Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Luận văn tốt nghiệp “Thuế quan(Thuế NK) Việt nam trong quá trình hội nhập AFTA”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (704.31 KB, 74 trang )


…………..o0o…………..
















LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


Thuế quan(Thuế NK) Việt nam
trong quá trình hội nhập AFTA

1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong điều kiện ngày nay, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đã trở thành một
xu thế khách quan trong tiến trình phát triển kinh tế thế giới và đang cuốn hút toàn
thể nhân loại hoà vào dòng chảy của nó. Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế
quốc tế đã tạo ra những thời cơ thuận lợi cho các quốc gia đang phát triển, nhưng
cũng đặt mỗi nước phải đối mặt với không ít khó kh


ăn, trong đó vấn đề xoá bỏ hàng
rào thuế quan nhằm thực hiện tự do hoá thương mại toàn cầu đang là một thách thức
to lớn. Việc cắt giảm thuế quan không chỉ ảnh hưởng đến tính hệ thống của chính
sách thuế nói chung mà điều quan trọng hơn, tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và sự thay đổi của chính sách kinh tế xã hội của đất nước.
Ngày 28/7/1995 Vi
ệt Nam trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các
Đông Nam Á (ASEAN) và cam kết bắt đầu thực hiện Hiệp định ưu đãi thuế quan có
hiệu lực (CEPT) do khối Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA) từ 1/1/1996,
hoàn thành vào năm 2006.
Tham gia AFTA và hoạt động trong ASEAN, Việt Nam đồng thời là thành
viên sáng lập Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM), đã gia nhập diễn dàn kinh tế Châu
Á - Thái Bình Dương (APEC), ký kết Hiệp định Thương mại Hoa kỳ tại Washington
có hiệ
u lực kể từ ngày 13/7/2000 và đang đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại
thế giới (WTO)
Việt Nam hội nhập các tổ chức kinh tế quốc tế trong một bối cảnh mới, trước
những thách thức mới.Việt Nam là một nước đang phát triển, nền kinh tế phát triển
còn ở mức thấp, đang trong quá trình chuyển đổi.
Hội nhập mang lại sự tăng trưở
ng, phát triển, nhưng phải đối đầu với những
vấn đề phát sinh do hội nhập, cạnh tranh, thậm chí do khủng hoảng kinh tế - tài
chính gây ra đối với nền kinh tế của đất nước. Ảnh hưởng của sự hội nhập kinh tế
khu vực và quốc tế là quan trọng, nhưng nói chung thì nó không thâu tóm được
những ảnh hưởng đối với từng ngành, đặc biệt đối với ngoại thương.
Toàn cầu hoá với quy mô lớn hơn, tốc độ nhanh hơn, không ngừng.
Nó không đơn thuần là xu hướng, mà là xu hướng hối thúc các nước hội nhập
mạnh hơn cả về kinh tế, sản xuất, buôn bán, công nghệ, bảo vệ môi trường…

2

Các lực lượng kinh tế, chính trị và công nghệ mạnh nắm chắc hầu hết các nền
kinh tế quan trọng của thế giới đang gia tăng thúc giục sự hội nhập toàn cầu của các
nền kinh tế.
Một nền kinh tế toàn cầu, cũng đòi hỏi trật tự chính trị thế giới ứng với nó.
Kinh tế toàn cầu về mặt lô gíc biện chứng sẽ làm cho nhi
ều quyết định quốc gia về
chính sách sản xuất, tài chính, thương mại, đầu tư, viện trợ Nhà nước vv... được đặt
trong sự thoả thuận quốc tế, trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế. Quốc tế còn bàn
và quyết định cả những vấn đề về trốn thuế, chiếm đoạt bản quyền, tội phạm xuyên
biên giới, rửa tiền, tham nhũng.
WTO kh
ởi xướng một vòng đàm phán toàn cầu mới, vòng đàm phán thiên
niên kỷ bắt đầu với Hội nhập Bộ trưởng của các nước thành viên WTO họp vào
tháng 11/1999. Mục đích đàm phán là mở rộng thị trường một cách đáng kể trong
lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, hàng nông nghiệp, minh bạch trong mua sắm của
chính phủ, đẩy nhanh tự do hoá thuế quan.
Ngay cả trong APEC, nhiều vấn đề về kinh tế - thương m
ại quốc tế như các
vấn đề về nông nghiệp, dịch vụ, thuế quan hàng công nghiệp, thương mại điện tử,
thuận lợi hoá thương mại, đã được Hội nghị Cấp cao ở Newzealand đẩy nhanh hơn
về tự do hoá và chuyển sang để đàm phán trong khuôn khổ WTO.
Khi vòng đàn phán thiên niên kỷ mới bắt đầu, khả năng gia nhập WTO của
một nước sẽ khó khăn h
ơn; các quy định của WTO về kinh tế - thương mại quốc tế
sẽ càng chặt chẽ hơn, luật chơi mới cho thương mại thế giới trong thế kỷ 21 sẽ càng
nghiêm khắc hơn.
Toàn cầu hoá dẫn đến siêu cạnh tranh trong thương mại. Việc hạ thấp các
hàng rào bảo hộ đẩy các nền kinh tế vào cạnh tranh toàn cầu.
Trong bối cảnh này, việc cải cách thuế quan ở Việt Nam theo nh
ững quy định

chặt chẽ và cụ thể của Hiệp định CEPT đòi hỏi phải cân nhắc tính toán kỹ lưỡng để
thực hiện AFTA một cách có lợi và phù hợp nhất. Do vậy, nghiên cứu đề tài “Thuế
quan(Thuế NK) Việt nam trong quá trình hội nhập AFTA” nhằm khái quát hoá
những thay đổi về thuế nội địa và tiến hành thực hiện giảm thuế nhập khẩu theo
chương trình ưu đãi thu
ế quan có hiệu lực chung là một yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa

3
cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn không chỉ đối với việc Việt Nam tham gia ASEAN,
mà đối với việc nước ta tham gia APEC, gia nhập WTO.
Các phương pháp nghiên cứu được vận dụng trong khoá luận này gồm duy vật
biện chứng, so sánh, tổng hợp và phân tích, kết luận những kết quả thống kê với sự
vận dụng lý luận. Khoá luận tốt nghiệp cũng vận dụng các quan đi
ểm, đường lối
phát triển chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước để khái quát, hệ thống và khẳng
định các kết quả nghiên cứu.
Bố cục khoá luận tốt nghiệp
Nội dung chính của khoá luận tốt nghiệp được chia làm 3 chương:
- Chương I: AFTA và những quy định chung về cải cách thuế quan trong khuôn
khổ AFTA
- Chương II. Thực trạng gia nhập AFTA của Việt nam
- Chương III. Xu hướng cải cách thu
ế quan của Việt nam
Ngoài ra, còn có Lời nói đầu và kết luận.
Qua đây, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến thầy giáo TS. Nguyễn
Hữu Khải, người đã trực tiếp hướng dẫn khoa học, tận tình giúp đỡ em. Em cũng xin
cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa kinh tế ngoại thương và những người đã ủng hộ,
nhiệt tình góp ý kiến để em hoàn thành luận văn này.

