Tải bản đầy đủ (.doc) (134 trang)

Bước ngoặc lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (611.85 KB, 134 trang )

Bước ngoặt lớn
của cuộc kháng chiến chống Mỹ
Tác giả: Đại tướng Văn Tiến Dũng
Số hoá: Thanh Long
Nhà xuất bản: Sự Thật
Năm xuất bản: 1989
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước toàn thắng là thiên anh hùng ca vĩ đại của chiến
tranh nhân Việt Nam trong thế kỷ XX, đồng thời cũng là một trong những tranh chói lọi
trong lịch sử của nhân dân cách mạng thế giới chống chủ nghĩa đế quốc thời đại ngày nay.
Trong 21 năm chống Mỹ bền bỉ dẻo dai, kiên cường dũng cảm, mưu trí, sáng tạo của cả
dân tộc, có thể nói những năm tháng nhân dân ta đánh thắng cuộc “chiến tranh cục bộ” của
Mỹ là giai đoạn chiến lược then chốt mở ra một bước ngoặt lớn cho toàn bộ cuộc kháng
chiến thần thánh đến toàn thắng.
Chiến tranh cục bộ là nấc thang của Mỹ ở Việt Nam. Họ đã có những nỗ lực quân sự lớn
nhất mà đặc trưng nổi bật là ồ ạt đưa trên nửa triẹu quân chiến đấu Mỹ vào trực tiếp tham
chiến. Đã kết hợp đẩy mạnh cuộc chiến tranh trên bộ ở miền Nam với phát động cuộc
chiến tranh không quân và hải quân phá hoại miền Bắc Việt Nam, đánh phá quyết liệt
tuyến đường vận tải chiến lược Trường sơn, bằng không quân và lục quân Mỹ. Chiến lược
chiến tranh “chống nổi dậy” nhằm đè bẹp các lực lượng cách mạng ở Việt Nam, một nước
được coi là ngọn cờ tiêu biểu của phong trào chống Mỹ, giải phóng dân tộc, đã được bộ
máy chiến tranh của Nhà trắng và Lầu năm góc thực hiện bằng một cuộc chiến tranh huỷ
diệt.
- Huỷ diệt con người.
- Huỷ diệt mùa màng, cây cỏ.
- Huỷ diệt môi trường sinh thái.
Đối với nhân dân ta, đây là những năm tháng mà toàn Đảng, toàn dân trên cả nước ta đã ra
quân đánh Mỹ với một quyết tâm sắt đá và khí thế cách mạng nóng bỏng: “ Thà hy sinh tất
cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất không chịu làm nô lệ”, “Không có gì quý
hơn độc lập, tự do”. Để giành được thắng lợi, cả dân tộc ta đã phải trải qua những thử
thách, gian truân có những lúc tưởng như khó vượt nổi, chịu những hy sinh, tổn thất lớn
lao chưa từng thấy trong lịch sử chiến tranh chống ngoại xâm của dân tộc, hậu quả vẫn còn


tác động sâu sắc đến sự nghiệp xây dựng đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Đánh thắng “ chiến tranh cục bộ” là một bước ngoặt cơ bản, tạo tiền đề vững chắc cho
thắng lợi chiến lược năm 1972 và thắng lợi cuối cùng mùa xuân năm 1975 lịch sử.
Đối với đế quốc Mỹ, thất bại cuộc chiến lược “chiến tranh cục bộ”, chiến lược chiến tranh
1
quan trọng nhất của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, làm lung lại ý chí xâm lược của
giới cầm quyền ở Mỹ. Nó đánh dấu một bước thụt lùi về chiến lược, một bước ngoặt đi
xuống dẫn tới thất bại hoàn toàn của cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, sự phá sản
của chiến lược quân sự toàn cầu “phản ứng linh hoạt” của Mỹ ở Việt Nam.
Cuốn sách này góp phần luận giải nội dung và thực chất sự kiện nhaâ dân ta đánh thắng
chiến tranh cục bộ làm chuyển biến cục diện cuộc kháng chống Mỹ, cứu nước.
Chúng ta đã đánh thắng một triệu hai mươi vạn quân định trong đó có trên nửa triệu quân
chiến đấu Mỹ và 6 vạn quân chư hầu ra sao? Ta đã phá chiến lược chiến tranh cục bộ của
Mỹ trên cả hai miền đất nước như thế nào? Vì sao nhân dâ ta , một nước nghèo, đất không
rrộng, người không đông đã thắng; đế quốc Mỹ, với lực lượng quân sự và kinh tế khổng lồ,
đã thua trong cuộc đọ sức và đấu trí này?
Đối với chúng ta, đây là đề tài gây ấn tượng mạnh mẽ và đặt ra bao điều cần suy ngẫm để
có thể rút ra những bài học bổ ích góp phần và công cuộc xây dựng nền quốc phòng toàn
dân và chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc hiện nay và mai sau. Mãi đến thời gian gần
đây, chúng tôi mới có điều kiện bắt tay vào việc biên soạn. Trong quá trình viết, tác giả
nhận được sự cộng tác tích cực và giúp đỡ tận tình của nhiều cơ quan và cán bộ nghiên cứu
trong và ngoài quân đội. Cho phép tôi được bày tỏ lời chân thành và trân trọng cảm ơn tới
các cơ quan và đồng chí nói trên.
Với một đề tài rộng lớn, cần có sự đầu tư thích đáng cả công sức, lực lượng và thời gian,
tiến hành rât công phu mới có thể đạt chất lượng tốt. Trong lúc đó, điều kiện sưu tầm tài
liệu và khả năng thể hiện trong khuôn khổ một cuốn sách chỉ có hạn, không thể nào phản
ánh đầy đủ hết tầm cao sự kiện lịch sử trọng đại này như bạn đọc gần xa cần tìm hiểu và
hằng mong mỏi.
Chắc chắn cuốn sách này có nhiều thiếu sót. rất mong bạn đọc cho ý kiến phê bình.


