Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Chính sách huy động vốn của Ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.85 KB, 25 trang )

Chính sách huy động vốn của Ngân
hàng thơng mại
1.1.
Các hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thơng mại
1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng thơng mại
1.1.1.1. Khái niệm
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát
triển của nền sản xuất hàng hoá. Sự phát triển của kinh tế là điều kiện và đòi hỏi
sự phát triển của ngân hàng, đến lợt mình sự phát triển của hệ thống ngân hàng trở
thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Sản xuất phát triển dẫn đến lu thông hàng hoá ngày càng đợc mở rộng,
khối lợng lu thông ngày càng lớn, không chỉ trong mỗi địa phơng, trong mỗi quốc
gia mà còn đợc lu thông giữa các Quốc gia trong khu vực, giữa các khu vực trên
toàn thế giới. Tuy nhiên ở mỗi Quốc gia lại sử dụng những đồng tiền khác nhau,
với giá trị khác nhau, điều này đã gây rất nhiều khó khăn trong quá trình lu thông,
trao đổi hàng hoá. Trớc thực tế đó một số Thơng gia đã chuyển sang kinh doanh
hàng hoá đặc biệt (từ bỏ kinh doanh hàng hoá thông thờng), đó là đổi tiền và kinh
doanh tiền tệ. Công việc của các thơng gia này đã góp phần quan trọng trong việc
thu hẹp khoảng cách giữa các đồng tiền khác nhau, giúp quá trình lu thông hàng
hoá thuận tiện, tiết kiệm thời gian cho các nhà buôn, các thơng gia. Mặt khác để
đáp ứng nhu cầu thanh toán ngày càng lớn của các thơng gia, những ngời này
kiêm luôn việc giữ hộ và thanh toán hộ tiền, và trong trờng hợp cần thiết họ còn
tiến hàng cho các nhà buôn vay tiền để đáp ứng nhu cầu thanh toán (với chi phí
thoả thuận- hay còn gọi là lãi suất).
Ngày nay, hệ thống ngân hàng (bao gồm ngân hàng Nhà nớc và hệ thống
các Ngân hàng Thơng mại) phát triển hiện đại hơn, có nhiều loại hình dịch vụ hơn
rất nhiều so với thủa sơ khai, tuy nhiên thì một số nghiệp vụ của nó thì vẫn không
thay đổi về bản chất, mà nó chỉ thuận tiện hơn, tiện lợi hơn hình thức phục vụ đa
dạng hơn. Hoạt động của hệ thống ngân hàng ngay từ khi ra đời đã giữ vai trò
quan trọng là huyết mạch và còn thớc đo sự hng thịnh, suy thoái, hay trì trệ của
một nền kinh tế.


Tóm lại, có thể thấy rằng sự ra đời của hệ thống ngân hàng là kết quả của
sự phát triển kinh tế nói chung và lĩnh vực lu thông hàng hoá nói riêng. Sự ra đời
đó có thể ví nh một trong những phát kiến vĩ đại của nhân loại loài ngời.
Khái niệm Ngân hàng thơng mại
Mặc dù trải qua lịch sử phát triển lâu dài nhng cho đến nay, việc đa ra một
khái niệm cụ thể về Ngân hàng thơng mại thì vẫn còn là điều gây nhiều tranh cãi
của các nhà Kinh tế, bởi tại mỗi một thời điểm khác nhau thì khái niệm lại có
những thay đổi, đây lại cũng là một đặc thù của lĩnh vực ngân hàng tài chính.
Theo các nhà Kinh tế học thế giới thì Ngân hàng Thơng mại là một loại
hình doanh nghiệp hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng.
Theo cách tiếp cận trên phơng diện những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung
cấp thì Ngân hàng thơng mại là một loại hình tổ chức tổ chức tài chính, cung
cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tiết kiệm, dịch
vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ
chức nào trong nền kinh tế. Theo luật các tổ chức tín dụng của Nớc Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đợc Quốc hội khoá X (kỳ họp tứ hai, từ ngày 21 tháng 11
đến ngày 12 tháng 12 năm1997) thông qua thì Hoạt động ngân hàng là hoạt
động kinh doanh tiền tệ, và các dịch vụ ngân hàng với nội dung thờng xuyên là
nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh
toán.
Qua đây chúng ta có thể thấy rằng trên mỗi phơng diện khác nhau, tại mỗi
quốc gia khác nhau lại có những quan niệm, nhin nhận khác nhau, tuy nhiên tất cả
điều đó đều cho chúng ta những cách hiểu sâu hơn về khái niệm ngân hàng nói
chung và Ngân hàng Thơng mại nói riêng đồng thời qua đó giúp chúng ta có hiểu
rõ hơn về các hoạt độngvà những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp.
1.1.1.2. Các loại hình Ngân hàng thơng mại
Bất kì một nền kinh tế nào cũng cần phải có các tổ chức đứng ra làm trung
gian trong việc điều tiết các nguồn tiền để đáp ứng các nhu cầu liên quan đến tài
chính tiền tệ. Ngày nay không chỉ có các ngân hàng thơng mại đảm nhận việc đó,
mà còn có các tổ chức trung gian tài chính khác, với khả năng tài chính mạnh mẽ

