Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Sự xuất hiện và hoạt động của ong ký sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.99 KB, 9 trang )

Sự xuất hiện và hoạt động của ong ký sinh
Bassus javanus (Bhat & Gupta) (Braconidae) Trên sâu đục quả đậu đỗ
Maruca vitrata (Fabricius) ở khu vực phụ cận Hà Nội
THE APPEARANCE AND ACTIVITY OF BRACONID WASP
Bassus javanus (Bhat & Gupta) (Braconidae), A PARASITOID OF BEAN BORER
Maruca vitrata (Fabricius) IN HA NOI VICINITY

Khuất Đăng Long, Đặng Thị Hoa
Viện Sinh thỏi và Tài nguyờn sinh vật
Abstract
The paper presents a survey of larval parasitoids reared from bean borers Maruca vitrata and
Etiella zinckenella, that infected on different bean crops in Hanoi vicinity. There were six prasitoids
found: two species of the family Ichneumonidae: Trathala flavo-orbitalis (Cameron) and Sinophorus
sp., four other species of the family Braconidae: Agathis fabiae (Nixon), Bassus javanus (Bhat &
Gupta), Bassus sp.A and Bracon sp., in which B. javanus is the dominant wasp that occures on
different bean crops in Ha Noi vicinity from March to August. Maximal percentage of bean borer
larvae were parasitized up from 30 to 40%, and the lowest percentage of parasitism is 3%. One
pesticide treatment made before beans flowered may lightly decrease the activity of parasotoids.
I. Đặt vấn đề
Ở khu vực phụ cận Hà Nội, hầu hết các giống
đậu đỗ đều bị hai loài đục quả Maruca vitrata và
Etiella zinckenella gây hại, trong đó loài đục quả
M. vitrata thường chiếm ưu thế. Loài sâu hại này
xuất hiện trên tất cả các giống đậu trạch, đậu đũa,
đậu xanh, đậu đen và đậu tương, thời gian hoạt
động mạnh nhất từ tháng 3 đến tháng 8.
Cụng trỡnh gần đây nhất (Khuất Đăng Long,
2004) đó thống kờ 4 loài ong ký sinh sõu non đục
quả đậu đỗ, trong số đó có 2 loài chưa được xác
định tên. Trong bài này, chúng tôi đưa ra kết quả
nghiờn cứu về nhúm ong ký sinh ở sõu non sõu


đục quả đậu đỗ ở khu vực phụ cận Hà Nội, sự
xuất hiện và hoạt động của 1 loài ong ký sinh
chuyờn hoỏ ở sõu non đục quả M. vitrata.
Cụng trỡnh này là kết quả của đề tài NCCB 6
017 06 do Bộ Khoa học và Công nghệ tài trợ.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Địa điểm điều tra, khu vực trồng màu thuộc
các huyện Từ Liêm (Phú Diễn), Long Biên (Tư
Đỡnh), Súc Sơn (Hiền Ninh) và huyện Hoài Đức
(Vân Côn) thuộc Hà Tây. Điều tra thu sâu đục
quả gặp trên hoa và quả ở tất cả các giống đậu đỗ
như đậu trạch, đậu đũa, đậu xanh, đậu đen và đậu
tương. Thời gian nghiên cứu tập trung từ tháng 3
đến tháng 8 trong hai năm 2006-2007.
Nuôi sinh học riêng rẽ sâu non đục quả thu
được từ hoa và từ quả của từng giống đậu, sâu
non thu từ ruộng không phun thuốc và ruộng có
phun thuốc. So sánh tỷ lệ sâu non đục quả bị chết
do ký sinh từ mỗi giống đậu theo phương pháp vẽ
đồ thị trong Excel thông thường.
III. KẾT QUẢ NGHIấN CỨU
VÀ THẢO LUẬN
Theo dừi nuụi sinh học 942 mẫu sõu non đục
quả thu được trên các giống đậu đỗ trong thời
gian từ tháng 3 đến tháng 8 ở các địa điểm
nghiên cứu nói trên, chúng tôi thu được 68
trường hợp sâu non bị nhiễm 5 loài ong ký sinh
khác nhau. Trong số đó có 25 trường hợp bị
nhiễm ong cự Trathala flavo-orbitalis (Cameron),
hai loài ký sinh chỉ gặp 1 trường hợp là loài ong