Đại tướng Văn Tiến Dũng
Chương một
Chiến tranh cục bộ: Nấc thang cao nhất
Bước vào năm 1965, nguy cơ thất bại của chiến lược “chiến tranh đặc biệt” đặt đế quốc
Mỹ trước một tình thế khó khẳn cả ở Việt Nam và trong nước Mỹ. Giới cầm quyền Mỹ đề
ra và thực hiện một số quyết định chiến lược mới.
Tháng 2 năm 1965, Mỹ mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng khôngq uân và hải quân
đối với miền Bắc Việt Nam. Tháng 3 năm 1965, tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ đầu tiên
đổ bộ lên Đà Nẵng và không quân Mỹ mở chiến dịch “sấm rền” (Rolling Thunder), đẩy
mạnh, việc đánh phá miền Bắc nước ta. Tháng 6 năm 1965, Mỹ tung lữ đoàn du số 173
mới đưa vào miền Nam ra trực tiếp tác chiến ở Phước Vĩnh (Đông Nam Bộ)1, bắt đầu sử
dụng máy bay ném bom chiến lược B.52 ở miền Nam (chi viện cho quân chiến đấu Mỹ tác
2
chiến ở Bên Cát - Thủ Dầu Một). Tháng 7 năm 1965, bộ tư lệnh lục quân Mỹ được thành
lập ở căn cứ Long Bình... Bị vong lục số 328 ngày 1 tháng 4 năm 1965 quyết định triển
khai thêm 18.000 đến 20.000 quân Mỹ chỉ làm nhiệm vụ hỗ trợ. Nhưng ngày 27 tháng 7
năm 1965, tổng thống Mỹ Lin-đơn Giôn-xơn đã quyết định tăng ngay tức khắc quân Mỹ
lên 125.000, triển khai tổng số 44 tiểu đoàn chiến đấu và chuyển quân Mỹ sang làm nhiệm
vụ trực tiếp tác chiến. Cũng vào ngày đó, Giôn-xơn tuyên bố “ thế là chúng ta (Mỹ) đã
tham gia một cuộc chiến tranh lớn ở miền Nam Việt Nam”.
Như vậy, từ giữa năm 1965 một, cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ ở miền
nam Việt Nam đã leo lên thang mới. Đây không phải là một bước chuyển bình thường mà
là sự thay đổi chiến lược chiến tranh: chuyển từ chiến lược “chiến tranh đặt biệt” sáng
chiến lược “chiến tranh cục bộ”.
Đối với nhà cầm quyền Mỹ, quyết định chuyển chiến lược như trên không phải là đơn
giản. Trong tập hồi ký của mình sau này, Giôn-xơn coi đó là một quyết định “ quyết liệt”
nhưng “ day dứt nhất và đau đớn nhất” của một đời tổng thống.
Ba phương án do Bộ quốc phòng Mỹ đệ trình đều khó lựa chọn cả: “một là rút lui mà chắc
chắn đó là điều nhục nhã đối với nước Mỹ, hai là tiếp tục chiến tranh như mức độ hiện có
mà đây là đường lối sẽ làm cho

_____________
1. Lúc này, ở miền Nam Việt Nam đã có sư đoàn lính thuỷ đánh bộ số 3 và lữ đoàn dù số
173 của Mỹ.
nước Mỹ ngày càng yếu đi, ba là mở rộng nhanh chóng và đẩy mạnh sức ép quân sự của
Mỹ cả ở miền Nam và miền Bắc Việt Nam mà từ đó sẽ tránh được thất bại nhưng sẽ phí
tổn lớn lao và bất kỳ quyết định rút quân nào sau này sẽ rất khó khăn”.
Sau nhiều ngày đêm trăn trở, và trải qua nhiều cuộc họp với các cố vấn thân cận và với hội
đồng an ninh quốc gia, ttổng thống Giôn-xơn đã lựa chọn phương án 3, cho đó là phương
án khó khăn nhưng đúng nhất: “Quyết tâm không để Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản”.

Ngay trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954), chúng ta đã nhìn
thấu dã tâm của đế quốc Mỹ đối với đất nước ta. Đối với đế quốc ôm mộng bá chủ hoàn
cầu, Việt Nam và đông Dương cũng như toàn bộ khu vực Đông – Nam Châu á là một
miếng mồi béo bở, với nguồn nguyên liệu chiến lược giàu có và nguồn nhân côcng rẻ tiền,
đồng thời cũng là một địa bàn chiến lược quan trọng, án ngữn đường giao thông xung yếu
trên biển giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Đặc biệt, đây lại là nơi đang diễn ra
cuộc đấu tranh gay gắt giữa phong trào cách mạng với chủ nghĩa đế quốc thế giới, trong đó
Việt Nam nổi bật lên như ngọn cờ tiêu biểu cho sự kết hợp các trào lưu cách mạng của thời
đại.
Vì vậy, sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, giới cầm quyền nước Mỹ rất chú ý
đến khu vực này và sang đầu những năm 50, họ đã can thiệp ngày càng sâu vào cuộc chiến
tranh xâm lược Đông Dương, tăng cường viện trợ cho thực dân Pháp, nhằm từng bước
thực hiện âm mưu độc chiếm Đông Dương. Năm 1954, lợi dụng thời cơ thực dân Pháp bại
trận, đế quốc Mỹ đã nhảy vào miền nam Việt Nam thay Pháp, dựng nên chính quyền Ngô
Đình Diệm, với mục đích nhanh chóng biến miền nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ
3
quân sự của Mỹ, lập phòng tuyến ngăn chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống vùng Đông – Nam
châu á, lấy miền nam làm căn cứ tiến lên thôn tính miền bắc, đẩy lùi chủ nghĩa xã hội ở
vúng này.
Thế chân thực dân Pháp ở miền nam Việt Nam, , đế quốc Mỹ không dụng bộ máy cai trị

trực tiếp và quân đội chiếm đóng theo chính sách thực dân kiểu cũ mà thông qua hệ thống
cố vấn Mỹ từ trên xuống bằng quyền lực của viện trợ quân sự và kinh tế. Mỹ sử dụng
chính quyền và quân đội nguỵ để khống chế và nô dịch nhân dân miền Nam về mọi mặt.
dựa và tập đoàn Ngô Đình Diệm, đại diện cho giai cấp địa chủ phong kiến và tư sản mại
bản, bọn phục thù giai cấp khoác áo “ dân tôc, dân chủ”, Mỹ trực tiếp xây dựng và chỉ huy
quân đội tay sai, đồng thời giúp nguỵ quyền tổ chức hệ thống kìm kẹp ở cơ sở để đán áp
các đảng phái cùng lực lượng đối lập và ráo riết đánh phá phong trào cách mạng ở miền
nam nước ta.
Ngay từ đầu, Mỹ - Diệm áp dụng một chính sách độc tài phát xít nhằm tiêu diệt tổ chức
lãnh đạo, nhổ bật các cơ sở cách mạng, bẻ gãy tính thần phản kháng của nhân dân. từ năm
1954 đến năm 1959, chính quyền Ngô Đình Diệm điên cuông thực hiện chính sách “tố
cộng, diệt cộng” trên toàn miền nam. Chúng ra sức dồn dân vào các trại tập trung vứi chiêu
bài “khu trù mật” “khu dinh điền”, kết hợp với sử dụng các lực lượng quân đội, cảnh sát,
dùng những thủ đoạn khủng bố hết sứcdã man: “đốt sạch, giết sạch, phá sạch”, đàn áp
khốc liệt phong trào đáu tranh chính trị của nhân dân. Ròng rã suốt 4,5 năm, với thủ đoạn
tàn bạo, hiểm độc, kết hợp dùng bạo lực tối đa với lừa mị và lôi kéo chúng hy vọng sẽ
đánh bật được gốc rễ của cách mạng là đảng cộng sản và nhanh chóng “bình định” được
miền Nam. Thế nhưng, chúng vẫn không sao dập tắt nổi tinh thần yêu nước của nhân dân
ta, ngược lại, đã gây nên sự công phẫn cao độ của toàn thể dân tộc Việt Nam, nhất là trong
mọi tầng lớp đồng bào ta ở miền nam.
Tháng 9 năm 1954, Bộ chính trị trung ương đảng ta đã kịp thời ra nghị quyết xác định
nhiệm vụ cách mạng miền nam lúc bấy giờ là: chuyển hướng từ đấu tranh vũ trang sang
đấu tranh chính trị đòi thực hiện Giơ-ne-vơ, củng cố hoà bình, thực hiện tự do dân chủ, cải
thiện dân sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc lập.
Tháng 6 năm 1956, Bộ chính trị Trung ương đảng ta lại ra nghị quyết nêu rõ: Tuy hình
thức đấu tranh của ta trong toàn quốc hiện nay là đáu tranh chính trị, nhưng như thế không
có nghĩa là không dùng vũ trang tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định. đảng ta đã chỉ rõ
rằng: đứng trước chính sách cực kỳ phản động và tàn bạo của Mỹ - Diệm, nhân dân miền
Nam không có con đường nào kháng là đứng lên làm cách mạng để cứu nước, cứu mình.
Do đó, mục đích cách mạng miền nam là phải đánh đổ chính quyền độc tài phát xít Ngô

Đình Diệm và đánh đổ bằng con đường cách mạng.

