. Ở đây có thể thấy, việc
phát triển đảng viên trong lực lượng DQTV là trực tiếp góp phần giữ vững và
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với đơn vị DQTV do đó mà chất lượng

chính trị của DQTV được nâng lên.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, xây dựng nhân tố chính
trị - tinh thần cho lực lượng DQTV là một nội dung cơ bản nhằm nâng cao chất
lượng chính trị của lực lượng DQTV. Trong bài Một số giải pháp xây dựng nhân
tố chính trị - tinh thần cho lực lượng tự vệ biển ở thành phố Đà Nẵng hiện nay
[110], tác giả Nguyễn Văn Tượng cho rằng, nhân tố chính trị - tinh thần là vấn
đề cốt lõi trong xây dựng lực lượng DQTV biển nói riêng và lực lượng DQTV
nói chung. Xuất phát từ tình hình thực tiễn hiện nay, để làm tốt hơn nữa việc xây
dựng nhân tố chính trị - tinh thần cho lực lượng DQTV biển Đà Nẵng, tác giả
cho rằng cần đổi mới nội dung, hình thức học tập chính trị cho DQTV. Tăng
cường tuyên truyền giáo dục truyền thống yêu nước, truyền thống của thành phố
cho DQTV biển; xây dựng tinh thần sẵn sàng chiến đấu, khắc phục khó khăn,
chịu đựng hy sinh gian khổ, đoàn kết tự lực, tự cường bảo vệ chủ quyền biển
đảo; tăng cường đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất, chăm lo bảo đảm tốt đời sống
văn hoá, tinh thần cho lực lượng DQTV biển khi làm nhiệm vụ.
Đào tạo cán bộ quân sự xã, phường là một yêu cầu, nội dung quan
trọng của xây dựng lực lượng DQTV vững mạnh về chính trị. Trong bài Thực
Trạng và giải pháp công tác đào tạo cán bộ quân sự cơ sở trên địa bàn Quân
khu 9 [111], tác giả Nguyễn Minh Triều cho rằng, cán bộ quân sự ở cơ sở xã
đội, thôn, ấp đội trưởng, cán bộ trung đội, tiểu đội dân quân có phẩm chất,


20
năng lực là nhân tố có ý nghĩa quyết định nâng cao chất lượng công tác
QS,QP ở cơ sở, xây dựng đơn vị dân quân vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Năm 2011, Viện khoa học xã hội nhân văn quân sự có đề tài nâng cao
chất lượng chính trị của lực lượng DQTV hiện nay. Trên cơ sở lý luận chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, đề tài đã
luận giải một số vấn đề lý luận, thực tiễn về chất lượng chính trị và đề xuất

một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng chính trị lực lượng DQTV hiện
nay. Đề tài đã đưa ra quan niệm chất lượng chính trị lực lượng DQTV. Theo
ban đề tài, chất lượng chính trị của lực lượng DQTV là tổng hoà giá trị của
những yếu tố lịch sử chính trị, phẩm chất chính trị, năng lực chính trị, quan hệ
chính trị xã hội của từng người và chất lượng chính trị của từng đơn vị DQTV
được thể hiện ra ở các hoạt động chính trị thực tiễn, hồn thành tốt nhiệm vụ
chính trị và các nhiệm vụ được giao. Ở đây có thể thấy, ban đề tài đã coi yếu
tố về lịch sử chính trị là vấn đề quan trọng đầu tiên của chất lượng chính trị so
với các yếu tố khác. Mặc dù có những vấn đề cần phải bàn luận, nhưng về cơ
bản quan niệm của ban đề tài về chất lượng chính trị là gợi ý quan trọng để
tác giả luận án nghiên cứu khái niệm chất lượng chính trị và nâng cao chất
lượng chính trị lực lượng DQTV Quân khu 1.
Nghiên cứu thực tế về triển khai thực hiện Đề án xây dựng mơ hình
điểm tổ chức, huấn luyện, hoạt động và những biện pháp quản lý dân quân tự
vệ theo quyết định số 1902/QĐ-TTg ngày 15-10-2010 của Chính phủ, Trung
tướng Hoàng Châu Sơn, Cục trưởng Cục Dân quân tự vệ có bài: Nhân rộng
mơ hình điểm trong lực lượng dân quân tự vệ, Tạp chí QPTD, số 2 năm 2013.
Bài viết đã bước đầu đánh giá những kết quả, ưu điểm và hạn chế về xây
dựng mơ hình điểm trong lực lượng DQTV, đề xuất một số giải pháp nhân
rộng mơ hình điểm tổ chức, huấn luyện, hoạt động và những biện pháp quản
lý DQTV; Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền và