cũng tiến hành tham gia cung cấp vốn và các dịch vụ khác liên quan tới lĩnh vực
tài chính tiền tệ.
a- Ngân hàng thơng mại chia theo hình thức sở hữu
Ngân hàng thơng mại Quốc doanh, là loại hình ngân hàng mà sở hữu
thuộc về Nhà nớc, do Nhà Nớc cấp ngân sách thành lậpvà trực tiếp quản lý, điều
hành. Nhà nớc sẽ chịu toàn bộ trách nhiệm liên quan tới nợ và các nghĩa vụ về tài
sản khác liên quan đến hoạt động của Ngân hàng Thơng mại. Thông thờng nhà n-
ớc (Trung ơng, hoặc Tỉnh) sẽ hỗ trợ về tài chính và bảo lãnh phát hành giấy tờ có
giá cho nên ít khi các ngân hàng này bị phá sản. Tuy nhiên trong một số trờng hợp
do hoạt động theo sự chỉ đạo từ Nhà Nớc cho nên sẽ ảnh hởng tới hoạt động kinh
doanh của ngân hàng.
Ngân hàng thơng mại cổ phần, đây là loại hình ngân hàng đợc thành lập
trên cơ sở góp vốn của các cổ đông, sự góp vốn có thể bằng hoặc không bằng
nhau giữa các Cổ đông tuỳ theo thoả thuận và khả năng của các cổ đông. Theo
quy định thì các cổ đông chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn về nghĩa vụ nợ và
trách nhiệm tài sản khác tuỳ theo mức tỷ lệ cổ phần mà mình sở hữu. Do vốn hình
thành theo hình thức tập trung cho nên các ngân hàng thơng mại cổ phần có khả
năng mở rộng quy mô và tăng nguồn vốn nhanh, do vậy đây thờng là các ngân
hàng lớn. Phạm vi hoạt động rất rộng, hình thức hoạt động đa năng, có nhiều Chi
nhánh hoặc công ty con. Nhng nó thờng chịu mức rủi ro cao từ cơ chế quản lý
phân quyền. (Giữa Tổng giám đốc và các giám đốc; giữa công ty mẹ và công ty
con...).
Ngân hàng Thơng mại Liên doanh, là loại hình ngân hàng thành lập trên
cơ sở sự hợp tác hoặc góp vốn của bên hoặc các bên của ngân hàng nớc này với
bên hoặc các bên của ngân hàng quốc gia (có thể một hoặc nhiều Quốc gia cùng
góp vốn) khác, để tận dụng u thế của nhau. Tuỳ theo thoả thuận và hiệp định ký
kết giữa các bên.
Ngân hàng sở hữu t nhân, là ngân hàng do cá nhân thành lập bằng vốn của
mình. Loại ngân hàng này thờng có quy mô nhỏ, phạm vi hoạt động trong từng
địa phơng. Các ngân hàng này thờng gắn liền với hoạt động của các doanh nghiệp