Dưới ánh sáng đường lối, cách mạng đã được xác định, Đảng ta lãnh đạo đồng bào miền
Nam nêu cao ngọn cờ độc lập, thống nhất, dân chủ, hoà bình, dựa vào chính nghĩa và pháp
lý của hiệp định Giơ-ne-vơ, tiến hành một cuộc đấu tranh chính trị bền bỉ và vô cùng anh
dũng chống lại kẻ thù, đồng thời ra sức bảo tồn cơ sở, tích luỹ lực lượng, đón đợi thời cơ.
Khi Mỹ - Diệm trắng trợn phá hoại hiệp định Giơ-ne-vơ, khắp nơi đã nổ ra các cuộc mít
tinh, biểu tình đòi hiệp thương tổng tuyển cử để thống nhất nước nhà, đòi chấm dứt khủng
bố trả thù những người kháng chiến, chống “ tố cộng, diệt cộng”, chống cướp đất, đuổi
4
nhà. Cuộc đấu tranh sôi động đã lôi cuốn hàng triệu người từ Quảng Trị đến Cà Mau, hình
thành sự phối hợp giữa đồng bào thành thị và đồng bào nông thôn, với những hình thức
đấu tranh rất phong phú và linh hoạt.

Trong 5 năm đấu tranh chính trị gay go và quyết liệt, đồng bào miền nam đã chịu đựng biết
bao đau thương và tổn thất, hàng ngàn xóm làng bị địch đốt phá, hàng chục vạn cán bộ,
đảng viên bị giam cầm, tra tấn và bắt giết1. Nhưng lòng yêu nước và ý chiến chiến đấu của
đồng bào ta không hề bị giám sút, phong trào phát triển ngày càng mạnh. Năm 1957, có
hai triệu lượt người tham gia đấu tranh chính trị, đến năm 1958 có 3,7 triệu và sáng năm
1959, đã lên tới gần 5 triệu. Trong khi đó, cuộc đấu tranh vũ tranh tự vệ, trừ gian, diệt ác
cũng được đảy mạnh và nhiều đơn vị vũ trang cách mạng đã ra đời. Trải quan đấu tranh,
cácn cán bộ, đảng viên và đồng bào ta được tô luyện ngày càng già dặn, ngày càng thấy rỗ
bản chất phản động cũng như những chỗ yếu cơ bản của đế quốc Mỹ và bọn tay sai để chĩa
mũi nhọn đấu tranh, khiến chúng ngày càng bị cô lập về chính trị. Còn phong trào cách
mạng, tuy phải trải qua những thử thách cực kỳ nghiêm trọng, vẫn giữ được và phát triển.
Lúc này, chế độ thống trị của địch lâm vào một cuộc khủng hoảng sâu sắc. Đông đảo nhân
dân ta ở miền nam ngày càng thấy rỗ không thể nào kéo dài cuộc sôngs dưới chế độ Mỹ -
Diệm được nữa, đã quyết tâm vùng lên đấu tranh một còn, một mất với chúng. Điều kiện
đã chín muồi để chuyển cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.


Bắt mạnh được tình hình đó, tháng 1 năm 1959, Ban chấp hành Trung ương đảng ta họp
Hội nghị lần thứ 15 (khoá II) dưới sự chủ toạ của chủ tịch Hồ Chí Minh, để xác định
đường lối cách mạng miền nam trong
_____________
1.Theo tài liệu tổng kết của quân khu 5, tính đến cuối năm 1957, lực lượng của đảng ở các
tỉnh đồng bằng khu 5 bị tổn thất nặng nề, 70% đảng uỷ viên xã , 60% huyện uỷ viên, 40%
tỉnh uỷ viên bị bắt và giết . Tỉnh có phong trào khá nhất, chỉ còn 10 chi bộ, mỗi chi bộ 3
đảng viên, tỉnh yếu còn 2,3 chi bộ, 12 huyện đồng đồng bằng mất hết cơ sở đảng.(Quân
khu 5: Thắng lợi và những bài học trong kháng chiến chống Mỹ, Nhà xuất bản Quân đội
nhân dân, Hà Nội, 1981, tr.30).
giai đoạn mới. Hội nghị vạch rõ: Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền nam là giải phóng
miền nam khỏi ách thống trị của đế quốc, phong kiến, thực hiện dân tộc độc lập, và người
cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền nam, xây dựng một
nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Nhiệm vụ trước mắt
là : đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai đế quốc Mỹ, thành lập một chính
phủ liện hợp dân tộc, dân chủ ở miền nam.
Muốn vậy, con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền nam là con
đường cách mạng bạo lực. Căn cứ vào tình hình cụ thể lúc này, ta chủ chương lấy sức
mạnh của quần chúng, dựa và lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với
lực lượng để đánh đổ ách thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách
mạng nhân dân. Hội nghị còn dự kiến: đế quốc Mỹ là nước đế quốc hiếu chiến nhất, cho
nên trong những điều kiện nào đó, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền nam cũng có khả
năng chuyển thành cuộc chiến tranh cách mạng lâu dài, nhưng thắng lợi cuối cùng nhất
định về ta.
5

Các đồng chí và đồng bào ở miền nam đã gọi Nghị quyết 15 là bố đuốc soi đường giữa
đêm đen tối.

Được nghị quyết chỉ đạo, ngọn lửa cách mạng âm ỉ suốt nhiều năm đã bùng lên thành cuộc

đồng khởi trên quy mô rộng, tạo nên một bước chuyển mới có tính chất nhảy vọt của cách
mạng miền nam. Từ cuối năm 1959 đến đầu năm 1960, đồng bào ta đã dùng bạo lực cách
mạng bất ngờ tiến công dồn dập và mãnh liệt vào khâu yếu nhất của địch là chính quyền cơ
sở ở nông thôn. Một số cuộc nổi dậy nổ ra ở vùng rừng núi miền trung Trung Bộ. Đặc biệt,
làn sóng nổi dậy đồng loạt nhanh chóng lan rộng và dâng cao ở các tỉnh Nam Bộ. Nhân
dân vùng lên diệt ác ôn, đánh đồn bốt, cướp súng địch, làm tan rã từng mảng nguỵ quyền
cùng bộ máy kìm kẹp ở thôn, xã, làm chủ được nhiều khu vực ở rừng núi và nông thôn
nằm sâu phía sau lưng địch. Đồng bào ở những nơi đó nô nức thành lập chính quyền cách
mạng, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang chống lại các cuộc phản kích của địch, tạo
nên một hình thức căn cứ địa, có nơi hình thành thế liên hoàn bao gồm các vùng giải phóng
và vùng du kích. Phong trào đấu tranh chính trị bền bỉ từ những năm trước được đấu tranh
phối hợp càng trở nên mạnh mẽ: năm 1960, có hơn 10 triệu lượt người và năm 1961 đã lên
tới 33 triệu lượt người tham gia các cuộc đấu tranh.