4

CHƯƠNG I
AFTA VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ CẢI CÁCH THUẾ
QUAN TRONG KHUÔN KHỔ AFTA
I. VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN
1. Từ hiệp định ưu đãi thương mại ASEAN (PTA) đến CEPT - sự hình
thành AFTA.
Ngay từ thời kỳ đầu, các nước ASEAN đã thấy được tầm quan trọng to lớn, vì
thế đã chú trọng xây dựng, tăng cường liên kết kinh tế nói chung, thương mại nói
riêng giữa các nước trong khối.
Hiệp định ưu đãi thương mại là văn kiện quan trọng
đầu tiên của ASEAN
nhằm tiến tới tự do hoá buôn bán khu vực. Hiệp định này không đặt ra những mục
tiêu đặc biệt như các hiệp định ưu đãi buôn bán khác của các nước đang phát triển,
mà cố gắng thiết lập một cơ chế giúp hoạt động thương mại trong phạm vi ASEAN
được tự do hoá từng bước, phù hợp với khả năng của thành viên.
Ban đầu, các nước thực hiện ư
u đãi với từng sản phẩm được lựa chọn theo
phương pháp lập bảng ma trận và phương pháp tự nguyện. Theo Hiệp định, tổng số
71 mặt hàng được ưu đãi, trong đó 21 mặt hàng được hưởng quy chế của PTA theo
phương pháp ma trận và 50 mặt hàng theo phương pháp tự nguyện.
Sau năm 1980 các nước ASEAN hướng vào tự do hoá thương mại hơn nữa,
chuyển từ phương pháp tự nguyệ
n và lựa chọn từng sản phẩm sang ưu đãi toàn bộ
với mọi thành viên, hiệu quả hơn. Mức giảm 20% thuế cho tất cả các thành viên
được thông qua đối với 6000 sản phẩm với giá trị dưới 500.000 USD. Mức giới hạn
này tăng dần từ 500.000USD lên 1 triệu, sau đó là dưới 10 triệu. Năm 1984 người ta
chấp nhận giảm 20 - 25% thuế đối với tất cả các sản phẩm có giá trị
buôn bán vượt
10 triệu USD. Tới tháng 6 -1986, có tất cả 12647 sản phẩm của nước ASEAN được
hưởng ưu đãi theo PTA. Một nửa số nước này giảm thuế 20 - 25% các hàng khác

nhau. Giới hạn ưu đãi thuế trung bình đối với từng quốc gia khác nhau.
Ví dụ: Singapore có chế độ tự do hoá thương mại rộng rãi nên ngay từ trước
khi thực hiện PTA, nhiều mặt hàng nhập khẩu đã không bị đánh thuế. Hầ
u như 95%

5
mặt hàng nằm trong Danh mục ưu đãi của Singapore đã có thuế suất ở mức 0%,
khiến cho tỷ lệ miễn giảm trung bình là 2,3%
Mặc dù vậy, cho tới trước Hội nghị Cấp cao Manila, quá trình thực hiện PTA
tiến triển hết sức chậm chạp. Vẫn còn rất nhiều mặt hàng nằm ngoài danh sách PTA.
Nguyên nhân đầu tiên là thái độ thiếu tin cậy lẫn nhau giữa các nước trong quá trình
thực hiện PTA. Sau khi cam kết cắ
t giảm thuế, các nước ASEAN tìm cách khai thác
những biện pháp khác tạo ra hàng rào phi thuế quan nằm bảo vệ những quyền biện
pháp kháo tạo ra hàng rào phi thuế quan nằm bảo vệ những quyền lợi của mình, cản
trở quan hệ buôn bán giữa các nước thành viên. Do vậy, tỷ trọng các mặt hàng được
hưởng quy chế PTA rất thấp. Năm 1987, trong số 1278 mặt hàng đưa vào danh sách
PTA chỉ có 322 mặt hàng hàng (2,6%) thực sự được bảo đảm bằ
ng ưu đãi về thuế.
Tương ứng với số lượng mặt hàng này là 19% tổng giá trị buôn bán nội bộ ASEAN.
Hơn nữa, những mặt hàng có giá trị buôn bán nội bộ ASEAN. Hơn nữa, những mặt
hàng có giá trị buôn bán lớn chiếm một tỷ lệ cao trong danh sách những mặt hàng bị
hạn chế (ở Malaysia tỷ lệ này là 60 - 80%)
Mặc dù quan hệ buôn bán nội bộ ASEAN tăng nhanh xét về tỷ trọng củ
a nó
trong tổng số thương mại thời kỳ đầu những năm 80, nhưng điều đó không phải là
kết quả thực hiện PTA. Buôn bán trong nội bộ ASEAN tăng chủ yếu là do tăng buôn
bán dầu lửa. Dầu lửa chiếm tới 50% giá trị buôn bán giữa các nước này, nên dầu là
yếu tố chính trong tăng buôn bán khu vực. Còn trên thực tế, tác động của PTA ở đây
rất hạn chế. Tỷ

lệ buôn bán dựa trên PTA chiếm 5% tổng giá trị ngoại thương. Đó là
nguyên nhân thứ nhất.
Nguyên nhân thứ hai là việc cắt giảm thuế chưa đạt tới mức độ cần thiết để
tạo ra những kích thích mạnh mẽ việc buôn bán. Các nước dường như chỉ ưu đãi các
mặt hàng với vai trò ít quan trọng trong buôn bán quốc tế và khu vực. Ví dụ, Thái
Lan dành sự ưu đãi lớn cho việc nhập khẩ
u gỗ, mặt hàng mà nước này không hề
nhập. Cũng như vậy, các ngành công nghiệp có lợi thế so sánh lớn cũng không được
ưu đãi. Trong khi đó, việc giảm thuế chỉ hướng vào các ngành khá nhỏ.
Nhận thấy quan hệ hợp tác kinh tế bắt đầu rơi vào trạng kém khả quan, bó hẹp
trong những mục tiêu ngắn hạn, Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ ba năm 1989 tại

6
Manila đã nhấn mạnh tới một số vấn đề gây cấn cản trở việc thực hiện PTA. Tại hội
nghị này, các vấn đề về việc hoàn thiện PTA đã được thảo luận. Các nước thành viên
cam kết thực hiện cắt giảm số lượng mặt hàng nằm trong danh mục hạn chế chỉ còn
lại 10% và giá trị của chúng không vượt quá 50% tổng giá trị buôn bán trong khu
vực. Th
ủ tục đưa các mặt hàng mới vào danh sách được ưu đãi của PTA cũng thay
đổi từ việc xem xét hàng năm sang chương trình 5 năm (từ 1988 đến 1992).
Sau một thời gian thực hiện chương trình này, đã có một số tiến bộ. Số mặt
hàng ưu đãi tăng, mức tăng thay đổi theo từng nước.
Tuy nhiên, không phải cả các nước đều thực hiện đầy đủ và cho đến thời đi
ểm
đó, sự đóng góp của PTA đối với buôn bán trong khu vực, xét về giá trị tuyệt đối
cũng như tỷ trọng vẫn còn ít. Mắc tăng nhapạ khẩu và xuất khẩu giữa các nước còn
thấp. Ví dụ tỷ trọng xuất khẩu của Indonesia tới các thành viên theo PTA chỉ tăng từ
1,4% năm 1986 lên 3,5% năm 1989. Trong khi đó tỷ trọng nhập khẩu còn thấp hơn,
từ 1,2% lên 1,6%. Tuy nhiên nhịp độ tă
ng trưởng này cũng vào loại khá so với mức

tăng trưởng chung của toàn thế giới.
Nhìn chung, tuy có một số tiến bộ nhưng tốc độ tự do hoá thương mại thực
hện trong khuôn khổ PTA vẫn còn rất chậm và hạn chế. Những biện pháp mở rộng
buôn bán thực chất chỉ là những biện pháp nhằm những mục tiêu ngắn hạn.
Do vậy, các nước thành viên ASEAN thấy cần thiết phả
i có một cơ chế hợp
tác mang tính thể chế, thống nhất tiêu chí phối hợp hành động, tăng mức ưu đãi, đơn
giản hoá các thủ tục, nhắm tới những mục tiêu xa hơn.
Nhất là sau chiến tranh lạnh, sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường của
hàng loạt các nước như Trung Quốc, Ấn Độ và các nước Đông Âu, các quốc gia
ASEAN ngày càng có nhều đối thủ cạ
nh tranh thu hút đầu tư nước ngoài và cạnh
tranh thương mại. Các nền kinh tế ASEAN đứng trước những thách thức mới do sự
xuất hiện của những tổ chức hợp tác khu vực hơn hẳn về quy mô, tiềm năng và trình
độ phát triển như EU, NAFTA.
Trước sức ép của chủ nghĩa khu vực và xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế
giới, ngày càng có nhiều dấu hiệu làm mất đi các lợi th
ế cạnh tranh của các nước
ASEAN, buộc các nước ASEAN phải có sự thống nhất phối hợp hành động, nỗ lực