và cá nhân địa phơng. Chủ ngân hàng thờng rất am hiểu khách hàng, vì vậy hạn
chế đợc rủi ro. Tuy nhiên vì quy mô và phạm vi nhỏ nên nó thờng không đa dạng
trong hoạt động, nên dễ dàng gặp tổn thất khi mà địa phơng đó gặp rủi ro.
b. Ngân hàng thơng mại theo tính chất hoạt động
Ngân hàng chuyên doanh và đa năng, ngân hàng hoạt động theo hớng
chuyên doanh là ngân hàng chỉ cung cấp một số dịch vụ hạn chế tuỳ thuộc vào
thế mạnh, cũng nh điều kiện mà ngân hàng có thể hoạt động.. Tính chuyên môn
hoá cao cho phép các ngân hàng có đợc đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, tinh
thông nghiệp vụ. Tuy nhiên loại hình ngân hàng này thờng gặp rủi ro lớn, khi mà
ngành hoặc lĩnh vực mà mình hoạt động bị xa sút. Ngân hàng chuyên doanh thờng
là ngân hàng có quy mô nhỏ, phạm vi hoạt động hẹp, trình độ cán bộ do tập trung
chuyên sâu nên không đa dạng; hoặc là ngân hàng sở hữu của công ty. Thứ hai,
ngân hàng hoạt động theo hớng đa năng là ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ ngân
hàng cho mọi đối tợng. Đây là xu hớng chủ yếu hiện nay của các ngân hàng thơng
mại, nhất là ngân hàng thơng mại lớn. Các ngân hàng này thờng là ngân hàng lớn
(hoặc chủ sử hữu công ty lớn). Tính đa dạng sẽ giúp ngân hàng trong việc tăng thu
nhập và hạn chế rủi ro.
Ngân hàng bán buôn và ngân hàng bán lẻ, ngân hàng bán buôn là ngân
hàng cung cấp các dịch vụ cho các ngân hàng khác, các công ty tài chính, cho nhà
nớc, cho các doanh nghiệp quy mô lớn. Ngân hàng bán buôn thờng là ngân hàng
lớn hoạt động tại các trung tâm tài chính quốc tế, cung cấp các khoản tín dụng
lớn. Ngân hàng bán lẻ thờng là các ngân hàng cung cấp dịch vụ trực tiếp cho các
doanh nghiệp, hộ gia đình và các cá nhân, với các khoản tín dụng nhỏ lẻ. Ngày
nay xu hớng của các ngân hàng thơng mại ít ngân hàng chỉ bán lẻ hay chỉ bán
buôn. Các ngân hàng nhỏ thờng bán lẻ, còn ngân hàng lớn vừa bán buôn, vừa bán
lẻ.
Tóm lại, có thể thấy các Ngân hàng Thơng mại ngoài hoạt động chính là
nhận tiền gửi, phân phối lại nguồn vốn phục vụ nhu cầu của nền kinh tế. Thì nó
còn có chức năng quan trọng là chức năng tạo tiền và cung cấp các dịch vụ nhất
liên quan tới lĩnh vực tiền tệ mà các trung gian tài chính khác không thể thực hiện

đợc. Đồng thời nó cũng trực tiếp thực hiện sách tiền tệ quốc gia, theo quy định
của Ngân hàng nhà nớc.
c. Các trung gian tài chính
Mặc dù không phải là ngân hàng thơng mại nhng các trung gian tài chính
này với tiềm lực tài chính lớn mạnh trong tay, họ cung cấp nhiều loại hình dịch
vụ, và hoạt động tơng tự ngân hàng thơng mại. Một số trung gian tài chính chủ
yếu hiện nay gồm;
Công ty Tài chính, Có thể là các công ty quốc doanh, công ty cổ phần, với
hoạt động chủ yếu cho vay để mua bán hàng hoá, dịch vụ bằng nguồn vốn của
mình. Nhận tiền gửi, phát hàng trái phiếu, tín phiếu, hoặc vay của các tổ chức tín
dụng trong và ngoài nớc.
Công ty Cho thuê Tài chính (Cho thuê tài sản), là công ty cung cấp tín
dụng trung và dài hạn, thông qua các hợp động cho thuê tài sản với khách hàng
thuê. Khi kết thúc thời hợp đồng thuê, khách hàng đợc mua lại với giá u đãi (theo
hợp đồng thuê mua), hoặc cũng có thể tiếp tục thuê tài sản đó theo điều kiện đã
thoả thuận và điều kiện gia hạn (nếu cần thiết).
Công ty Bảo hiểm, với tiềm lực về tài chính trong tay, ngày nay các công ty
Bảo Hiểm cũng hoạt động nh một trung gian tài chính (một tổ chức tín dụng)
đứng ra huy động tiền của những ngời mua bảo hiểm (tiền đóng phí của khách
hàng) trên mọi lĩnh vực khác nhau, với lời hứa sẽ bù đắp thiệt hại cho những ngời
tham gia khi họ gặp rủi ro, tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại, và loại hình bảo hiểm
mà khách hàng tham gia. Nh vậy công ty Bảo hiểm sẽ có lợng tiền tạm thời nhàn
rỗi rất lớn có thể tiến hành hoạt động nh một trung gian tài chính.
So với các ngân hàng thơng mại thì các trung gian tài chính ngoài những
nghiệp vụ mà nó hoạt động giống nh một ngân hàng thơng mại, thì nó có điểm
khác biệt ở chỗ, nó không có chức năng tạo tiền cho nền kinh tế, không nhận tiền
gửi không kỳ hạn, không cung cấp dịch vụ thanh toán và nhìn chung nó ít chịu sự
ảnh hởng hay phải thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia theo quy định của Ngân
hàng Nhà Nớc, hay của Chính phủ. Đó chính là sự khác biệt cơ bản của các tài
chính trung gian tài chính so với các ngân hàng thơng mại.