Trong cao trào cách mạng đồng bào miền nam, ngày 20 tháng 12 năm 1960, Mặt trận dân
tộc giải phóng miền nam ra đời, đánh dấu một thời kỳ mới - thời kỳ cách mạng miền nam
chuyển hẳn sáng thế tiến công mạnh mẽ, rộng khắc và liên tục. Phong trào đồng khởi, thực
chất là những cuộc khởi nghĩa từng phần của nhân dân để giành quyền làm chủ ở từng địa
phương thuộc vùng nông thôn miền núi và đồng bằng đã giáng cho Mỹ - Diệm một đòn
nặng, đẩy chúng vào một thời kỳ khủng hoảng nghiêm trọng và triền miên.

Đến đây, âm mưu của đế quốc Mỹ muốn nhanh chóng “bình định” miền nam bằng quốc
sách “tố cộng, diệt cộng” đã bị thất bại. Tuy nhiên, đế quốc Mỹ vẫn theo đuổi mục tiêu lâu
dài. Tháng 11 năm 1961, ở nước Mỹ, Giôn Ken-nơ-đi lên thay Đoai-tơ Ai-xen-hao làm
tổng thống đã tuyên bố: “...sẽ trả bất cứ giá nào, đương đầu với bất cứ khó khăn nào để giữ
bằng được miền nam Việt Nam”. Và ỷ vào sức mạnh quân sự của mình, đế quốc Mỹ đã
ngang nghiên tăng cường can thiệp vũ trang, lấy miền nam làm nơi thí đỉêm cho cái gọi là
“chiến tranh đặc biệt”, một bộ phận quan trọng của chiến lược “ phản ứng linh hoạt”, chiến
lược quân sự toàn cầu của Mỹ trong những năm 1960.


Có thể nói, cuộc chiến tranh xâm lược mà Mỹ đã phát động ở miền nam nước ta là cuộc
phản công lớn nhất của đế quốc chĩa vào các lực lượng cách mạng kể từ sau chiến tranh
thế giới thứ hai.

Vào thời điểm nói trên, so sánh lực lượng trên thế giới giữa cách mạng và phản cách mạng
đã không còn như đầu những năm 50 trở về trước, mà đã nghiên về phía ngày càng có lợi
cho các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Về mặt quân sự, Mỹ đã mất độc
quyền vũ khí hạt nhân, rồi mất luân cả ưu thế về tên lửa chiến lược mang đầu đạn hạt nhân.
Trước sự phát triển nhanh chóng của các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trên mọi
lĩnh vực, trước những thất bại liên tếp của Mỹ trong việc ngăn chặn phong trào giải phóng
dân tộc, đặc biệt là tại miền nam Việt Nam, giới cấm quyền Mỹ ngày càng nhận thấy họ
6
không thể đua con chủ bài vũ khí hạt nhân ra để răn đe, ngăng chặn, đẩy lùi và tiêu diệt đối
pưhơng được nữa. Vì nếu Mỹ định “ chặn đứng cộng sản tại chỗ”, chống lại các cuộc
chiến tranh cách mạng bằng cách “ trả đũa ồ ạt”, dùng vũ khí hạt nhân đánh thẳng vào
“nguồn gốc” của các cuộc chiến tranh ấy, nghĩa là đánh vào Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa khác, thì chắc chắn đó sẽ là hành động tự sát đối với Mỹ và chủ nghĩa đé quốc
trên thế giới.Cho nên, ngay từ đầu năm 1957, ngoại trưởng Mỹ Phô-xtơ Đa-lét đã phải xác
nhận rằng “trả đũa ồ ạt” là một chiến lược không hiện thực và thấy đế quốc Mỹ cùng các
nước đồng minh với Mỹ phải có những biện pháp cần thiết trong trường hợp xảy ra các
cuộc xung đột cục bộ1 , nhằm tránh cho Mỹ một cuộc chiến tranh hạt nhân tổng lực. và
vấn đề trước mắt đặt cho Ken-nơ-đi ngày khi lên làm tổng thống Mỹ là phải thay thế
đường lối “chặn đứng cộng sản tại chỗ”, với chính sách “trên miệng hố chiến tranh” và
chiến lược quân sự “trả đũa ồ ạt” của chính quyền Ai-xen-hao, bằng một chính sách và một
chiến lược quan sự mới.
_____________
1. Tức là các cuộc vũ trang can thiệp vào các nước đang đấu tranh giành quyền độc lập dân
tộc, hoặc có thể tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Về chính trị, tổng thống Mỹ Ken-nơ-đi đề ra cái gọi là “chiến lược hoà bình”, hay là “
chính sách diễn biến hoà bình”. Thực hiện chiến lược này, giới cầm quyền Mỹ một mặt tỏ

ra “hoà hoãn” với Liên Xô, đồng thời vẫn không ngững tăng cường bộ máy chiến tranh.
Mặt khác, lại ráo riết dùng các thủ đoạn chính trị, ngoại giao, kinh tế, gián điệp để chia rẽ,
phá hoại các nước xã hội chủ nghĩa, phá hoại mặt trận thế giới đoàn kết lực lượng xã hội
chủ nghĩa và lực lượng độc lập dân tộc.

Về quân sự , Ken-nơ-đi chấp nhận chiến lược “phản ứng linh hoạt” do tướng Mỹ Mắc-
xoen Tay-lơ đề xuất, được áp dụng thánh chính sách quốc phòng của nước Mỹ từ năm
1961. Cái tên “phản ứng linh hoạt” nói lên rằng Mỹ cần có khả năng phản ứng lại bất kỳ
một thách thức nào và Mỹ phải hành động “thành công” trong bất kỳ tình huống nào. Nếu
trong chiến lược “trả đũa ồ ạt”, vũ khí hạt nhân là thanh kiểm dùng vào những đòn công
kích huỷ diệt, còn lục quân Mỹ ở châu Âu và Viễn Đông chỉ là chiếc lá chắn, thì ngược lại,
trong chiến lược “phản ứng linh hoạt”, vũ khí hạt nhân đã trở thành chiếc lá chắn phòng
ngự, còn quân đội tiến hành chiến tranh hạn chế bằng vũ khí thông thường mới là thanh
kiểm linh hoạt dùng để thực hiện đòn tiến công hiệu lực.

