Thực tiễn hoạt động của các công ty chứng
khoán ở Việt nam hiện nay.
Qua nghiên cứu mô hình công ty chứng khoán ở một số nớc trên Thế giới có
thể thấy sự thành lập, phát triển của các công ty chứng khoán gắn liền với sự hình
thành, phát triển của thị trờng chứng khoán. Nó là một quá trình lâu dài. ở Việt
Nam, thị trờng chứng khoán có nét đặc thù riêng, nó đợc hình thành và phát triển
theo định hớng của Nhà nớc. Do vậy, quá trình thành lập, hoạt động của các công
ty chứng khoán cũng mang những đặc điểm riêng.
2.1. Quá trình thành lập các công ty chứng khoán.
2.1.1. Mục tiêu hoạt động của các công ty chứng khoán.
Trong 2-3 năm đầu, các công ty chứng khoán thuộc các ngân hàng cha đặt vấn
đề nguồn thu lớn từ TTCK. Thị trờng mới thành lập, quy mô nhỏ. Vì vậy, mục tiêu
trớc mắt là tìm hiểu, thăm dò thị trờng, tạo lập quan hệ khách hàng, bồi dỡng, đào
tạo nghiệp vụ và tích luỹ kinh nghiệm cho đội ngũ cán bộ nhân viên. Trên cơ sở
đó, xúc tiến, triển khai các phơng án kinh doanh một cách hoàn chỉnh. Để thực
hiện điều này các công ty đã tiến hành một số biện pháp nh:
* Nắm bắt mọi động thái xu hớng phát triển, vận động của thị trờng để đánh
giá và đúc rút những kinh nghiệm cần thiết ban đầu.
* Triển khai một số nghiệp vụ thí điểm có chọn lọc để tập dợt và đúc rút những
kinh nghiệm kinh doanh.
* Bảo toàn vốn tích cực.
* Xúc tiến các hoạt động quảng cáo, tiếp thị tạo lập quan hệ với khách hàng
tiền năng.
Trong thời gian đầu các công ty chứng khoán chuyên doanh vẫn cha đặt mục
tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Trớc mắt các công ty này tham gia thị trờng một cách
thận trọng, lần lợt triển khai các nghiệp vụ với mục đích làm quen với các hoạt
động kinh doanh chứng khoán. Từ đó rút ra những kinh nghiệm kinh doanh cần
thiết ban đầu. Họ đặt mục tiêu bảo toàn vốn, cắt giảm các chi phí không cần thiết,
duy trì hoạt động động kinh doanh thật vững sau đó mới mở rộng và phát triển thị
trờng.
2.1.2. Quá trình thành lập các công ty chứng khoán.
ở Việt Nam, trong giai đoạn đầu phát triển TTCK, vì quy mô thị trờng còn nhỏ
nên số lợng các công ty chứng khoán hiện nay còn ít. Điều này là phù hợp nhằm
giảm sự cạnh tranh gay gắt trong bối cảnh chi phí ban đầu của các công ty khi
mới thành lập là rất lớn mà thu nhập còn nhỏ, cha đủ khả năng bù đắp chi phí.
Ngoài ra, để đảm bảo nguyên tắc xây dựng thị trờng chứng khoán hiệu quả và an
toàn ngay từ giai đoạn đầu, hiện nay chúng ta đã chọn ra các công ty có quy mô
lớn và chất lợng cao tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán để giảm thiểu
rủi ro. Khi thị trờng đã phát triển hiệu quả, quy mô và dung lợng thị trờng đã lớn,
số lợng công ty chứng khoán có thể sẽ tăng lên để đáp ứng nhu cầu thị trờng. Hiện
nay có 07 công ty chứng khoán đã thành lập và đi vào hoạt động.
Bảng 1: Danh sách các công ty chứng khoán.