7
tìm những biện pháp thúc đẩy nhanh chóng buôn bán nội bộ và tự do hoá quan hệ
thương mại.
Hàng loạt cuộc gặp gỡ giữa các quan chức chính phủ ASEAN đã diễn ra nhằm
giải quyết nhu cầu cấp bách trên. Ngày 28/1/1992, tại Hội nghị Thượng đỉnh
ASEAN lần thứ 4 diễn ra tại Singapore, các nước thành viên ASEAN đã chính thức
ký kết các văn kiện thành lập AFTA.
Một trong những văn kiện quan trọng nhất đối v
ới việc thành lập AFTA là
Hiệp định về ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung dành cho AFTA (CEPT). Trên

nguyên tắc, Hiệp định Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) đã được thông qua
tháng 10 - 1991 thay thế choi PTA.
Theo hiệp định CEPT , các nước ASEAN thoả thuận giảm thuế quan trong
thương mại nội bộ ASEAN xuốn còn từ 0% đến 5%, loại bỏ các hạn chế về định
lượng và các hàng rào phi thuế quan, đồng thời tăng cường hợ
p tác trong lĩnh vực
hải quan. Chương trình thực hiện CEPT ban đầu được dự kiến kéo dài trong vòng 15
năm, bắt đầu từ 1/3/1993, hoàn thành vào 1/1/2008. Tuy nhiên, với những kết quả
khả quan theo hướng đẩy mạnh tự do hoá thương mại của các vòng đàm phán U
rugoay, trước những bước tiến nhanh của Khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ
(NAFTA) và kế hoạch tự do hoá thương mại đầy tham vọng nhưng cũng rấ
t khả thi
của Tổ chức Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), tại Hội nghị Bộ
trưởng ASEAN lần thứ 26 họp tại Thái Lan (tháng 9/1994), các nước ASEAN đã
thống nhất về nguyên tắc sẽ hoàn thành thực hiện AFTA sớm hơn, kết thúc vào năm
2003. Quyết đinh này đã được chính thức hoá tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần IV
họp vào tháng 9/1995 tại Bangkok. Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN chính thức lần thứ

VI họp tại Hà Nội tháng 12/1998, các nước ASEAN đã thống nhất đẩy nhanh hơn
nữa tiến trình thực hiện AFTA.
Tổng thư ký hiệp hội các nước Đông Nam Á Rodoflo Severino đề nghị
ASEAN nên đẩy nhanh thời hạn chót đề ra đến hết năm 2010 phải xoá bỏ mọi hàng
rào thuế quan nhằm đương đầu với sự cạnh tranh ngày càng tăng vào đầu tư. Phát
biểu tại diễn đàn thông tin tại Manila, Ông Severino cho biết n
ếu đợi đến năm 2010
ASEAN mới dỡ bỏ mọi hàng rào thuế quan trong khi các nước đưa ra thời hạn chót

8
mới vì cho rằng thời hạn này sẽ do các nước thành viên ASEAN đề ra. Năm 1993,
ASEAN đã đề ra một kế hoạch giảm thuế quan để thành lập khu vực tự do thương

mại ASEAN (AFTA), kế hoặch AFTA đã đạt một bước lớn hồi tháng 1/2002 khi 6
nước thành viên cũ ASEAN và cũng là 6 nước ký AFTA đầu tiên là Brunây,
Inđonêxia, Malaixia, Philippin, Xingapo và Thái Lan đã giảm thuế quan ở mỗi nước
xuống từ 0-5%. Sáu nước này chiếm hơn 96% kim ngạ
ch thương mại trong khu vực.
Mục tiêu giảm thuế xuống từ 0-5% đã được các nước ASEAN đẩy nhanh gấp
đôi, một phần là để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 đã đẩy khu
vực này rơi vào suy thoái nghiêm trọng nhất trong lịch sử. Các nhà lãnh đạo ASEAN
đã quyết định lấy năm 2010 là năm huỷ bỏ hoàn toàn thuế đối với buôn bán của các
nước thành viên cũ trong ASEAN. Trong khi thời hạn chót đố
i với các nước thàh
viên mới là vào năm 2015. Mức thuế trung bình đối với hàng hoá buôn bán trong
khu vực ASEAN ước tính vào khoảng 3,5%, giảm so với 12,76% khi AFTA được
khởi xướng năm 1993.
Theo hiệp định tự do thương mại ASEAN, những hàng hoá buôn bán giữa các
nước thành viên ASEAN được miễn thuế nếu những mặt hàng này có tỉ lệ nội địa ít
nhất 40%. Ông Severino cho biết các nước thành viên ASEAN nên đề ra thời hạn
chính xác hơn để các nước này giảm thuế xuố
ng 0% với tốc độ nhanh hơn. Ông cho
biết ngoài thời hạn chót là năm 2010-2015 để các nước thành viên cũ và mới trong
ASEAN bãi bỏ hoàn toàn thuế, một tiêu chuẩn khác để thực hiện kế hoạch AFTA là
vào năm 2003 giảm xuống 0% thuế đối với các mặt hàng hiện bị đánh thuế tới 60%.
Ông cho rằng ASEAN sẽ phải tăng cường nỗ lực hội nhập khu vực do các khu vực
khác nên nỗ lực bãi bỏ hàng rào phi thuế
quan đối với buôn bán trong khu vực ,
trong đó có các quy định kiểm dịch y tế và phân phối độc quyền . Kim ngạch thương
mại trong khu vực Châu á, đạt hơn 700 tỉ USSD. Các nhà lãnh đạo ASEAN đang có
kế hoạch thành lập một khu vực tự do thương mại Đông á lớn bao gồm ASEAN,
Trung Quốc, Nhật bản và Hàn Quốc, trở thành một thị trường gồm hơn 2 tỉ người.
Bằng cách tạo dựng nền tả

ng thuế quan chung trong khuôn khổ AFTA, các
quốc gia thành viên ASEAN sẽ có thể tạo ra được sự tương hợp, phát huy được lợi

9
thế so sánh của mình trong quá trình tổ chức sản xuất và phân công lao động khu
vực.
2. Các mục tiêu cơ bản của AFTA
AFTA được thiết lập nhằm vào các mục tiêu cơ bản sau đây:
Tự do hoá thương mại nội bộ ASEAN
Đây là mục tiêu đầu tiên, được thực hiện bằng cách loại bỏ hàng rào thuế quan
và phí thuế quan, nhờ đó sẽ mang lại cho các quốc gia ASEAN một thị trường rộng
hơn, th
ị phần thương mại lớn hơn.
Có thể thấy rằng công nghiệp hoá đã làm tăng nhanh chóng quy mô buôn bán
giữa các nền kinh tế ASEAN. Người ta tính rằng, vào đầu những năm 90, phần xuất
khẩu nội bộ ASEAN trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nhóm nước này đã đạt
khoảng 20%. Khuynh hướng liên kết thương mại khu vực ngày càng trở nên mạnh
mẽ. Hơn nữa, do đặc tính hướng ngoại của n
ền kinh tế ASEAN, các nền kinh tế này
sẽ thuận lợi hơn trong việc tiến tới tự do hoá. Điều này mặc dù không thể giúp các
quốc gia thành viên ASEAN đạt được những thoả thuận thương mại lớn cho thị
trường khu vực như EU, AFTA, song chí ít nó cũng hỗ trợ cho các quốc gia này đẩy
nhanh tăng trưởng, thay đổi cơ cấu, bổ sung lẫn nhau theo hướng trở thành một đối
tác cạnh tranh có ưu thế so v
ới các thị trường khu vực khác.
Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài
Đây là mục tiêu trọng tâm của AFTA. AFTA sẽ tạo dựng một thị trường thống
nhất trong ASEAN, cho phép thúc đẩy quá trình hợp lý hoá, chuyên môn hoá sản
xuất trong nội bộ khu vực, phát huy và khai thác các thế mạnh của nền kinh tế thành
viên. Thực hiện mục tiêu này nằm giải quyết ba vấn đề:

- Phân công lao động quốc tế trong toàn bộ nền kinh tế ASEAN nói chung,
trong từng ngành sản xuấ
t nói riêng, thúc đẩy các công ty đa quốc gia đầu tư trực
tiếp vào ASEAN. Thông qua AFTA, các nhà đầu tư nước ngoài được hưởng các quy
chế ưu đãi đầu tư ở tất cả các thành viên.
- Tăng đầu tư trực tiếp vào các nước ASEAN. Đó là nhờ kết quả mậu dịch
giữa các nước thành viên tăng lên theo AFTA và do đó kích thích các công ty Nhật ,

10
Mỹ, EU và NICs đầu tư trực tiếp nhiều hơn nữa để giữ thị trường này thay vì trước
đây họ thường cung ứng từ các cơ sở sản xuất ngoài ASEAN.
- Tăng sự lớn mạnh của chính thị trường nội địa khu vực nhờ sự tăng lên của
sức mua thị trường khu vực ASEAN.
Với định hướng phát triển ra ngoài khu vực trên cơ sở liên kế
t thị trường bên
trong AFTA, ASEAN hoàn toàn có thể kỳ vọng ở khả năng đẩy mạnh thế thương
lượng cạnh tranh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay
đổi, đặc biệt là phát triển trong xu thế tự do hoá thương mại toàn cầu.
AFTA là nấc thang quan trọng đầu tiên trên đường tiến tới thực hiện sự hợp
tác toàn diệ
n về kinh tế giữa các nước ASEAN. Trước những biến động của bối cảnh
quốc tế, đặc biệt sau cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực vừa qua, AFTA
buộc phải đẩy nhanh tiến độ thực hiện và có thể sẽ không dừng lại ở một khu vực
mậu dịch hay liên minh thuế quan, mà trong tương lai nó sẽ có thể được tiếp tục phát
triển thành một liên minh tiền tệ, m
ột liên minh kinh tế.
II. VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG CẢI CÁCH THUẾ QUAN TRONG
KHUÔN KHỔ AFTA.
1. Vai trò của cải cách thuế quan.

Để thấy được vai trò của cải cách thuế quan, trước hết xét tác động của việc
duy trì hệ thống thuế quan có thuế xuất cao đối với các hoạt động kinh tế.
Thuế quan với thuế suất cao làm tăng đáng kể giá hàng nhập khẩu, tạo điều
kiện cho các nhà sản xuất nội địa tă
ng giá hàng của mình bằng mức giá sau thuế cua
hàng nhập khẩu cùng chủng loại. Giá hàng hoá trong nước tăng, người tiêu dùng
chịu thiệt. Đồng thời, dẫn tới tình trạng sử dụng không hiệu quả các nguồn lực kinh
tế, do các ngành được bảo hộ sẽ có khả năng chi trả cao hơn lao động, đất và vốn so
với các ngành không được hay được bảo hộ ở mức thấp hơn. Điều này không chỉ
làm tăng giá các nguồn tài nguyên khan hiếm mà việc phân bổ chúng cũng không
chính xác vì những dòng tài nguyên này sẽ chảy sang các lĩnh vực kém hiệu quả hơn
của nền kinh tế.

11
Như vậy, thuế quan cao tác động tới toàn bộ nền kinh tế, tới giá các mặt hàng
chịu thuế và phổ biến hơn là giá các yếu tố sản xuất. Ngoài gia các nhà sản xuất cà
cung ứng hàng hoá, dịch vụ cho xuất khẩu sẽ phải chịu tác động mạnh bởi vì thuế
cao sẽ làm tăng chi phí tiêu thụ hàng hoá, trong khi đó giá xuất khẩu đựoc định bằng
mức cạnh tranh quốc tế, như v
ậy lợi nhuận sẽ giảm. Nói cách khác, thuế quan cao có
tác động hạn chế xuất khẩu.
Để hạn chế tác động tiêu cực của chế độ bảo hộ bằng hàng rào thuế quan cao,
các quốc gia đã tiến hành cải cách thuế quan và áp dụng hệ thống thuế quan “thấp và
đồng nhất”. Đây là một hệ thống thuế mà khoảng cách giữa mức thuế suất cao nhất
và thấp nhất có xu hướng thu h
ẹp và thuế xuất trung bình giảm dần xuống tưới mức
hợp lý. Cải cách thuế quan theo hướng này đã được áp dụng trong suốt những năm
80 tại Châu Mỹ - La Tinh, Châu Á, Châu Phi và gần đây là ở Đông Âu.
Vòng đàm phán Urugoay và cá thoả thuận thương mại khu vực như
CEPT/AFTA đã tạo thêm động lực cho quá trình cải cách này.

Cải cách thuế quan theo cơ chế “ thấp và đồng nhất” đem lại nhiều lợi ích
khách nhau:
- T
ăng cường buôn bán và hợp tác kinh tế quốc tế.
- Khuyến khích các nước tích cực tham gia vào phân công lao động quốc tế.
- Xoá bỏ chinh xác bảo hộ các ngành kinh tế kém hiệu quả.
- Ngoài ra thuế quan thấp còn hạn chế tình trạng nhập khẩu bất hợp pháp trốn
thuế. Thực vậy, nếu thuế suất cao, các thương gia có thể trốn thuế bằng cách buôn
lậu hay những phương thức bất hợp pháp khác nhau như khai gian, khai giảm ( gian
lậ
n thương mại). Nếu thuế suất giảm, lượng hàng nhập khẩu hợp pháp có thể tăng vì
mắc độ rủi do cao trong buôn lậu lớn hơn việc nhập khẩu hợp pháp. Đồng thời qua
giảm thuế, chúng ta có thể hạn chế các hoạt động thương mại bất hơp pháp mà
không cần thực hiện qua các hoạt động kiểm tra, giám sát hàng hoá, chứng từ và các
quy định hành chính khác; do đó giảm bớt được tình tr
ạng nhũng nhiễu, gây lãng phí
thời gian và tiền của các thương gia cũng như các nhà chức trách.

12
Tóm lại, việc cắt giảm thuế quan hiện nay trong nền kinh tế thế giới có vai trò
hết sức quan trọng, góp phần khắc phục những hạn chế của hàng rào thuế quan cao
và tăng cường các tác động tích cực của hệ thống thế quan ‘ thấp và đông nhất”.
2. Nội dung cải cách thuế quan trong quá trình thực hiện AFTA.
Cơ chế chủ yếu thực hiện AFTA là tham gia Hiệp định ưu đ
ãi thuế quan có
hiệu lực chung (CEPT). Phần này sẽ tập trung nghiên cứu nội dung cải cách thuế
quan theo CEPT.
2.1. Những quy định chung của CEPT về cải cách thuế quan
Mục tiêu của Hiệp định CEPT ban đầu (CEPT - 1992) chỉ là giảm toàn bộ
thuế suất nộ bộ thương mại ASEAN xuống mức từ 0 - 5 % vào tháng 1 năm 2008.