Theo giới thân cận của tổng thống Ken-nơ-đi, “phản ứng linh hoạt” là chiến lược quân sự
thích hợp nhất đối với Mỹ hồi đó, dụng để đàn áp phong trào giải phóng dân tộc và áp đặt
chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở các nước trong thế giới thứ ba, nơi có những nguyên liệu
chiến lược “ hấp dân” và hết sức cần thiết đối với nền kinh tế Mỹ. Họ cho rằng, với “ chiến
lược hoà bình”, “ hoà hoãn” về chính trị, cộng với sức mạnh quân sự của mình, đế quốc
Mỹ có thể giành được thắng lợi trong bất cứ cuộc chiến tranh hạn chế nào, mà vẫn tránh
được một cuộc “chiến tranh hạt nhân tổng lực” với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
khác.
Cho nên, chấp nhận chiến lược “phản ứng linh hoạt” có nghĩa là ttổng thống Mỹ Ken-nơ-đi
đã khẳng định nhiệm vụ trung tâm cấp bách của Mỹ trong những năm 60 là ngăn chặn, đẩy
lùi và đánh phá phong trào giải phóng dân tộc trên thế giứoi, bằng chiến tranh hạn chế với
7
lực lượng thông thường, có cái lá chắn hạt nhân che chở. Và chính Ken-nơ-đi đã đem thử
nghiệm ở miền nam Việt Nam, một “điểm nóng” đối với Mỹ lúc bấy giờ. cái gọi là “ chiến
tranh đặc biệt” là loại hình chiến tranh được Mỹ xếp thứ ba trong chiến lược quân sự toàn

cầu “ phản ứng linh hoạt” sau loại hình “chiến tranh cục bộ” và “ chiến tranh hạt nhân thế
giới”.
Chính quyền Ken-nơ-đi coi “ chiến tranh đặc biệt” là một sáng tạo của Mỹ. Đố là loại hình
chiến tranh xâm lược bằng quân đội tay sai trong đó có Mỹ đóng vai trò ông chủ và “ cố
vấn”. Theo cách tính của những bộ óc thực dụng Mỹ, đố là cách tiến hành chiến tranh “rẻ”
nhất, tiết kiệm được tốt đa tiền của và máu thanh niên Mỹ.Quan trọng hơn nữa là che dấu
được bộ mặt xâm lược trước nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới. Nếu thử nghiệm thành
công ở miền nam Việt Nam, đế quốc Mỹ có thể từ đó rút ra những kinh nghiệm đàn áp
phong trào giải phóng dân tôc, đe doạ và ép buộc các nước mới giành được độc lập phải
chấp nhận chính sách thực dân mới của họ.

Để tiến hành “ chiến tranh đặc biệt” ở miền nam nước ta, đế quốc Mỹ đưa ra “ kế hoạch
Xt-lây-Tay-lo”1 với ba biện pháp chiến lược:

Một là, tăng cường quân nguỵ về số lượng, trang bị và tính cơ động, mở nhiều cuộc hành
quân, dùng nhiều máy bay lên thẳng và xe thiết giáp để nhanh chóng tiêu diệt các lực
lượng vũ trang cách mạng mới thành lập chưa được bao lâu.
__________
1.Ngày 19 tháng 6 năm 1961, Ken-nơ-đi cử một phá đoàn do tiến sữ Xta lây cầm đầu cùng
tướng Tay-lơ đến miền nam Việt Nam một tháng để nghiên cứu tại chỗ và soạn thảo kế
hoạch “bình định miền nam trong 18 tháng”. Kế hoạch này được Ken-nơ-đ chấp nhận, lấy
tên là “Kế hoạch Xta-lây-lay-lơ”.
Hai là, xây dựng nguỵ quyền mạnh và ngăn chặn đấu tranh chính trị ở thành thị, ra sức “
bình định” lập “ấp chiến lược” để dập tắt phòng trào cách mạng ở nông thôn.
Ba là, ra sức ngăn chặn biên giới, kiểm soát ven biển cắt đứt nguồn chi viện từ miền bắc
vào để cô lập cách mạng miền nam.
Chấp nhận “kế hoạch Xta-lây- Tay-lo”, tổng thống Mỹ Ken-nơ-đi hy vọng rằng: tới cuối
năm 1962, lực lượng của chế độ tay sai được tăng cường vượt bậc chắc chắn sẽ giành lại
thế chủ động và tiêuu diệt được các lực lượng chính trị và vũ trang cách mạng. Trong khi
đó đồng bào ta ở nông thông miền nam bị tập trung vào các “ấp chiến lược”, bị kiểm soát

chặt chẽ, và mối quan hệ giữa cách mạng với nhân dân sẽ bị cắt đứt. Như thế là miền Nam
Việt nam sẽ được củng cố trong vòng 18 tháng, như các tác giả của bản kế hoạch đã xác
định.
Thế nhưng, sau 18 tháng, dù đã bỏ ra không ít tiền bạc và công sức, đế quốc Mỹ vẫn
không đạt được mục tiêu cơ bản trong kế hoạch. Ngược lại, phong trào cách mạng miền
nam đã phát triển lên một bước mới. Chiến tranh đặc biệt của Mỹ không ngăn nổ làn sóng
cách mạng miền nam, không bịt nổi con đe đã vỡ. Cuộc Đồng khởi vĩ đại của đồng bào
miền nam phát triển thành chiến tranh cách mạng. Quân và dân ta đẩy mạnh chiến tranh
chính trị, đồng tời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên sông sông với đấu tranh chính trị, tiến
công đẩy mạnh mẽ bằng cả hai mặt chính trị và quân sự với phạm vi ngày càng rộng lớn
trên cả ba vùng chiến lược. Chiến tranh nhân dân miền nam đã đánh thắng kế hoạch chiến
8
lược Xta-lây-Tay-lơ của Mỹ - Diệm.
Đầu tháng 11 năm 1963, Ngô Đình Diệm bị lật đổ và giết chết. Cuối tháng 12 năm 1963,
tổng thống Mỹ Ken-nơ-đi bị ám sát. Ỷ vào sức mạnh quân sự và kinh tế, đế quốc Mỹ vẫn
tỏ ra rất hung hăng. Nhưng dưới con mắt người Mỹ, giới cầm quyền ở Nhà trắng vẫn ngày
càng lún sâu vào “ con đường hầm không lối tháo” ở miền nam Việt Nam.
Nhân cơ hội Diệm bị đổ, địch thêm rối ren, lúng túng, Bộ chính trị Trung ương Đảng chỉ
thị phải có những cố gắng mới “đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh chống bình định”. Cao
trào cách mạng ở miền nam tiếp tục dâng lên. Phong trào đánh phá “ấp chiến lược” càng
thêm quyết liệt, sự vùng dậy của đồng bào ven biển khu 5, phá vỡ từng mảng lớn “ấp chiến
lược”, mở rộng them vùng giải phóng, tạo thế và lực phát triển chiến tranh cách mạng lên
một bước mới. Nhìn chung toàn miền Nam, đến cuối năm 1964, “quốc sách ấp chiến lược”
của Mỹ - nguỵ đã thất bại về cơ bản. Ở thành thị, các tầng lớp nhân dân đứng lên đấu tranh
quyết liệt với những hình thức rất phong phú, tiêu biểu là Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế... Ở Sài
Gòn, ngày 28 tháng 1 năm 1964, 20 vạn người bao vây dinh Độc lập đòi Nguyễn Khánh từ
chức, đòi Mỹ cút khỏi miền nam Việt Nam. Ngày 21 tháng 9 năm 1964, hơn 10 vạn công
nhân bãi công, biểu tình tuần hành phản đối chế độ độc tài quân sự Mỹ - Khánh... Ở Đà
Nẵng, ngày 21 tháng 8 năm 1964, ba vạn người bãi chợ, bãi khóa, tuần hành phản đối nguỵ
quyền Nguyễn Khánh, đến ngày 25 tháng 8 năm 1964, nhân dân thành phố đã chiếm toà thị