Số thứ
tự
Tên công ty
Vốn
ĐL (tỷ
VNĐ)
Các HĐ nghiệp
vụ
Số GP
HĐKDCK
Số NV
hành
nghề
01 CTCPCK Bảo
Việt
43
- Môi giới
- Tự doanh
- Quản lý DMĐT
- Bảo lãnh phát hành
- T vấn đầu t CK
01/GPHĐKD
26/11/1999
12
02 CTTNHHCK-
NHĐT và PT
Việt Nam
50 - Môi giới
- Tự doanh
- Quản lý DMĐT
- Bảo lãnh phát hành
- T vấn đầu t CK
02/GPHĐKD2
6/11/1999
08
03 CTCPCK- Sài
Gòn
06
- Môi giới
- T vấn đầu t C K
03/GPHĐKD0
5/04/2000
08
04 CTCPCK-Đệ
Nhất
43
- Môi giới
- Tự doanh
- Quản lý DMĐT
- Bảo lãnh phát hành
- T vấn đầu t CK
04/GPHĐKD0
8/04/2000
09
05 CTTNHHCK-
Thăng Long
09
- Môi giới
- Quản lý DMĐT
- T vấn đầu t CK
05/GPHĐKD1
1/05/2000
07
06 CTTNHHCK-
ACB
43
- Môi giới
- Tự doanh
- Quản lý DMĐT
- Bảo lãnh phát hành
- T vấn đầu t CK
06/GPHĐKD2
9/06/2000
03
07
CTTNHHCK-
NHCTVN
55
- Môi giới
- Tự doanh
- Quản lý DMĐT
- Bảo lãnh phát hành
- T vấn đầu t CK
- Lu ký chứng khoán
07/GPHĐKD0
6/10/2000
20
2.2. Mô hình công ty chứng khoán ở Việt Nam.
Qua nghiên cứu mô hình công ty chứng khoán của các nớc ta có thể nhận thấy
hầu nh các thị trờng từ các thị trờng phát triển đến các thị trờng mới nổi đều cho
phép các ngân hàng tham gia vào kinh doanh chứng khoán ở mức độ và phạm vi
khác nhau. Ngay cả những thị trờng phát triển nh Mỹ, Nhật trớc đây không cho
phép các ngân hàng tham gia vào hoạt động chứng khoán hiện đều có các quy
định nới lỏng và có xu hớng chuyển dần từ mô hình công ty chứng khoán chuyên
doanh thuần tuý sang mô hình đa năng kiểu Anh, tức là các ngân hàng đợc phép
tham gia kinh doanh chứng khoán thông qua các công ty con độc lập.
ở Việt Nam hiện nay, ngành chứng khoán cũng nh hoạt động kinh doanh
chứng khoán là hoàn toàn mới mẻ không những đối với dân chúng mà ngay cả đối
với các tổ chức kinh doanh ở nớc ta. Việc tham gia của các tổ chức tín dụng cụ thể
là các ngân hàng thơng mại vào kinh doanh chứng khoán trong giai đoạn đầu của
thị trờng nh hiện nay là hết sức cần thiết. Với đội ngũ cán bộ đã đợc đào tạo và đã
thông thạo việc kinh doanh các công cụ của thị trờng tiền tệ, có kinh nghiệm
trong việc đánh giá các dự án đầu t và với mạng lới hoạt động rộng rãi trên khắp
cả nóc, việc tham gia của các ngân hàng sẽ góp phần phát triển thị trờng chứng
khoán tại Việt Nam. Có thể nhận thấy mô hình công ty chứng khoán ở Việt Nam
hiện nay chính là sự kết hợp giữa mô hình ngân hàng đa năng một phần và mô
hình công ty chuyên doanh chứng khoán. Chúng ta đã học tập và rút kinh nghiệm
từ mô hình các nớc và hạn chế tiêu cực có thể phát sinh từ đó không ngừng nâng
cao hiệu quả hoạt động của các công ty chứng khoán.
Các công ty chứng khoán với nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp
và bộ máy tổ chức thích hợp là ngời trung gian môi giới, mua bán, bão lãnh phát
hành chứng khoán, t vấn đầu t và thực hiện một số dịch vụ khác cho cả ngời đầu t
và ngời phát hành trên thị trờng chứng khoán. Hoạt động của các công ty chứng
khoán có ảnh hởng lớn tới lợi ích của đông đảo công chúng. Do đó, yêu cầu pháp
lý đối với các công ty chứng khoán là rất chặt chẽ.
2.3. Những quy định pháp lý đối với các công ty chứng khoán.
2.3.1. Hình thức pháp lý của các công ty chứng khoán.
Nghị định 48-1998-NĐ-CP ban hành ngày 11/07/1998 về chứng khoán và
TTCK quy định:
Công ty chứng khoán phải là các công ty cổ phần hoặc là công ty TNHH có đủ
các điều kiện:
* Có phơng án hoạt động kinh doanh phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế-
xã hội.
* Có đủ cơ sở vật chất phục vụ cho việc kinh doanh chứng khoán.
* Có mức vốn pháp định theo từng loại hình kinh doanh:
+ Môi giới: 3 tỷ VNĐ.