Các sản phẩm được chia thành 3 nhóm: giảm nhanh, giảm thông thường và
nhóm loại trừ tạm thời. Trong số 44095 mặt hàng đượ
c trình cho ban thư ký ASEAN
vào tháng 12 năm 1993, có 14855 mặt hàng thuộc nhóm giảm nhanh, 25918 mặt
hàng thuộc nhóm giảm thông thường và 3322 mặt hàng thuộc nhóm còn lại. Các sản
phẩm nông nghiệp chưa chế biến không được đưa vào Hiệp định CEPT -1992.
Tháng 12 năm 1995, Hiệp định CEPT đã có những sửa đổi lớn bao gồm:
- Xây dựng lại danh mục các hàng hoá loại trừ tạm thời.
- Mở rộng phạm vi hàng hoá tham gia CEPT, gồm cả các sản phẩm nông
nghiệp chư
a chế biến.
- Thành lập nhóm các mặt hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm. Các mặt
hàng này được áp dụng một cơ chế tự do hoá riêng.
- Rút ngắn thời gian hoàn thành AFTA trước 5 năm, tức là kết thúc vào năm
2003.
Đến tháng 12 năm 1995, có khoảng 89% toàn bộ các sản phẩm xuất nhập
khẩu thuộc Danh mục giảm thuế nhanh và giảm thông thường 7,1% thuộc Danh mục
loại trừ tạm thời và 2,9% là các sản phẩm nông ngh
ệp chưa chế biến ( gồm cả các
loại sản phẩm nhạy cảm). 1% còn lại thuộc Danh mục loại trừ hoàn toàn, không
tham gia CEPT. Dự tính đến năm 2003 sẽ có 99% các sản phẩm xuất nhập khẩu
được đưa vào CEPT.

13
Như vậy, những quy định về cải cách thuế quan trong Hiệp định CEPT sửa
đổi sẽ được áp dụng đối với mọi sản phẩm công nghiệp chế biến, kể cả các hàng
hoá cơ bản và các sản phẩm nông nghiệp đã qua chế biến. Tuy nhiên, trong khung
hiệp định đó, CEPT được nhấn mạnh cho các mặt hàng công nghiệp chế biến. Các
sản phẩm công nghiệp chế biến là đố
i tượng chủ yếu được thụ hưởng các ưu đãi của

chương trình giảm thuế quan.
Nội dung cắt giảm thuế quan cho các sản phẩm thuộc từng Danh mục của
CEPT được quy định như sau:
- Danh mục các sản phẩm giảm thuế ngay: Danh mục này bao gồm những sản
phẩm được cắt giảm thuế quan với lịch trình giảm nhanh và giảm bình thường.
Lịch trình giảm thuế
nhanh (còn gọi là kế hoạch giảm thuế tăng tốc) sẽ được
áp dụng cho 15 nhóm mặt hàng công nghiệp chế biến của ASEAN như: xi măng,
hoá chất, phân bón, chất dẻo hàng điện tử, hàng dệt, dầu thực vật, sản phẩm da, sản
phẩm cao su, giấy, đồ gốm và thuỷ tinh, đồ dùng bằng gỗ và song mây, dược phẩm
khoảng 3200 mặt hàng, chiếm tới 34% tổng số Danh mục giả
m thuế của toàn
ASEAN.
Lịch trình giảm thuế nhanh được phân định thành hai nấc: một là, các sản
phẩm có thuế suất trên 20% sẽ được giảm xuống còn 0 - 5% vào 1/1/2000 và các sản
phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ được giảm xuống còn 0 - 5% và
1/1/1998.
Lịch trình giảm thuế bình thường: sẽ được áp dụng đối với các sản phẩm công
nghiệp còn lại. Đối với những sả
n phẩm có mức thuế hiện hành trên 20% sẽ được
thực hiện theo hai bước.Bước một, thuế từ mức hiện hành giảm xuống mức 20% vào
năm 1998. Bước hai, giảm từ mức thuế 20% xuống mức cuối cùng 0 - 5% kết thúc
vào ngày 1/1/2003. Đối với mức thuế hiện hành 20% hoặc thấp hơn sẽ được giảm
xuống mức cuối cùng 0 - 5% trong vòng 7 năm, tức là kết thúc vào năm 2000. Các
danh mục giả
m thuế theo kênh thông thường hiện chiếm tỷ lệ là 55%, lớn nhất trong
tổng số các Danh mục hàng hoá tham gia CEPT.
Như vậy, Danh mục giảm thuế ngay chiếm một tỷ lệ lớn, khoảng 89% tổng số
Danh mục giảm thuế của Chương trình thực hiện CEPT. Do đó, các lịch trình giảm


14
thuế nhanh và giảm thuế bình thường nếu được thực hện, về căn bản, gần như đã
hoàn thành tỷ suất tự do hoá thương mại nội bộ ASEAN.
Điều đáng lưu ý ở đây là sau một số năm thực hiện CEPT, các nước thành
viên ASEAN đã đề xuất về một lịch trình giảm thuế linh hoạt, nghĩa là không nhất
thiết phải tuân thủ theo hai kênh đồ
ng tuyến với các quy trình rạch ròi cho các thuế
suất cần cắt giảm qua từng thời kỳ. Mà tuỳ theo đặc điểm cơ cấu thuế của từng nước,
có thể xây dựng lịch trình cắt giảm thích hợp, miễn sao giảm nhanh thuế suất còn 0
- 5% trước năm 2003, sớm hơn càng tốt.
Năm 1999, Hội đồng AFTA đã chấp nhận đề xuất đó như một sáng kiến nh
ằm
đáp ứng các yêu cầu về việc tạo dựng một khu vực tự do hoá thương mại ASEAN
trước thời hạn. Ngày 8/3/1999 Hội đồng AFTA quyết định các nước ASEAN cũ sẽ
hoàn thành cắt giảm thuế quan xuống mức cơ sở 0% vào 2001. Tính tới tháng
4/1999, 73% tổng số các mặt hàng chịu thuế của ASEAN đã đựoc giảm thuế suát
xuống còn từ 0 - 5%. Tính trung bình thuế suất ASEAN là 4,5% và năm 2000 giảm
xuống m
ức 3,7%.
- Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa tham gia giảm thuế (danh mục loại
trừ tạm thời). Xuất phát từ hoàn cảnh của từng quốc gia thành viên và để tạo điều
kiện thuận lợi cho các nước naỳ có thời gian ổn định trong một số lĩnh vực cụ thể
như : Tiếp tục các chương trình đầu tư đã được đưa ra trước khi tham gia k
ế hoạch
CEPT hoặc có thời gian để hỗ trợ cho sự ổn dịnh thương mại, hoặc để chuyển hướng
sản xuất đối với một số sản phẩm tương đối trọng yếu. Hiệp định CEPT đã được
phép các nước ASEAN được đưa ra một số sản phẩm tạm thời chưa thực hiện tiến
trình giảm thuế theo kế hoạ
ch CEPT. Các sản phẩm trong Danh mục này sẽ không
được hưởng ưu đãi. Sau 5 năm, hàng hoá loại trừ tạm thời phải được chuyển sang

Danh mục giảm thuế theo hai kênh đồng tuyến đã quy định.
Do đó, kể từ 1/1/1996 đến 1/1/2000, danh mục loại trừ tạm thời sẽ phải
chuyển sang Danh mục giảm thuế theo CEPT bình quân 20% mỗi năm ( Danh mục
này chỉ chiếm khoảng 7,1% tổng số các danh mục tham gia giảm thu
ế.
- Danh mục sản phẩm nông nghiệp chưa qua chế biển.