chính, làm rối loạn thành phố liền chín ngày. Ở Huế, sinh viên, học sinh cũng rầm rộ
xuống đường biểu tình
Hậu phương địch bị xáo động, lung lay. Nội bộ chúng mâu thuẫn với nhau gay gắt. Đế
quốc mỹ buộc phải liên tiếp thay ngựa giữa dòng. từ lúc Ngô Đình Diệm chết vào đầu
tháng 11 năm 1963 đến tháng 6 năm 1965, đã diễn ra 14 lần đảo chính và phản đảo chính
giữa bọn tay sai Mỹ cấu xé nhau. Tinh thần nguỵ quân, nguỵ quyền rệu rã. Theo hãng tin
Mỹ UPI, riêng tong 2 năm 1963-1964 đac có tới 16 vạn quân nguỵ đào ngũ, riêng 6 tháng
đầu năm 1965, thêm 87 ngàn tên nữa bỏ hàng ngũ.
Trong lúc đó, lực lượng vũ trang miền nam ta lớn mạnh vượt bậc, đã đánh những trận quy
mô nhiều tiểu đồan, trung đoàn, đẩy mạnh tiến công liên tục, vừa đánh bại những cuộc
hành quân càn quét của địch với hiệu suất ngày càng cao, vừa xây dựng, phát triển mạnh
mẽ lực lượng, nhất là bộ đội chủ lực.
Trên chiến trường, sau Ấp Bắc (Cai Lậy-Mỹ Tho), ngày 2 tháng 1 năm 1963) đánh dấu sự
phá sản của chiến thuật “ trực thăng vận”, “ thiết xa vận”, đã có những trận đánh tốt tiếp
theo như chiến thanứg An lão ở bắc Bình Định1 . Đáng chú ý là chiến dịch Bình Giã ở Bà
Rịa (từ ngày 5 tháng 12 năm 1964 đến ngày 8 tháng 1 năm 1965) liên tục đánh địch, tiến
tới bao vây thị xã bà Rịa, giúp quần chúng nổ dậy, giành thắng lợi lớn2.
Thắng lợi của chiến dịch Bình Giã nói lên sự thay ssổi cục diện có ý nghĩa chiến lược trên
chiến trường, đánh dấu sự trưởng thành về tác chiến tập trung của quân chủ lực ta ở miền
nam trong những chiến dịch tiến công quy mô nhỏ và vừa. Sau thất bại ở Ấp Bắc, địch
thấy khó thắng ta, đến sau trận Bìng Giã, Mỹ thấy là nguỵ sẽ thua. Tài liệu mật Bộ quốc
phòng Mỹ xác nhận “ Nỗi thất vọng của Oa-sinh-tơn đối với tình hình quân sự ngày càng
tăng lên khi quân đội Sài Gòn bị một cú thất bại trông thấy trong trận ác liệt Bình Giã ở
9
đông-nam Sài Gòn”.
_____________
1. Tiêu diệt gần 700 tên địch, thu 300 súng các loại, phá 18 ấp chiến lược, giải phóng quận
lỵ An Lão và vùng chung quanh với 15.000 dân.
2. Quân ta đã tiêu diệt 1.731 tên địch, bắt 300 tên (có 3 Mỹ), diệt và tiêu hao nặng 4 tiểu
đoàn bộ binh, 2 chi đoàn thiết giáp, 12 đại hội bảo an, bắn rơi 35 máy bay, phá hỏng 29 xe

tăng, xe bọc thép... Địch phải bỏ 3 quận lỵ.
Miền nam thắng lớn, miền bắc cũng phối hợp giáng trả không quân và hải quân Mỹ những
đòn đích đáng,. Ngày 5 tháng 8 năm 1964, 8 máy bay Mỹ bị hạ và tên lái máy bay Mỹ đầu
tiên bước vào trại giam. Bốn tháng đầu năm 1965, hơn 440 máy bay Mỹ bị hạ, trong đó có
12 chiếc bị hạ bằng súng trường của dân quân tự vệ.
Cuộc chiến tranh của nhân dân ta chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân
của đế quốc Mỹ được đẩy mạnh, miền Bắc tiếp tục những bước tiến lên. Con đường vận
tải chiến lược Trường Sơn vẫn được mở rộng và kéo dài vào khu 5 và Tây Nguyên. ý chí
và quyết tâm chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền nam của nhân dân ta chẳng những
không hề bị giảm sút mà càng được củng cố vững chắc.
Ở Lào, đế quốc Mỹ và tay sai phá hội nghị ba phái (ngày 17 tháng 4 năm 1964), dùng bọn
Cu Pra-xít và Xi-hổ làm đảo chính ở Viêng Chăn, buộc chính phủ Phu-ma giao quyền cho
phái hữu. Chúng mở nhiều cuộc hành quân lấn chiếm đường số 9, đường số 12, Cánh
Đồng Chum, đặc biệt chúng sử dụng không quân Mỹ ném bom vùng giải phóng Lào.
Nhưng chúng đã bị lực lượng vũ trang cách mạng Lào và quân tình nguyện Việt Nam đánh
bại, phải chạy khỏi Cánh Đồng Chum, Tha Thơm.
Tháng 3 năm 1965, sau khi cho tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ đầu tiên đổ bộ lên Đà
Nẵng, chính phủ tiếp tục gửi nhiều tiểu đoàn chiến đấu khác vào trực tiếp tham chiến ở
miền nam Việt Nam, đồng thời đẩy mạnh cuộc chiến tranh không quân đánh phá miền bắc
và dọc đường hành lang chiến lược Trường Sơn của ta hòng ngăn sự chi viện của hậu
phương lớn đối với tiền tuyến lớn.
Trên chiến trường miền nam, quân và dân ta tiếp tcj mớ cuộc tiến công mùa hè thanứg lợi
giòn giã. Ở ba Gia (Quảng Ngãi) một trung đoàn tăng cường của ta tiêu diệt gọn một chiến
đoàn quân nguỵ (gồm 3 tiểu đoàn) sau 14 giờ liên tục chiến đấu. Đấy là một trận đánh tiêu
diệt, đạt hiệu suất cao, đánh dấu một bước tiến mới về trình độ đánh tiêu diệt của chủ lực
ta đối với chủ lực quân đội nguỵ ở chiến trường đồng bằng khu 5. Ở miền đông Nam Bộ,
bộ đội chủ lực miền mở chiến dịch tiến công Đồng Xoài thắng lớn1 . Chiến thắng Đồng
Xoài của quân và dân miền đông Nam Bộ có ý nghĩa chiến thuật, chiến dịch và chính trị to
lớn, đẩy địch vào thế bị động hơn nữa, tạo điều kiện cho quân và dân ta phát triển thế chủ
động tiến công, đua cuộc chiến tranh cách mạng miền nam lên một quy mô lớn hơn.