cự Sinophorus sp. và 1 loài ong vàng
(Braconidae: Braconinae), cũn lại 41 trường hợp
gặp ba loài khác thuộc phân họ Agathidinae (họ
Braconidae): Agathis fabiae (Nixon), Bassus
javanus (Bhat & Gupta) và Bassus sp.A.
Khuất Đăng Long, 2004, đó cú cụng trỡnh đề
cập đến 4 loài ong ký sinh ở pha sâu non đục quả
đậu đỗ ở Việt Nam, trong đó 2 loài đó được xác
định tên gồm A. fabiae và B. javanus (=
Baeognatha javana), cũn 2 loài chưa xác định
được tên khoa học đều thuộc giống Agathis
(Agathis sp.A và Agathis sp.B). So với tài liệu đó
được công bố trong nước, loài Trathala flavo-
orbitalis lần đầu tiên được ghi nhận ký sinh ở
nhóm sâu đục quả đậu đỗ, cũn loài Agathis sp.B
được chúng tôi xác định là Bassus gossypiella
(Bhat & Gupta), loài cũn lại Bassus sp.A
(=Agathis sp.A) sẽ được đề cập đến trong một
công trỡnh hệ thống phõn loại học gần đây.
Theo tài liệu [5], A. fabiae có phân bố ở Ấn
Độ, Trung Quốc, Malaixia và là loài ong ký sinh
ở sõu loang Earias vittella, sõu xanh Helicoverpa
armigera và sõu hồng Pectinophora gossypiella,
loài B. javanus có phân bố ở Malaixia và
Inđônêxia, loài này gặp ký sinh trờn hai loài sõu
đục quả Etiella zinckenella và Maruca vitrata,
cũn loài B. gossypiella ký sinh ở sõu hồng
Pectinophora gossypiella ở Ấn Độ và Xrilanca.
Hỡnh 1. Bassus javanus (Bhat & Gupta)
a. Ong cái, b. Biến thái của ô submarginal cánh trước, c. Đốt trung gian

d. Các đốt bàn 3+4+5 và móng+đệm móng chân sau, e. Đỉnh máng đẻ trứng,
c. Mặt lưng bụng
Như vậy, ở khu vực phụ cận của Hà Nội,
trên sâu đục quả đậu đỗ có 6 loài ong ký sinh,
2 loài thuộc họ Ichneumonidae và 4 loài thuộc
họ Braconidae. Trong số 6 loài ong ký sinh ở
pha sõu non, loài B. gossypiella chưa gặp lại,
cũn ong đen ngực đỏ Bassus javanus là loài
chiếm ưu thế (hỡnh 1). Loài này gần như có
mặt liên tục trên nhiều giống đậu đỗ từ tháng
3 đến tháng 8 cùng với sự có mặt của hai loài
sâu đục quả.
Trong hai loài sâu đục quả đậu đỗ ở khu vực
phụ cận Hà Nội, loài M. vitrata chiếm ưu thế
hơn so với E. zinckenella. Kết quả phân tích số
liệu điều tra trên tất cả các giống đậu đỗ như
đậu trạch, đậu đũa, đậu xanh, đậu đen và đậu
tương, trong số 942 mẫu sâu non thu thập
được, có 885 mẫu là loài M. vitrata, cũn lại chỉ
cú 57 mẫu là loài E. zinckenella.
Xột về sự lựa chọn thức ăn của loài sâu đục
quả theo giai đoạn sinh trưởng và phát triển của
đậu đỗ, sâu non thường gặp tập trung trên hoa
và quả non, tỷ lệ sâu đục quả đậu đỗ gặp trên
hoa và trên quả non gần như nhau (hỡnh 2).
Chớnh đặc điểm gây hại của sâu đục quả đậu
đỗ ngay từ noón hoa cũng làm tăng khả năng
sâu non bị nhiễm loài ong ký sinh Bassus
javanus.
Hỡnh 2. So sỏnh sự cú mặt của sõu non M. vitrata trên hoa và quả đậu đũa

và tỷ lệ nhiễm ký sinh (Phỳ Diễn, Từ Liờm 2007)


.

Hỡnh 3. Hiệu quả hoạt động của ong ký sinh B. javanus trên 2 sâu đục quả M. vitrata
hại đậu Trạch và đậu đũa (Phú Diễn, Từ Liêm, 2007)
Kết quả nuôi sinh học riêng rẽ sâu đục quả
đậu đũa thu được từ hoa và quả cho thấy, tỷ lệ
sâu non bị nhiễm ký sinh trên hoa đạt cao hơn so
với tỷ lệ ký sinh ở sâu non thu từ quả. Điều này
cũng đó được chúng tôi kết luận khi nghiên cứu
tập tính hoạt động ký sinh ở hai loài A. fabiae và
B. javanus, trong đó chúng tôi nhận thấy rằng hai
loài ong ký sinh này cú tập tớnh đẻ trứng vào sâu
non tuổi nhỏ khi chúng chuẩn bị đục vào noón
quả khi bờn ngoài vẫn cũn cỏnh hoa chưa rụng
(Khuất Đăng Long, 2004). Dựa vào đặc điểm
này, việc khuyến cáo phun thuốc trừ sâu trước
thời điểm đậu đỗ ra hoa hoặc khi đậu đó vào quả
cú thể giảm được tác động có hại của thuốc trừ
sâu đến hiệu quả của nhóm ong ký sinh này.
Trong cùng một thời điểm có nhiều giống đậu
đỗ khác nhau trên đồng, sâu đục quả thường gặp
nhiều trên đậu trạch, đậu đũa, sau đó đến đậu
xanh và đậu đen, gặp ít hơn trên đậu tương. Cũng
chính do sự lựa chọn thức ăn khá rừ rệt ở sõu đục
quả đậu đỗ, hai loài ong ký sinh A. fabiae và B.
javanus cũng xuất hiện khá sớm trên đậu trạch và
đậu đũa (tháng 3 đến tháng 4), cũn vào thời điểm