21
phát huy vai trò của các cơ quan, ban ngành, đoàn thể nhất là cơ quan quân sự
các cấp trong việc triển khai xây dựng lực lượng DQTV theo các mơ hình
điểm; hai là, phải coi trọng đảm bảo chất lượng chính trị làm cơ sở nâng cao
chất lượng tổng hợp; ba là, bảo đảm chế độ, chính sách và tăng cường đổi
mới công tác quản lý lực lượng DQTV.
* Những cơng trình nghiên cứu về tổ chức xây dựng và hoạt động

của lực lượng dân quân tự vệ Quân khu 1 trong các thời kỳ cách mạng
có liên quan đến đề tài luận án.
Bàn về vai trò của lực lượng dân qn du kích trong kháng chiến có các
bài viết của Trung tướng Hồng Châu Sơn [100]; Vai trị của lực lượng vũ
trang địa phương trong chiến dịch Biên giới - Thu Đơng năm 1950. Đại tá,
Trần Hữu Hồn [64]; Lực lượng vũ trang Cao Bằng trong chiến dịch Biên
Giới - Thu Đông năm 1950. Thượng tá, Nguyễn Đức Thức [112]; Lực lượng
dân quân tự vệ Từ Sơn Bắc Ninh 76 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng
thành. Các tác giả khái quát thành tích và phân tích rõ vai trị của lực lượng
dân qn du kích trong thực hiện nhiệm vụ đánh địch tại chỗ, tham gia dân
công làm đường vận tải phục vụ chiến dịch; tham gia vận động nhân dân phục
vụ chiến dịch trong chiến dịch Biên Giới - Thu Đông 1950. Trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, các tác giả tiếp tục khẳng định, DQTV là lực
lượng cơ bản, lực lượng chiến lược của chiến tranh nhân dân địa phương. Để
lực lượng DQTV có thể hồn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ Đảng, bảo vệ chính
quyền, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân ở địa phương cơ sở, các tác giả
kiến nghị với các cấp, các ngành cần quán triệt và thực hiện nghiêm túc quan
điểm của Đảng, hệ thống chính sách, pháp luật của nhà nước đối với lực
lượng DQTV; coi đó là một trong những nội dung, giải pháp xây dựng lực
lượng DQTV vững mạnh về chính trị.
Đại tá Nguyễn Thắng trong bài Lực lượng vũ trang tỉnh Cao Bằng 60
năm xây dựng và trưởng thành [113], cho rằng một trong những thành tựu và


22
kinh nghiệm xây dựng lực lượng vũ trang tỉnh Cao Bằng là ln nắm vững
nhiệm vụ chính trị, tập trung xây dựng nâng cao chất lượng tổng hợp của lực
lượng vũ trang, lấy việc xây dựng, nâng cao chất lượng chính trị làm chính.
Đối với xây dựng lực lượng DQTV phải thực hiện tốt việc rà soát, đăng ký,
quản lý công dân trong độ tuổi DQTV.