“ Quốc sách ấp chiến lược” của Mỹ - nguỵ đã bị phá sản. Chính quyền nguỵ suy yếu. Quân
đội nguỵ đang bị tiêu diệt từng tiểu đoàn, chiến đoàn, trung đoàn, kể cả lực lượng tổng dự
bị, đã đứng trước sự sụp đổ không thể tránh khỏi.
Cuộc “ chiến tranh đặc biệt” của Mỹ ở miền nam Việt Nam được đẩy đến mức cao nhất bị
10
thất bại.
Trong bối cảnh trên, đế quốc Mỹ bị động leo thang, thi hành chiến lược “chiến tranh cụ
bộ”.
Nhà trắng đắn đo trên nhiều mặt, rốt cuộc , phải đi đến một quyết định mạng nhiều hậu
quả.
Họ cũng tính toán rằng quân nguỵ tay sai vẫn tồn tại, chương trình bình định bị đình đốn,
nhưng chính quyền vẫn còn kiểm soát được nhiều khu vực đông dân và các thành phố, thị
trấn, còn khống chế được các đường giao thông chiến lược..... các nước đồng minh và chư
hầu của Mỹ như Nhật Bản, Thái Lan, Nam Triều Tiên... bị mỹ thao túng, tiếp tục ủng hộ
chính sách xâm lược của Mỹ. Những phản ứng của các nước xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ
được Mỹ đánh giá là có “mức độ”, chưa có gì đáng lo ngại đối với chiến lược của Mỹ ở
Việt Nam. Vả lại, Mỹ cho rằng có thể lợi dụng sự bất hoà trong hệ thống xã hội chủ nghĩa,
không sợ gây ra xung đột quốc tế mở rộng.
___________
1. Chiến dịch diễn ra từ ngày 11 tháng 5 đến ngày 22 tháng 7 năm 1965, tiêu diệt hơn
4.000 tên địch, gồm 4 tiểu đoàn, 24 đại đội, 6 chi đội xe bọc thép, 4 phân đội công binh,
pháo binh, bắn rơi 34 máy bay, thu hơn 1.000 súng các loại.
Đế quốc Mỹ chắc mẩm một cường quốc quân sự được xếp hàng đầu trên thế giới, có trong
tay một đội quân chiến đấu to lớn và hiện đại, sẽ có khả năng xoay chuyển tình thế.
Lý thuyết về “chiến tranh cục bộ” của Mỹ xác định rằng khi các “hoạt đổng lật đổ” ở nước
đối phương phát triển đến mức độ cao và “ lực lượng lật đổ” đã có những đơn vị chủ lực
mạnh thì phải dùng đến sức mạnh quân sự của Mỹ (dùng quân chiến đấu Mỹ trực tiếp xâm
lược) ở mức độ hạn chế. Họ cho rằng, như thế là có thể đè bẹp và tiêu diệt được khối chủ
lực của cách mạng trong thời gian ngắn nhất. tiến hành chiến tranh cục bộ, rõ rằng đế quốc
Mỹ hy vọng xuất con bài quân viễn chinh Mỹ sẽ ngăn chặn được thế thua, từng bước phản

công giành lại quyền chủ động, sẽ mau chóng chuyển bại thành thắng. Như vậy, đưa quân
viễn chinh vào tham chiến trên quy mô lớn, tính toán của Mỹ không chỉ giới hạn ở việc gỡ
thế thua, cứu nguy sự sụp đổ của nguỵ quân, nguỵ quyền mà chủ yếu là giành thắng lợi
quyết định về chiến lược, nhanh chóng đảo lộn thế cờ.
Chính quyền Mỹ đánh giá rất cao chiến lược trực tiếp dùng quân viễn chinh, đội quân đã
từng làm xoay chuyển tình hình ở Triều Tiên (năm 1950) và ở Đô-mi-ni-ca (năm 1965).
Họ đánh giá cao chiến lược “chiến tranh cục bộ”, chiến lược then chốt và quan trọng nhất
trong chiến lược quân sự toàn cầu “ phản ứng linh hoạt”. Các nhà chiến lược Mỹ tin chắc
rằng giáng một đòn mạnh bằng quân chiến đấu mỹ ở miền nam và không lực Mỹ ở miền
Bắc, sẽ có thể đè bẹp cuộc chiến tranh của dân tộc Việt Nam, kết thúc chiến tranh và rút
quân Mỹ về nước.
Mục tiêu bao trùm của chiến lược “chiến tranh cục bộ” vì vậy là triển khai lực lượng lớn từ
Mỹ sang, dùng “phản công” tiêu diệt bộ đội chủ lực ta ở miền nam, kết hợp đẩy mạnh
chiến tranh phá hoại chủ yếu bằng không quân ở miền bắc, buộc nhân dân ta phải thương
lượng theo điều kiện của Mỹ. Tổng thống mỹ Giôn-xơn cho rằng “đánh bại hành động
xâm lược, xây dựng một quốc gia và tìm kiếm hoà bình” là ba mục tiêu liên kết chặt chẽ
với nhau mà Mỹ phải quyết tâm hoàn thành.
11
Để thực hiện mục tiêu trên, Mỹ đề ra kế hoạch 3 giai đoạn dự định giành thắng lợi trong
vòng hai năm rưỡi:
- Giai đoạn 1: phá kế hoạch mùa mưa của ta “chặn chiều hướng thua”, bảo đảm triển khai
nhanh lực lượng quân viễn chinh Mỹ.
-Giai đoạn 2:mở phản công chiến lược diệt chủ lực ta và kiểm soát nông thôn.
- Giai đoạn 3: hoàn thành việc tiêu diệt khối chủ lực của ta, phá căn cứ, tiếp tục bình định
miền nam, rút quân Mỹ vào cuối năm 1967.
Kế hoạch 3 giai đoạn nói trên khá rõ tham vọng của Mỹ tập trung lực lượng diệt bộ đội chủ
lực ta, bình định nông thôn, diệt cơ sở chính trị ta, leo tháng ném bom miền bắc, ngăn chặn
mọi nguồn chi viện, cô lập miền nam. Từ đó “chặn chiều hướng thua”, dồn đối phương
vào thế phòng ngự bị động, xoay chuyển cục diện chiến tranh, giành thắng lợi cho chiến
tranh trong thời gian ngắn bằng lực lượng Mỹ.

Với mục tiêu, kế hoạch, biện pháp trên, chiến lược “ chiến tranh cục bộ” có một số đặc
điểm khác với chiến lược “ chiến tranh đặc biệt”.
Đặc biệt chủ yếu là đế quốc Mỹ không phải chỉ lấy lực lượng vũ trang phản động tay sai
làm công cụ để thống trị nhân dân và tiến hành chiến tranh, mà các tung đội quân viễn
chinh Mỹ vào trực tiếp tác chiến chống lực lượng vũ trang và nhân dân Việt Nam. quân
viễn chinh Mỹ được huy động với quy mô lớn trong thời gian ngắn, kèm theo là một khối
lượng khổng lồ binh khí kỹ thuật, vật tư, bom đạn1 .
_____________
1. Tháng 11 năm1965, Mỹ đã có ở Việt Nam 184.000 quân và dự tính sẽ tăng lên 395.000
quân
Mỹ đã tung vào miền nam hầu hết các sư đoàn tinh nhuệ nổi tiếng, sử dụng cả lực lượng
không quân chiến lược, mở rộng chiến tranh banừg không quân ra miền bắc Việt Nam,
Lào, Cam-pu-chia.... .Những nỗ lực chiến tranh cao nhất mà đế quốc Mỹ huy động cho
một cuộc chiên stranh cục bộ đã được sử dụng tập trung trong chiến tranh xâm lược Việt
Nam.