trên cánh đồng chỉ cũn lại đậu xanh + đậu đen và
đậu tương, sự xuất hiện của 2 loài ong ký sinh
này tập trung nhiều hơn trên đậu xanh + đậu đen
(tháng 5 đến tháng 7).
Trên những cánh đồng trồng đậu đỗ ở Từ
Liêm Hà Nội trong thời gian từ giữa tháng 3 đến
giữa tháng 5, sự xuất hiện và hoạt động liên tục
của sâu đục quả M. vitrata trên đậu trạch và đậu
đũa đó làm tăng cơ hội cho loài ong ký sinh B.
javanus, tỷ lệ sâu non bị chết bởi ký sinh đạt đỉnh
cao trên đậu trạch vào giữa tháng 4 và trên đậu
đũa vào đầu tháng 6 (hỡnh 3). Cũn trong khoảng
thời gian từ sau tháng 6 trở đi, sâu đục quả
chuyển sang gây hại cho đậu xanh, đậu đen và
đậu tương vụ hè thu, khi đó sự xuất hiện nhiều và
hoạt động mạnh rừ rệt của ong ký sinh cú thể
quan sỏt thấy vào cuối thỏng 6 đầu tháng 7 trên
đậu xanh và đậu đen.

Hỡnh 4. So sánh hiệu quả hoạt động của ong ký sinh B. javanus
trên sâu đục quả M. vitrata trong điều kiện phun thuốc trừ sâu
So sánh hiệu quả hoạt động của ong ký sinh
B. javanus đối với sâu đục quả đậu đũa M.
vitrata trong điều kiện có phun thuốc trừ sâu
trước khi đậu ra hoa và sau khi đậu quả cho
thấy, trong cả hai trường hợp đối với sâu non
đục quả thu trên hoa và thu từ quả đậu đũa, tỷ
lệ ký sinh ở ruộng phun thuốc đều có xu hướng
thấp hơn so với ruộng không phun (hỡnh 4).
IV. KẾT LUẬN

- Ở khu vực phụ cận Hà Nội, sâu đục quả
đậu Maruca vitrata chiếm ưu thế hơn so với
loài đục quả khác là Etiella zinckenella, cú 6
loài ong ký sinh ở pha sõu non của chỳng được
phát hiện, trong số đó, họ Ichneumonidae cú 2
loài: cự Trathala flavo-orbitalis (Cameron) và
Sinophorus sp., họ Braconidae cú 4 loài:
Agathis fabiae (Nixon), Bassus javanus (Bhat &
Gupta), Bassus sp.A. và Bracon sp., cũn loài
Bassus gossypiella (Bhat & Gupta) chưa thấy
xuất hiện trở lại.
- Trong số 6 loài ong ký sinh ở sõu đục quả,
loài B. javanus chiếm ưu thế, loài này hoạt
động ký sinh ở sâu non sâu đục quả tuổi nhỏ
ngay từ khi sâu non cũn trong quả noón. Loài
ong ký sinh này xuất hiện trờn đậu đỗ từ tháng
3 đến tháng 8, hoạt động mạnh nhất từ tháng 3
đến tháng 6. Trong thời gian này, tỷ lệ sâu non
sâu đục quả bị nhiễm ký sinh đạt cao nhất tới
40%, thấp nhất trờn 3%.
Trên cánh đồng có trồng nhiều giống đậu
khác nhau, ong ký sinh B. javanus thường hoạt
động tích cực và có tỷ lệ ký sinh cao nhất ở sõu
non trờn đậu trạch, sau đó đến đậu đũa, đậu
xanh+đậu đen, ít hơn trên đậu tương.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bhat S., Gupta V.K, 1977. Oriental
Insects Monograph. 6:1-353.
2. Khuat Dang Long, Belokobylskij S. A.,