15
Các sản phẩm nông nghiệp chưa qua chế biến được phân định thành 3 nhóm:
Nhóm giảm thuế, nhóm loại trừ hoàn toàn và một nhóm đặc biệt khác là nhóm các
sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm.
Chương trình cắt giảm thuế của từng nhóm được quy định như sau:
- Sản phẩm nông sản chưa chế biến trong Danh mục cắt giảm thuế ngay được
đưa vào chương trình cắt giả
m thuế nhanh hoặc chương trình cắt giảm bình thường
vào 1/1/1996 và sẽ được giảm thuế xuống còn 0 - 5% vào 1/1/2003.
- Các sản phẩm trong Danh mục loại trừ tạm thời của hàng nông sản chưa chế
biến sẽ được chuyển sang Danh mục cắt giảm thuế trong vòng 5 năm, từ 1/1/1998
đến 1/1/2003, mỗi năm chuyển 20%.
- Các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm được phân định vào hai
Danh mục tuỳ
theo mức độ nhạy cảm là Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế
biến nhạy cảm và Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế cảm cao. đến nay,
theo đề xuất của các quốc gia thành viên, những mặt hàng thuộc Danh mục các sản
phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm sẽ bắt đầu thực hiện cắt giảm thuế xuống
còn 0 - 5% từ 1/1/2001 và kết thúc l
ịch trình giảm thuế vào ngày 1/1/2010. Trong
khi đó, các sản phẩm nông nghiệp chưa chế biến nhạy cảm cao sẽ bắt đầu từ
1/1/2003 và kết thúc vào 2010.
- Danh mục loại trừ hoàn toàn. Theo kế hoạch CEPT, tất cả các sản phẩm

công nghiệp chế tạo và các sản phẩm nông nghiệp chế biến đáp ứng yêu cầu nội
dung của sản phẩm có ít nhất 40% xuất xứ từ bất kỳ n
ước thành viên ASEAN nào
đều nằm trong Danh mục sản phẩm trong kế hoạch CEPT vào một cách tự động
được đưa vào kế hoạch giảm thuế CEPT. Tuy nhiên, một nước thành viên cũng có
thể loại trừ một số sản phẩm không tham gia Hiệp định CEPT và xếp vào Danh mục
loại trừ hoàn toàn.
Các sản phẩm là những sản phẩm được xem là cần thiết để bảo vệ an ninh
quốc gia, bảo vệ đạo đứ
c cộng đồng, sức khoẻ, sự sống của con người và động thực
vật, ảnh hưởng đến việc bảo tồn các giá trị văn hoá nghệ thuật, các di tích lịch sử
hay khảo cộ. Theo Chương trình CEPT, việc cắt giảm thuế cũng như xoá bỏ các biện

16
pháp phi thuế quan đối với những mặt hàng này sẽ không được xem xét đến. Quy
định này giống điều XX của hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT).
Để đơn giản hoá, tháng 9/1996 ASEAN trao quyền cho các nước tự thiết lập
lịch trình giảm thuế của mình cho đến naưm 2003. ASEAN ước tích rằng, khi thực
hiện AFTA từng nước sẽ có thuế suất ưu đãi trung bình có hiệu lực chung ( thuế suất
CEPT) vào năm 2003 như bảng sau:
Bảng 1: Thuế suất CEPT trung bình của từng nước
Nước Năm 1996 Năm 2003
Brunei 1.57 0.84
Indonesia 9.05 3.72
Malaysia 4.62 1.97
Philippines 9.22 3.72
Singapore 0.00 0.00
Thái Lan 14.41 4.63
Việt Nam 12.7 9.3
ASEAN 5.68 2.25

Nguồn: Ban thư ký ASEAN
Các ưu đãi khi thực hiện CEPT của các quốc gia ASEAN được trao đổi trên
nguyên tắc có đi có lại. Muốn được hưởng chế độ ưu đãi CEPT khi xuất khẩu một
hàng hoá trong khối, một sản phẩm cần có các điều kiện sau:
- Sản phẩm đó phải là một sản phẩm của khối ASEAN, tức là phải có hàm
lượng xuất xứ từ các nước thành viên ASEAN (hàm lượ
ng nội địa) ít nhất 40%)
- Sản phẩm đó phải nằm trong Danh mục cắt giảm của cả nước xuất khẩu và
nước nhập khẩu và phải có mức thuế quan nhập khẩu bằng hoặc thấp hơn 20%.
- Sản phẩm đó phải có chương trình giảm thuế được hội đồng AFTA thông
qua.
Các điều kiện này được đưa ra nhằm đản bảo sự bình đẳ
ng hợp lý về cơ hội
tiếp cận thương mại giữa các nhà sản xuất đang cạnh tranh trong các quốc gia
ASEAn. Chúng cũng góp phần khuyến khích các nước thành viên trong đưa các sản
phẩm vào Danh Mục giảm thuế và giảm thuế xuống dưới 20%. Các sản phẩm thuộc

17
danh mục giảm thuế theo CEPT và các sản phẩm đủ điều kiện hưởng ưu đãi thuế
quan của các nước thành viên khác sẽ được ghi rõ trong tài liệu hướng dẫn trao đổi
nhượng bộ theo CEPT (CCEM) xuất bản hàng năm của mỗi nước thành viên.
2.2. Danh mục các sản phẩm thuế theo CEPT của các quốc gia thuộc
ASEAN 6.
Danh mục các sản phảm giảm thuế ngay.
Cho đến năm 2003 tất cả các quốc gia ASEAn 6
đều có thuế suất CEPT trung
bình từ 0 - 5%. Thực hiện, vào năm 2000 sẽ có khoảng 87% mặt hàng chịu thuế
trong Danh mục giảm thuế ngay có thuế suất từ 0,5% và toàn bộ các quốc gia
ASEAN6, ngoại trừ Thái lan, sẽ có tỷ lệ thuế suất trung bình trong khoảng 0 , 5%.
5 nhóm mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong thương mại giữa các quốc gia

ASEAN:
- Máy móc, các thiết bị điện tử (HS 84 - 85)
- Khoáng sản (HS 25 - 27)
- Các sản phẩm sắ
t thép (HS 72 - 83)
- Dệt may (HS 50 - 63)
- Hoá chất (HS 28 - 38).
Các mặt hàng trên đều có tỷ lệ thuế suất CEPT trung bình từ 0 - 5 % vào
năm 2000. Chỉ có 5 mặt hàng không có thuế suất nằm trong khoảng 0 - 5% vào năm
2000 là:
- Lương thực (HS 16 / 24)
- Gỗ (HS 44 - 64)
- Giầy dép (HS 63 - 67)
- Vũ khí (HS 93)
- Các sản phẩm chế biến hỗn hợp (HS 94 - 96)
Xét về tỷ lệ % các sản phẩm tham gia CEPT, các nước ASEAN 6 đều có tỷ lệ
của các sản phẩm thuộc Danh mục giảm thuế ngay chi
ếm khá cao, từ 85,7%
(Philippine) tới 98,4% ( Thái Lan). Thái Lan quy định 8996 mặt hằng chịu thuế
thuộc Danh mục giảm thuế ngay, cao nhất trong các thành viên ASEAN6 và có mức
thuế CEPT trung bình ban đầu (năm 1993) cao nhất là 14,41%. Tiếp đó là

18
Philippine, thuế suất CEPT trung bình của Philipine theo lịch trình sẽ giảm từ mức
9.22% trong năm 1966 xuống còn 3.72% vào năm 2003. Singaopore và Brunei có
mức thuế suất trung bình của nhóm các mặt hàng trong Danh mục giảm thuế ngay là
thấp nhất, tiếp sau đó là Malaysia.
Danh mục loại trừ tạm thời: Ban đầu một số nước ASEAN 6 phải chịu sức ép
mạnh từ một số tập đoàn kinh doanh lớn. Họ cản trở việc tham gia AFTA c
ủa các