+ Tự doanh: 12 tỷ VNĐ.
+ Quản lý danh mục đầu t: 3 tỷ VNĐ.
+ Bảo lãnh phát hành: 22 tỷ VNĐ.
+ T vấn đầu t chứng khoán: 3 tỷ VNĐ.
Công ty chứng khoán kinh doanh trên nhiều loại hình thì vốn pháp định là tổng
số vốn pháp định của từng loại hình kinh doanh đó.
* Giám đốc (Tổng giám đốc), các nhân viên kinh doanh (không kể nhân viên
kế toán, hành chính, thủ quỹ) của công ty chứng khoán phải có giấy phép hành
nghề kinh doanh chứng khoán do UBCKNN cấp.
Việc bắt buộc công ty chứng khoán phải là công ty cổ phần hoặc công ty
TNHH nhằm bảo vệ lợi ích khách hàng, tránh tình trạng thâu tóm, thao túng
doanh nghiệp phục vụ lợi ích của một số ngời. Ngoài ra, công ty cổ phần hay công
ty TNHH sẽ phải tuân thủ chế độ thông tin, báo cáo chặt chẽ hơn, cũng nh yêu
cầu về quản lý phải cao hơn.
2.3.2. Sự tham gia kinh doanh chứng khoán của các tổ chức tín dụng, công ty
bảo hiểm và tổng công ty.
Các tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm, Tổng công ty muốn tham gia kinh
doanh chứng khoán phải thành lập công ty chứng khoán độc lập. Đây chính là sự
kết hợp giữa mô hình ngân hàng đa năng một phần và mô hình tự doanh mà hiện
nay đang đợc áp dụng rộng rãi trên thế giới. Ngân hàng đa năng với phạm vị kinh
doanh rộng rãi do đa dạng hoá hoạt động kinh doanh có lợi thế hơn hẳn so với các
công ty chứng khoán đơn thuần trong việc san bằng chi phí và phân tán rủi ro.
Thu nhập của nó ổn định hơn và do đó các nguồn vốn của nó cũng ổn định hơn.
Vì vậy, các ngân hàng đa năng có khả năng chống đỡ cao đối với những tiến triển
không thuận lợi trên thị trờng chứng khoán. Tuy nhiên, mô hình đa năng cũng có
những nhợc điểm nhất định. Khi tham gia vào hoạt động bão lãnh phát hành
chứng khoán, các ngân hàng thơng mại phải đơng đầu với mâu thuẫn lợi ích tiềm
năng do sự lạm dụng trong kinh doanh chứng khoán của họ. Có ngân hàng đứng
ra bão lãnh các chứng khoán mới phát hành đã bán các chứng khoán cho các quỹ
tín thác do họ quản lý khi họ không thể bán chúng cho ngời khác và các quỹ tín
thác này thờng xuyên phải chịu lỗ khi các chứng khoán bán chậm hoặc chứng
khoán không bán đợc. Các trờng hợp tơng tự xẩy ra khi bản thân các ngân hàng
phải mua chứng khoán mà họ tham gia bảo lãnh khi các chứng khoán không thể
bán đợc. Hậu quả của việc mua các tài sản chất lợng kém có thể dẫn đến các tổn
thất sau này cho các ngân hàng.Việc các ngân hàng thơng mại đợc kinh doanh
chứng khoán trong nhiều trờng hợp có thể gây nguy hại cho khách hàng do kinh
doanh mang tính đầu cơ của các ngân hàng. Có nhiều trờng hợp trong đó các ngân
hàng đã dùng tiền gửi của công chúng để đầu cơ chứng khoán với khối lợng lớn
làm ảnh hởng giá cả trên thị trờng.
2.3.3. Chế độ quản lý.
Hiện nay, ở Việt nam quy định chế độ cấp giấy phép hoạt động đối với các
công ty chứng khoán. UBCKNN là cơ quan quản lý nhà nớc cấp giấy phép hoạt
động đối với các công ty này. Việc duy trì chế độ cấp giấy phép đối với các công
ty xin hoạt động kinh doanh chứng khoán là điều đặc biệt cần thiết. Thực tế cho
thấy, chỉ ở một số thị trờng phát triển mới áp dụng chế độ đăng ký hoạt động và
không đa ra bất kỳ quy định nào về mức vốn pháp định tối thiểu yêu cầu đối với
một công ty xin kinh doanh chứng khoán. Tuy nhiên, các công ty này phải đảm