1.1.2. Các hoạt động của ngân hàng thơng mại
Cùng với chiều dài lịch sử hình thành ngân hàng thơng mại ngày nay khác
xa so với ngân hàng thơng mại thủa sơ khai, do nhu cầu kinh doanh và sự cạnh
tranh quyết liệt mà hệ thống ngân hàng thơng mại đã mở rộng rất nhiều loại hình
dịch vụ tiện ích cung cấp cho khách hàng, mặc dù mộ số nghiệp vụ truyền thống
vẫn không thể tách rời so với hoạt động của ngân hàng, sau đây chúng ta cùng tìm
hiểu một số loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế.
1.1.2.1. Hoạt động cơ bản của ngân hàng thơng mại
Mua bán trao đổi ngoại tệ
Lịch sử cho thấy một trong những dịch vụ đầu tiên của ngân hàng là dịch
vụ đợc thực hiện là trao đổi ngoại tệ, theo đó ngân hàng sẽ đứng ra mua một loại
tiền tệ này đổi lấy một loại tiền tệ khác, để hởng phí dịch vụ và hởn chênh lệch
giá. Điều này rất quan trọng đối với khách du lịch quốc tế khi di du lịch tại nớc sở
tại, đồng thời hiện nay các ngân hàng thơng mại còn thực hiện việc huy động vốn,
cho vay bằng ngoại tệ và quan trọng hơn nữa là việc thanh toán cho lĩnh vực Xuất,
nhập khẩu hàng hoá cùng các hoạt động khác liên quan đến hoạt động thơng mại
Quốc tế.
Nhận tiền gửi
Nh phần trên đã trình bày, để có vốn để tiến hành hoạt động kinh doanh thì
các ngân hàng thơng mại phải tiến hành huy động từ các thành phần trong nền
kinh tế. Ngân hàng sẽ tiếp nhận tất cả các nguồn tiền gửi của dân c, của các doanh
nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp với mức lãi
suất phù hợp đợc công bố. Hiện nay khi khách hàng tới gửi tiền thì Ngân hàng sẻ
mở một tài khoản giúp khách hàng thuận tiện trong giao dịch và kiểm tra.
Cho vay
Cho vay là hoạt động đem lại thu nhập chủ yếu đối với các Nớc đang phát
triển (còn ở các Nớc phát triển thì thu nhập chủ yếu lại là thu từ phí hoạt động
dịch vụ), hiện nay có một số loại hình cho vay nh sau:
- Cho vay Thơng mại và chiết khấu thơng phiếu
Nghiệp vụ này suất hiện ngay từ thời kỳ đầu thành lập ngân hàng, các ngân