nước này bằng cách yêu cầu mở rộng. Danh mục các mặt hàng loại trừ tạm thời. Tuy
nhiên, cuối cùng các quốc gia này cũng đã nhận được sự ủng hộ của các tập đoàn đối
với mục tiêu tự do hoá thương mại của AFTA. Đặc biệt, Indonesia đã giảm mạnh số
lượng nhóm mặt hàng trong Danh mục loại trừ tạm thời của mình từ 1652 nhóm
xuống còn 752 nhóm mặt hàng ( t
ừ tỷ lệ 14% xuống còn 10.4% tổng số các nhóm
mặt hàng chịu thuée).Thái Lan giảm Danh mục loại trừ tạm thời của mình từ 147
xuống còn 111 nhóm mặt hàng (từ tỷ lệ 2% xuống còn 1,2% xuống còn 1,2% tổng
số nhóm mặt hàng chịu thuế).
Cho đến năm 1999, các quốc gia ASEAN 6 đều đang trong tiến trình chuyển
lần thứ 3 các mặt hàng thuộc Danh mục loại trừ tạm thời ( các mặt hàng đã chế biến)
sang Danh mục giảm thuế ngay. Trừ Thái Lan, các quốc gia ASEAN 6 đều đã đệ
trình các nhóm mặt hàng chuyển lần 2 cùng với lịch trình giảm thuế yêu cầu lên ban
thứ ký ASEAN. Tuy nhiên, tỷ lệ các mặt hàng chuyển lần hai của một số nước vẫn
nhỏ hơn 20% tổng số các mặt hàng trong danh mục loại trừ tạm thời do phải thực
hiện việc điều hoà thống nhất Danh mục biểu thuế quan c
ủa các nước ASEAN. Các
quốcgia ASEAN cũng đã đệ trình tên các mặt hàng nông sản chưa chế biến thuộc
Danh mục loại trừ tạm thời chuyển sang Danh mục giảm thuế ngay lân thứ nhất.
- Danh mục các mặt hàng nhạy cảm: Philippine và Indonesia yêu cầu một số
mặt hàng nhất định như gạo và đường phải được hưởng một chế độ đặc biệt vì vai
trò qua ntrọng mang tính chất chiến lượ
c và kinh tế xã hội của chúng. Đặc biệt, với
Indonesia, gạo là mặt hàng nhạy cảm cao nhất vì ngành sản xuất gạo của Indonesia
rất lớn nhưng lại không có hiệu quả tương đối so với các nước trong khu vực và
chưa sẵn sàng để tham gia cạnh tranh quốc té. ASEAN đã có những bước tiến lớn
trong việc giải quyết khó khăn của vấn đề này thông qua việc chia các mặt hàng

19
nhạy cảm tình hai nhóm: Nhóm mặt hàng các hàng nhạy cảm và nhóm các mặt hàng

nhạy cảm cao. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề chưa giải quyết: thuế suất khởi
điểm và thuế suất cuối cùng cho các mặt hàng thuộc nhóm nhạy cảm cao liên quan
đến vấn đề loại bỏ các hạn chế định lượng và các rào cản phi thuế quan khác, và sẽ
cần phải làm gì đối với các mặt hàng này trước năm 2001 và 2003.

20
CHƯƠNG II.
THỰC TRẠNG GIA NHẬP AFTA CỦA VIỆT NAM

QUAN HỆ TM HOÁ VIỆT NAM – ASEAN:

1. Tình hình chung ASEAN
Tổng thư ký ASEAN, Rodolfo C. Severino nhận xét: nhờ cải cách sâu sắc
trong nội bộ để hội nhập, Đông Nam Á đã được củng cố vững chắc với viễn cảnh
tăng trưởng ổn định. Giờ đây Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á đang là một thị
trường rộng mở đối với Đông Nam Á và Thái Bình Dương.
Ngày nay, điều mà chúng ta nhìn th
ấy ở ASEAN là một khu vực an toàn và ổn
định. Điểm nổi bật của nền kinh tế là sự hội nhập trong khu vực với một viễn cảnh
tăng trưởng ổn định do trong khu vực này đang diễn ra sự cải cách và hội nhập một
cách sâu sắc. Một nhà đầu tư nào đó mong muốn có một tài năng trong lĩnh vực kỹ
thuật cao, tính hiệu quả trong các loại hình dịch v
ụ, nhiều loại vật liệu thô hay giá
nhân công rẻ có thể tìm thấy ở một hay nhiều quốc gia khác trong ASEAN. Có sự
đầu tư thì toàn bộ Đông Nam Á là thị trường, bởi vì thị trường đó ngày càng hội
nhập. Đó là lý do tại sao khi nói thị trường ASEAN cũng là nói đến nền kinh tế
ASEAN. Khu vực thương mại tự do ASEAN (còn gọi là AFTA) về cơ bản đã trở
thành hiện thực với hơn 85% loại thuế
nhập khẩu trong hệ thống AFTA đã nằm
trong danh mục loại thuế nhập khẩu tối thiểu. Số lượng hàng hoá nằm trong danh

mục tối thiểu này chiếm hơn 90% số hàng hoá được giao dịch trong các nước
ASEAN. Vào đầu năm 2002, phần lớn hàng hoá buôn bán trong ASEAN sẽ chịu
thuế nhập khẩu 5% hoặc được miễn thuế hoàn toàn. Cũng vào năm 2002 thuế nhập
khẩu trung bình áp dụng cho các mặt hàng buôn bán thuộc AFTA sẽ gi
ảm từ 4,43%
hiện tại xuống còn ít hơn 4%. 6 nước đối tác đầu tiên của hiệp hội AFTA dự định bỏ
hết các loại thuế nhập khẩu trong mậu dịch với nhau vaò năm 2010. Việc bỏ hẳn
hàng rào thuế quan đang được tháo gỡ dần dần Sự hội nhập của nền kinh tế ASEAN
đang tạo ra một thị trường với nửa tỉ dân gần bằng n
ửa số dân của Trung Quốc và

21
tổng sản phẩm nội bộ tương đồng với tổng sản phẩm của Trung Quốc. Điều đó là
một yếu tố quan trọng cho sự quyết định đầu tư vào ASEAN.

2. Bối cảnh nền kinh tế Việt Nam
Đánh gía hoạt động kinh tế , hợp tác quốc tế trong 10 năm qua (1992-2001)
Việt Nam đã có được những bước tiến cơ bản:
Về hợp tác quốc tế: Thiết lập quan hệ ngoại giao với 167 nước, mở rộng quan
hệ thương mại với hơn 155 nước, thu hút đầu tư trực tiếp các tập đoàn và Công ty
thuộc 70 nước và vùng lãnh thổ, tranh thủ viện trợ phát triển của 45 nước và định
chế tài chính quốc tế. Ngày 25/7/1995 gia nhập ASEAN, tham gia AFTA; 3/1996 là
thành viên sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM); 11/1998 trở thành thành viên
APEC, 13/7/2000 ký kết Hiệp định Thương m
ại với Hoa kỳ – Hiệp định có hiệu lực
10/12/2001, 12/1994 cho đến nay đang tiếp tục đàm phán gia nhập WTO; Thực hiện
hội nhập kinh tế quốc tế, cam kết với các nước và các tổ chức kinh tế khu vực và
quốc tế xoá bỏ từng bước các hàng rào thuế quan và phi thuế quan , phù hợp với
trình độ phát triển của Việt Nam và pháp luật kinh tế quốc tế là mở rộng các cơ hội
kinh doanh, thâm nh

ập thị trường quốc tế, tạo lập môi trường pháp lý ổn định để
phát triển kinh tế, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Về tình hình phát triển kinh tế:
Từ ổn định về thị trường, Việt Nam ta sẽ có điều kiện thuận lợi để xây dựng
những kế hoạch đầu tư, sản xuất, giải quyết việc làm, phát triể
n kinh tế. Hoạt động
xuất nhập khẩu đạt được mục tiêu về quy mô và tốc độ tăng trưởng (kim ngạch xuất
nhập khẩu thời kỳ 1991 -1995 tăng gấp 2-2,5 lần so với 5 năm trước;năm 2000 kim
ngạch xuất khẩu đạt 14,45% tỷ USD, tăng 6 lần so với năm 1990 – 2,4 tỷ USD. Nhịp
độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân 18,4% /năm, nhanh hơn tốc độ tăng trưở
ng GDP
khoảng 2,6 lần). Cơ cấu xuất khẩu đã chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các mặt
hàng chế biến (tăng từ 8% năm 1991 lêm 40% vào năm 2000). Nhập khẩu đã góp
phần phục vụ sản xuất và đổi mới công nghệ (tư liệu sản xuất hiện nay chiếm
khoảng 95% kim ngạch nhập khẩu trong đó máy móc thiết bị 26-27%, nguyên nhiên
vật liệu khoảng 60% , khoả
ng 4% còn lại là hàng tiêu dùng), thúc đẩy nâng cao chất