2003. Russian Entomogical Journal,
12(4): 385-398.
3. Khuất Đăng Long, 2004. Tạp chớ Sinh
học, t. 26(3A): 8-14.
4. Khuất Đăng Long, 2004. Tạp chí
BVTV, s. 5(197): 30-35.
5. Yu D. S., Achterberg K. van &
Horstmann K., 2005: Biological and
taxonomical information:
Ichneumonoidea 2004. Taxapad
Interactive Catalogue, Vancouver.
ảnh hưởng của một số thuốc trừ nhện đỏ hại bông
đến loài nhện nhỏ bắt mồi Neoseiulus longispinosus Evans (Mesostigmata: Phytoseiidae)
Side effect of some pesticides for controlling the red
spider mite on the predator mite, Neoseiulus longispinosus Evans (Mesostigmata: Phytoseiidae)
Mai Văn Hào
(1)
, Hoàng Thị Mỹ Lệ
(1)
Nguyễn Viết Tựng
(2)
Abstract
The study was carried out at the Research Institute for Cotton and Agricultural Development of
Vietnam. Eight pesticides (Petis 24,5EC, VINEEM 1500EC, PolytrinP 440EC, Pegasus 500SC,
Comite 73EC, Bifentox 30ND, Secure 10EC, Sokupi 0.36AS) were evaluated their side effect on the
predator mite, Neoseiulus longispinosus Evans.
The result show that Sokupi 0.36AS (Matrine), Vineem 1500EC (Azadirachtin), Comite 73EC
(Propargite), Petis 24EC (Abamectin + Petroleum oil), Bifentox 30ND (Dimethoate + fenvalerate)
harmless to the predator mite, N. longispinosus. These chemicals are expected to be promising
pesticides on IPM for cotton in Vietnam, where N. longispinosus is major natural enemy of red spider

mite. Besides, Pegasus 500SC (Diafenthiuron), Secure 10EC (Chlorfenapyr) and PolytrinP 440EC
(Profenofos+Cypermethrin) are harmful to N. longispinosus.
Key words: Neoseiulus longispinosus Evans, predator mite, Phytoseiidae, pesticide, cotton.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Các loài nhện nhỏ bắt mồi thuộc họ
Phytoseiidae là những kẻ thù tự nhiên chủ yếu
của nhện nhỏ hại thực vật. Rất nhiều loài thuộc
họ này được nhân nuôi hàng loạt và ứng dụng
như tác nhân sinh học quan trọng trong phũng
chống nhện nhỏ hại thực vật (Nguyễn Văn Đĩnh,
2004). Loài nhện nhỏ bắt mồi Neoseiulus
longispinosus Evans được xem là loài thiên địch
quan trọng của nhện đỏ Tetranychus urticae
Koch tại Thỏi Lan, Úc, Trung Quốc, Ai Cập,
Ấn Độ, Malaysia, Triều Tiên, Đài Loan
(Manita Kongchuensin và Akio Takafuji, 2006;
Eberhard Schicha, 1987). Loài N. longispinosus
cũng là loài bắt mồi quan trọng của nhện đỏ T.
urticae hại bông ở Việt Nam (Mai Văn Hào và
cộng sự, 2006).
Tại Việt Nam, để phũng chống nhện đỏ hại
bông hiện vẫn dựa vào thuốc hóa học là chủ yếu.
Việc phun thuốc trừ nhện đỏ không những diệt
trừ được nhện đỏ mà cũn cú thể ảnh hưởng đến
các loài thiên địch, trong đó có loài nhện nhỏ bắt
mồi N. longispinosus. Để có cơ sở khuyến cáo sử
dụng thuốc trừ nhện đỏ hại bông hợp lý nhằm
giảm đến mức thấp nhất việc ảnh hưởng của
thuốc đến loài nhện nhỏ bắt mồi N.
Longispinosus, chúng tôi đánh giá ảnh hưởng của

một số loại thuốc trừ nhện đến loài nhện nhỏ bắt
mồi Neoseiulus longispinosus.
II. VẬT LIỆU
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Vật liệu nghiờn cứu
- Nhện nhỏ bắt mồi N. longispinosus được
thu thập trên cây bông và nhân nuôi tại
Viện Nghiên cứu bông và Phát triển Nông
nghiệp Nha Hố,. giống bụng lai VN15.
- 08 loại thuốc gồm Petis 24,5EC
(Abamectin + Petroleum oil), VINEEM
1500EC (Azadirachtin), PolytrinP 440EC
(Profenofos+Cypermethrin), Pegasus
500SC (Diafenthiuron), Comite 73EC
(Propargite), Bifentox 30ND (Dimethoate
(
1)
Viện Nghiờn cứu Bụng và Phỏt triển Nụng
nghiệp Nha Hố
(2)
Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội

×