hàng sẽ chiết khấu thơng phiếu mà thực tế là cho vay đối với các doanh nghiệp địa
phơng, những ngời bán các khoản nợ (khoản phải thu) của các khách hàng cho
ngân hàng để lấy tiền mặt. Đó là bớc chuyển tiếp từ chiết khấu sang cho vay trực
tiếp đối với khách hàng, giúp họ có vốn để mua hàng hoá dự trữ hoặc xây dựng
văn phòng và mua sắm trang thiết bị sản xuất.
- Cho vay tiêu dùng
Trong lịch sử hình thành và phát triển thì hầu hết các ngân hàng thơng mại
không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản
cho vay tiêu dùng nói chung có quy mô rất nhỏ song lại có độ rủi ro vỡ nợ tơng
đối cao và do đó chúng trở nên có mức sinh lời thấp. Đầu thế kỷ XX, các ngân
hàng bắt đầu dựa nhiều hơn vào tiền gửi khách hàng để tài trợ cho những món vay
thơng mại lớn. Và rồi sự cạnh tranh gay gắt trong việc giành giật tiền gửi và cho
vay đã buộc các ngân hàng phải hớng tới ngời tiêu dùng nh là một khách hàng
trung thành và tiềm năng. Nhiều ngân hàng thơng mại lớn trên thế giới đã thành
lập hẳn phòng tín dụng tiêu dùng lớn mạnh. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai
cho vay tiêu dùng đã trở thành loại hình tín dụng có mức tăng trởng mạnh nhất.
Mặc dù trong thời gian gần đây tốc độ có chậm lại do cạnh tranh tín dụng ngày
càng lớn trong khi nền kinh tế đã phát triển với tốc độ chậm lại. Tuy nhiên ngời
tiêu dùng vẫn tiếp tục là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng và tạo ra một nguồn
thu quan trọng.
- Cho vay tài trợ và đồng tài trợ dự án
Các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ và đồng tài
trợ cho những chi phí xây dựng nhà máy mới, đặc biệt là trong các ngành công
nghệ cao và các dự án có quy mô vốn lớn, thời gian hoạt động lâu dài. Do rủi ro
trong loại hình tín dụng này nói chung là cao nên chúng thờng đợc thực hiện qua
một hoặc nhiều công ty đầu t, các thành viên của công ty sở hữu ngân hàng, cùng
với việc tham gia của các nhà đầu t khác để chia sẻ rủi ro. Ngoài ra các ngân hàng
còn tiến hành tài trợ cho các chơng trình văn hoá xã hội, các chơng trình thể thao,
các chơng trình phúc lợi xã hội...
Bảo quản vật có giá

Đây là nghiệp vụ có từ thời trung cổ khi mà ngân hàng đang còn ở dạng sơ
khai, các ngân hàng bảo quản vật có giá của khách hàng trong các kho của mình.
Một điều hấp dẫn là, các loại giấy tờ có giá này nh giấy chứng nhận do ngân hàng
ký phát cho khách hàng (ghi nhận về tài sản đang đợc lu giữ) có thể đợc lu hành
nh tiền- đây chính là hình thức đầu tiên của loại hình thanh toán Séc và Thẻ sau
này. Ngày nay nghiệp vụ bảo quản vật có giá thờng do phòng bảo quản của
ngân hàng thực hiện.
Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán
Khi các doanh nghiệp gửi tiền và ngân hàng, họ nhận thấy các ngân hàng
không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả thay cho khách hàng. Thanh
toán qua ngân hàng, đã mở đầu cho hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, tức
là ngời gửi tiền không phải đến ngân hàng rút tiền sau đó thực hiện thao tác thanh
toán, mà chỉ cần viết lệnh yêu cầu ngân hàng thanh toán thay cho mình. Hoặc
cũng có thể khách hàng mang giấy (Séc, Uỷ nhiệm chi- UNC, do khách hàng
khác ký phát) đến ngân hàng sẽ nhận đợc tiền. Việc cung cấp dịch vụ thanh toán
này đã góp phần quan trọng trong việc tiết kiệm thời gian giao dịch cho cả ngân
hàng lẫn khách hàng, giảm thiểu chi phí, đặc biệt là ngân hàng sẽ mở rộng màng
lới của mình để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, một cách nhanh chóng và thuận
tiện. Từ đó khuyến khích các doanh nghiệp, các cá nhân gửi tiền vào ngân hàng và
sử dụng các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Do đó, một dịch vụ mới, quan trọng
nhất đợc phát triển đó là tài khoản tiền gửi giao dịch (demand deposit), giúp cho
ngời gửi tiền viết Séc, uỷ nhiệm chi (UNC) để thanh toán cho việc mua hàng hoá,
dịch vụ. Việc đa ra loại hình dịch vụ này đợc xem nh là một trong những bớc đi
quan trọng nhất trong ngành công nghiệp ngân hàng.
Quản lý ngân quỹ
Với chức năng là thủ quỹ của các doanh nghiệp và nhiều cá nhân khác
trong nền kinh tế, các ngân hàng sẽ mở các tài khoản và giữ tiền cho họ. Do đó
mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng ngày càng chặt chẽ. Mặt khác ngân
hàng rất có kinh nghiệm trong việc quản lý ngân quỹ cho nên họ đã cung cấp dịch
vụ quản lý và đồng ý quản lý việc thu chi cho khách hàng nhất là doanh nghiệp và