22
lượng và sức cạnh tranh của hàng hoá. Tình trạng nhập siêu đã giảm cả về giá trị
tuyệt đối lẫn tương đối. Chủ trương đa dạng hoá thị trường và đa phương hoá quan
hệ kinh tế được thực hiện tương đối thành công.
Có được những thành tựu trên là do công cuộc đổi mới thúc đẩy, lực lượng
sản xuất phát triển , cơ cấu sản xuất
được chuyển dịch dần tạo điều kiện đẩy mạnh
xuất khẩu và cải thiện cơ cấu xuất nhập khẩu.Tuy nhiên vẫn còn những tồn tại. Cụ
thể là quy mô xuất khẩu còn nhỏ so với các nước trong khu vực . Cơ cấu hàng hoá
còn lạc hậu, tỷ trọng hàng thô, hàng sơ chế và hàng gia công còn cao. Khả năng cạnh
tranh hàng hoá còn thấp. Nhập khẩu chưa thay đổi được mộ
t cách cơ bản tình trạng

lạc hậu về công nghệ ở một số ngành . Tình trạng nhập lậu vẫn khá nghiêm trọng.
Những tồn tại trên bắt nguồn từ một số nguyên nhân khách quan, chủ quan nhưng
chủ yếu là do trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp , cơ cấu chuyển dịch
chậm.
Do vậy, cải cách thuế quan, tự do hoá thương mại là tất yếu và đã từ
ng bước
phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của nước ta càng sớm càng tốt để tranh
thủ các cơ hội kinh doanh, tham gia vào quá trình hình thành luật kinh tế, thương
mại quốc tế có lợi cho mình. Nếu tham gia muộn sẽ phải chấp nhận nhiều quy định
đã rồi, các nghĩa vụ phải thực hiện sẽ lớn hơn và thời gian chuyển tiếp cũng ngắn
hơn và Việt nam ph
ải vượt qua nhiều thách thức hơn.
Thực hiện chủ trương trên, từ 1/1/1996 Việt Nam bắt đầu thi hành nghĩa vụ
theo thành viên AFTA, thực hiện cải cách thuế quan theo CEPT, mở đầu có tính chất
đột phá trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng tự do hoá thương mại
của Việt Nam: Tạo thị trường láng giềng ổn định, tăng sự hấp dẫn đối với đầu tư
nước ngoài, tạo vị thế quốc tế mới, thúc đẩy thêm quan hệ của nước ta với các nước
khác, kể cả các nước lớn.
Các nước ASEAN đánh giá việc Việt Nam thực hiện cải cách thuế quan theo
CEPT/AFTA có ý nghĩa rất quan trọng, mở đầu cho một giai đoạn mới đưa ASEAN
nhanh chóng trở thành tổ chức kinh tế chung . Sự thật về AFTA chứng minh rằng
các nước ASEAN đều đã mở
cửa nền kinh tế, tiến tới mức độ tự do hoá thương mại
trên nền tảng như nhau của chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung.

23
Tuy nhiên, tham gia khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN, nhìn chung có thể nói
xuất phát điểm của Việt Nam tham gia AFTA có mặt không thực sự thuận lợi: quan
hệ thương mại Việt Nam với các nước quốc gia ASEAN còn lỏng lẻo và mất cân đối
lớn, trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam còn quá thấp trong khi hầu hết các nước

ASEAN có nền kinh tế phát triển, điều đó cũng chính là thách thức đối với Việt nam
khi gia nhập AFTA.

II. NỘI DUNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH CẢI CÁCH THUẾ QUAN
TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN AFTA Ở VIỆT NAM.
Hệ thống thuế Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi và có nhiều cải
cách, đặc biệt bắt đầu thực hiện AFTA.

1. Hệ thống thuế Việt Nam trước khi thực hiện AFTA
Từ năm 1995, khi Việt Nam gia nhập ASEAN cam kết thực hiện chương trình
CEPT.AFTA, Nhà nước đặc biệt quan tâm điề
u chỉnh thuế nội địa, ban hành và sửa
đổi các sắc thuế nhằm hỗ trợ cải cách thuế xuất nhập khẩu theo cam kết thực hiện
CEPT/AFTA.
Các đặc điểm chủ yếu của hệ thống thuế Việt Nam trước khi thực hiện AFTA
Hệ thống thuế Việt Nam có 4 nét nổi bật sau:
- Các loại thế doanh thu và thuế lợi tức còn quá phức tạp, có nhiều chế độ
miễn, giảm thuế và quá nhiều mức thuế.
- Thuế tu từ các doanh nghiệp Nhà nước chiếm một tỷ trọng lớn.
- Tính hệ thống giữa các chính sách thuế chưa chặt chẽ, vừa không bao quát
hết được các nguồn thu, thậm chí thất thu nghiêm trọng, chưa bảo đảm thuế là nguồn
thu chủ yếu, vừa có những điểm bất hợp lý, trùng lặp, thuế đánh trên thuế nhưng
doanh thu.
- Nhi
ều vấn đề còn chưa được công khai trong công tác hành chính và thu
thuế. Điều này cộng với tính quan liêu bao cấp vẫn còn tồn tại đôi chút của các cấp
và các cơ quan khác dẫn tới thuế có tính chất “khoản đóng góp mang tính thương
lượng”. Chứ không mang tính khách quan.

24

Do đó, cần cải cách những mặt hạn chế của hệ thống thuế Việt Nam, Tránh
đánh giá thuế trùng lặp, giảm khả năng trốn thuế, lậu thế nằm thực hiện
CEPT/AFTA.. Sau đó dần dần hoàn thiện, làm hài hoà hệ thống thuế nước ta với hệ
thống thuế trong khu vực và trên thế giới, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho phát
triể
n thương mại giữa Việt Nam và các quốc gia khác.
2. Cải cách thuế nội địa ở Việt Nam
Để phù hợp với cách đánh thuế của các nước trên thế giới và các nước
ASEAN, Chính phủ Việt Nam đang thực hiện cải cách thuế quan và đã vạch ra một
chương trình bao gồm những thay đổi về thuế sẽ được thực hiện trong 5 năm 1999
đến 2004 và những năm tiếp theo. Một trong những thay đổ
i này là việc cải cách
thuế nội địa: thay thuế doanh thu bằng thuế GTGT và thực hiện luật thuế thu nhập
thay thuế lợi tức từ 1/1/1999. Cùng với quyết định sửa đổi luật thuế TTĐB lần 3
ngày 20/5/1998 (có hiệu lực từ 1/1/1999) nhằm tách thuế TTĐB ra khỏi thuế nhập
khẩu để giảm thuế nhập khẩu theo cam kết thực hiện chương trình CEPT, điều này
đã t
ạo điều kiện cho Việt Nam tham gia AFTA mà không bị thiệt thòi về kinh tế
trong quan hệ buôn bán với các nước cùng tham gia ký kết hiệp định CEPT/AFTA.
.2.1. Thay thế thuế doanh thu bằng GTGT
Theo luật số 02/1997/QH9, được Quốc hội khoá IX, thông qua trong kỳ họp
thứ 11, thuế GTGT sẽ được thực hiện bắt đầu từ 1/1/1999 thay thế thuế doanh thu.
Đặc điểm của thuế GTGT.
- Thuế GTGT đánh vào từng khâu sản xuất kinh doanh. Thuế suấ
t đánh vào
các khâu đều bằng nhau và chỉ đánh vào phần giá trị tăng thêm. Thuế tính ở khâu
sau được khấu trừ số thuế đã nộp ở khâu trước nhưng phải căn cứ vào chứng từ hoá
đơn hợp lệ.
Sở dĩ phải thay thế thuế Doanh thu bằng thuế GTGT do:
- Thuế Doanh thu tính trên doanh thu đã có thuế doanh thu, còn thuế GTGT

tính trên gia bán hàng hoá dịch vụ chưa có GTGT. Như vậy, thuế GTGT khắc phục
đượ
c nhược điểm thu trùng lắp của thuế Doanh thu.
- Đối với hàng sản xuất để xuất khẩu không những không phải nộp thuế
GTGT mà còn được khấu trừ hay hoàn toàn GTGT đầu vào nên tạo điều kiện hạ giá

×