Trong bài Tự vệ Công ty cổ phần gang thép Thái Nguyên hơn 50 năm
xây dựng, chiến đấu và trưởng thành [114], tác giả Vũ Đức Thọ đã khẳng
định Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên đã nhận thức sâu sắc về vai
trò, nhiệm vụ của lực lượng tự vệ trong thời kỳ mới. Công ty đã luôn chăm
lo xây dựng lực lượng tự vệ vững mạnh, có số lượng hợp lý, chất lượng
cao; thường xuyên kiện toàn tổ chức biên chế; thực hiện tốt việc huấn
luyện quân sự, giáo dục chính trị; xây dựng lực lượng tự vệ thực sự là lực
lượng nòng cốt trong lao động và bảo vệ sản xuất, là lực lượng đáng tin cậy
của cấp uỷ đảng, công nhân viên chức, người lao động và nhân dân.
Nghiên cứu về đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện quân sự cho
lực lượng DQTV có bài của Nguyễn Đức Hạnh [58]; Điểm mới trong công
tác huấn luyện dân quân ở xã Bình Long huyện Võ Nhai. Nguyễn Văn Lan
[70]; Huấn luyện dân quân tự vệ năm 2010 của tỉnh Bắc Ninh - Kết quả và
kinh nghiệm. Trần Đình Đích [55]; Tỉnh Thái Nguyên một trong những điểm
sáng về thực hiện công tác giáo dục quốc phòng – an ninh. Hồ Sỹ Thế [115];
Cơng tác bồi dưỡng quốc phịng an ninh ở Trường Quân sự tỉnh Lạng
Sơn - Kết quả và kinh nghiệm. Hồng Cơng Hàm [68]; Kết quả và một số
kinh nghiệm tổ chức xây dựng lực lượng dân quân tự vệ ở tỉnh Lạng Sơn.
Nguyễn Ngọc Sáng [98]; Giáo dục chính trị - pháp luật, huấn luyện quân sự
cho lực lượng dân quân tự vệ của tỉnh Bắc Ninh năm 2009 - Một số vấn đề
đặt ra. Lê Đắc Phượng [92]; Một số kinh nghiệm trong tổ chức thực hiện cơng
tác giáo dục quốc phịng, an ninh của tỉnh Bắc Kạn. Nguyễn Xuân Bình [31];
Nhìn lại kết quả một năm đào tạo cán bộ quân sự cấp xã trình độ cao đẳng
ngành quân sự cơ sở ở Trường Quân sự Quân khu 1. Nguyễn Kim Thái


23
[106]; Huyện Hữu Lũng Lạng Sơn với công tác bồi dưỡng kiến thức quốc
phịng - an ninh. Đồn Văn Qn [97]; Đổi mới phương pháp giảng dạy,
nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo của Trường Quân sự tỉnh Bắc Ninh.

Trong các bài viết trên, các tác giả đều thống nhất cho rằng, huấn luyện
quân sự là một nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của công tác xây dựng lực
lượng DQTV trong thời bình, bảo đảm yêu cầu sẵn sàng chiến đấu, hoạt động
tác chiến, trị an và tác chiến khu vực phòng thủ của DQTV trong thời chiến.
Kết hợp chặt chẽ huấn luyện quân sự với giáo dục chính trị; huấn luyện quân
sự với rèn luyện ý thức tổ chức kỷ luật; phát huy dân chủ trong học tập;
thường xuyên phát hiện những nhận thức tư tưởng sai trái để uốn nắn kịp thời.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị, cấp
uỷ cơ sở phải thường xuyên lãnh đạo và đổi mới nội dung, chương trình do
trên quy định, sát với tình hình cụ thể của địa phương, đơn vị DQTV. Lãnh
đạo, chỉ đạo tốt việc xây dựng kế hoạch huấn luyện, tổ chức thực hiện kế
hoạch, coi trọng công tác bồi dưỡng cán bộ, củng cố sắp xếp tổ chức, ổn định
tư tưởng. Theo các tác giả, đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện quân sự,
kết hợp với giáo dục chính trị tư tưởng chính là một nội dung, biện pháp quan
trọng bảo đảm cho DQTV không chỉ tinh thơng về trình độ kỹ chiến thuật mà
cịn nâng cao bản lĩnh chính trị, bản lĩnh chiến đấu.
Nghiên cứu về nâng cao chất lượng, hiệu quả CTĐ,CTCT trong xây
dựng và hoạt động của DQTV có các bài viết của Mạc Vương Long [71];
Nâng cao hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị trong xây dựng, huấn
luyện, hoạt động của dân quân tự vệ, dự bị động viên ở huyện Sơn Động.
Trần Công Đương [56]; Thành phố Lạng Sơn tổ chức tốt hội thi nhận thức
Pháp luật về dân quân tự vệ. Trong bài viết của mình, tác giả Mạc Vương
Long đã phân tích luận giải nhiệm vụ, yêu cầu CTĐ,CTCT trong xây dựng và
hoạt động của DQTV. Căn cứ vào nhiệm vụ, yêu cầu đó, tác giả đã đề xuất
một số nội dung, biện pháp chủ yếu của CTĐ,CTCT trong xây dựng và hoạt


×