tiến hành sử dụng phần thặng d tiền mặt tạm thời theo mục đích của ngân hàng
cho đến khi khách hàng có nhu cầu rút tiền hoặc thanh toán.
Tài trợ các hoạt động của Chính phủ
Đây là một trong nhiều loại hình nghiệp vụ mà ngân hàng áp dụng, bởi lẽ
hoạt động của ngành ngân hàng liên quan trực tiếp tới bức tranh toàn cảnh về hoạt
động của nền kinh tế. Do đó ngay từ khi thành lập các ngân hàng đã phải chịu sự
quản lý và điều tiết trực tiếp hoặc gián tiếp của Chính phủ. Thông thơng các ngân
hàng phải cam kết mua một lợng trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định
trên tổng nguồn tiền mà nó huy động đợc. Các ngân hàng cam kết cho Chính phủ
vay tiền, hoặc tiến hành tài trợ các dự án, chơng trình của Chính phủ trong những
trờng hợp cần thiết.
Cho thuê thiết bị trung và dài hạn
Nhằm để bán các thiết bị, máy móc nhất là các thiết bị có giá trị lớn, nhiều
hãng sản xuất và thơng mại đã cho thuê (thay vì bán) các thiết bị. Khi kết thúc
hợp đồng thuê, khách hàng có thể tiến hành ra hạn hợp đồng thuê tiếp, hoặc mua
lại (nếu hợp đồng đó là hợp đồng thuê mua). Với tiềm lực tài chính lớn mạnh của
mình các ngân hàng thơng mại cũng tiến hành king doanh quyền lựa chọn thuê
thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê hoặc thuê mua, trong đó
ngân hàng tiến hành mua thiết bị máy móc cho khách hàng thuê, với các cam kết
mà các bên thoả thuận, nhng thông thờng khách hàng phải cam kết trả 2/3 giá trị
tài sản thuê. Nh vậy, về thực chất đây là một hình thức cho vay của ngân hàng đối
với khách hàng, nó thờng đợc xếp vào tín dụng trung và dài hạn.
Cung cấp dịch vụ uỷ thác và t vấn
Do hoạt động của ngân hàng chủ yếu trên lĩnh vực tài chính tiền tệ, nên
ngân hàng thờng tập trung các danh mục đầu t cũng nh đội ngũ chuyên gia. Khi
các cá nhân, các tổ chức, các doanh nghiệp có yêu cầu thì ngân hàng tiến hành t
vấn về đầu t, về quản lý tài chính, về thành lập, chia tách doanh nghiệp, về mua
bán chứng khoán. Đồng thời ngân hàng cũng tiến hành quản lý tài sản hộ khách
hàng, và trong nhiều trờng hợp ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ uỷ thác cho
khách hàng nh uỷ thác đầu t, uỷ thác phát hành, uỷ thác cho vay hộ.

Cung cấp dịch vụ môi giới và đầu t chứng khoán
So yêu cầu của sự cạnh tranh trong nền kinh tế, các ngân hàng thơng mại
ngày càng quan tâm tói việc cung cấp càng nhiều dịch vụ cho khách hàng càng
tốt. Hiện nay hầu hết các ngân hàng thơng mại đều cung cấp dịch vụ mua bán
chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các
chứng khoán khác mà không nhờ tới các nhà kinh doanh chứng khoán. Nhiều
ngân hàng hiện nay đã thành lập hẳn ra các ty chứng khoán, công ty môi giới
chứng khoán.
Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
Trong nhiều năm trở lại đây, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách
hàng (chủ yếu là bảo hiểm tiền gửi, hoặc bảo hiểm tín dụng), điều này đảm bảo
khả năng hoàn trả của khách hàng cho ngân hàng khi mà không may khách hàng
gặp rủi ro ảnh hởng tới tình mạng sức khoẻ, hay rủi ro trong hoạt động sản xuất
kinh doanh.
Cung cấp dịch vụ đại lí
Do nhiều yếu tố khách quan cũng nh chủ quan, một số ngân hàng cha có
điều kiện mở Chi nhánh, hay văn phòng đại diện tại vùng, hoặc quốc gia khác có
quan hệ. Các ngân hàng thơng mại lớn tiến hành cung cấp dịch vụ ngân hàng đại

×