Một điểm nữa là quân viễn chinh Mỹ tuy là con chủ bài, là lực lượng nòng cốt, nhưng
quân đội nguỵ vẫn được tận dụng như một lực lượng hỗ trợ quan trọng. Quân Mỹ là lực
lượng cơ động chủ yếu để “tìm diệt” bộ đội chủ lực ta, quân nguỵ là lực lượng chiếm
đóng để “bình định” kìm kẹp nhân dân – quân nguỵ dựa vào quân để tồn tại. Quân viễn
chinh Mỹ và quân nguỵ đều có vai trò chiến lược. Trên cơ sở sử dụng cả quân Mỹ và quân
nguỵ, có ưu thế lực lượng, chúng tính toán mỗi tỉnh ở miền nam Việt Nam sẽ có một, hai
vạn quân nguỵ tràn về các xã ấp, tiêu diệt cơ sở chính trị, đẩy chủ lực ta lên các vùng hẻo
lánh. Chúng cũng tính toán, với sức mạnh của không lực hiện đại Mỹ cùng với khối lượng
bom đạn rất lớn, hai miền nam bắc bị diệt phá, bị chia cắt, chủ lực ta sẽ bị đẩy vào thế
khốn quẫn. Từ đó những đơn vị tinh nhuệ Mỹ sẽ giáng những đòn quyết định “bẻ gãy
xương sống”, đánh tan khối chủ lực ta, hoặc nếu còn cũng chỉ là những đơn vị phân tán
hoạt động lẻ tẻ, khó làm thay đổi cục diện chiến tranh.
Mục tiêu quân sự của cuộc chién tranh cục bộ là nhằm tiêu diệt lực lượng vũ trang đối
phương, nhất là quân chủ lực tập trung. tư tưởng chiến lược là tấn công “tìm diệt”, phẩn

công nhanh, giành thanứg lợi trong thời gian ngắn.

12
Tuy nhiên, một đặc điểm đáng chú ý là do bối cảnh chung mà mục đích cuối cùng của cuộc
chiến tranh xâm lược vẫn là củng cố cho được chính quyền và quân đội tay sai làm công
cụ cho sự thống trị, nô dịch của chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ. Đó là một cuộc
chiến tranh thật sự của Mỹ nhưng lại có sự hạn chế về số lượng quân Mỹ, hạn chế về mục
tiêu chiến lược, hạn chế về quy mô và phạm vi chiến tranh.

Kể từ nhiều năm trước đó, lý luận chiến lược Mỹ đánh giá cao tác dụng của “chiến tranh
hạn chế” (limited war).Mỹ cho rằng chiến tranh hạn chế giải quyết được những nhiệm vụ
chính trị bộ phanạ và vì thế ít có khả năng lôi kéo các nước khác, nhất là các nước lớn
trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, tham gia.Nhờ vậy, nước Mỹ có thể tạo được cái mà họ
gọi là ưu thế trong từng cuộc chiến tranh đó để giành thắng lợi về quân sự một cách nhanh
chóng và đạt được mục tiêu chính trị bộ phận, thực hiện những đòn phản công có hiệu lực
từng mới một trước thế tiến công chúng của cách mạng thế giới. đặc biệt Mỹ có thể đảy
lùi được phong trào giải phóng dân tộc, trước hết ở những nơi họ cho là “nguy hại nhất”
đối với sự sống còn của chính sách thực dân mới của Mỹ. Từ đó có thể dần dần cải biến
được một cách có ý nghĩa cán cân chiến lược đang phát triển theo chiều hướng ngày càng
không lợi cho Mỹ.

Trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ sự dụng một bộ phận lực lượng quân
sự nhất định của lục quân, không quân, hải quân để không trở ngại đến chiến lược toàn
cầu, không gây nên khó khăn nhiều đến tình hhình bản thân nước Mỹ, không phải động
viên lớn hoặc làm ảnh hưởng quyết định đến chương trình kinh tế, xã hội của Mỹ, mà vẫn
đúng sức giành thắng lợi.Vì hạn chế lực lượng quân Mỹ, cho nên đế quốc Mỹ rất chú trọng
củng cố quân đội tay sai. Họ cho rằng với lực lượng quân Mỹ làm nòng cốt cùng với quân
nguỵ được trang bị hiện đại, lại tiến hành chiến tranh xâm lược ở một nước kinh tế chậm
phát triển, thì sẽ có ưu thế về binh lực, hoả lực, sức cơ động để áp đảo đối phương, và
chúng sẽ thắng trong thời gian ngắn.

Hạn chế về mục tiêu chiến lược cũng tức là hạn chế mục tiêu chính trị của cuộc chiến
tranh. về quân sự thì tập trung vào việc nhanh chóng tiêu diệt lực lượng quân sự đối
phương, nhất là tiêu diệt quân chủ lực. Làm như vậy để không bị phân tán lực lượng vào
nhiều mục tiêu, và có thể nhanh chóng dứt điểm. Các nhà vạch chiến lược của Nhà trắng
và lầu năm góc cho rằng “ xương sống” của đối phương là lực lượng vũ trang mà nòng cốt
là bộ đội chủ lực, nếu “đánh ngục” được thì sẽ giải quyết xong chiến tranh, giữ miền nam
trong khuôn khổ chế độ thực dân kiểu mới.
Hạn chế phạm vị chiến tranh là chỉ tiến hành chiến tranh ở một nước hoặc một khu vực
nhất định, không để chiến tranh lan rộng ra nhiều nước khác và nhiều vùng khác. Lý thuyết
chiến tranh hạn chế của Mỹ cho rằng nếu không hạn chế được phạm vi chiến tranh thì sẽ
kéo các nước lớn tham gia. Do đó, Mỹ sẽ có thể bị động, có thể thua vì nước Mỹ chưa
chuẩn bị xong cho một cuộc chiến tranh thế giới mới, và so sánh lực lượng cũng đang bất
lợi cho Mỹ.

Nói chung, chiến tranh cục bộ với nỗ lực quân sự cao nhất mà Mỹ có thể và cần phải chủ
động vẫn là một loại “ chiến tranh hạn chế” trong chiến lược toàn cầu “phản ứng linh
hoạt”. Quy mô của chiến tranh tuy lớn, nhưng vẫn mang tính chất “ chống nổi dậy”
(counter insurgency) nhằm thực hiện mục tiêu chính trị là áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở
miền nam nước ta. Nội dung của cuộc chiến tranh bao gồm ba bộ phận: tiêu diệt bộ đội chủ
13
lực ta, “bình định nông thôn”, nhằm phá hết cơ sở hạ tầng của cách mạng và phá hoại
miền bắc chủ yếu banừg không quân nhằm đánhvào cái gọi là nguồn gốc của sự nổi dậy.
Đồng thời, tiến hành thương lượng hoà bình để buộc ta chấp nhận những điều kiện phái
Mỹ đưa ra.
Chiến lược của Mỹ cho thấy một mặt họ rất liên quyết đạt mục tiêu chính trị bằng biện
pháp quân sự, dùng quân viễn chinh Mỹ để giành một thắng lợi quân sự; mặt khác, vẫn
phải che dấu bộ mặt xâm lược bằng chiêu bài “ chống cộng”, “bảo vệ tự do”. Nhiều nhà
chiến lược Mỹ cũng đã nhận thức thấy cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam là một cuộc
chiến tranh quân sự và chính trị, và mục tiêu cuối cùng phải là giành được dân, ổn định
được hệ thống chính quyền và quân đội tay sai, giữ được miền nam trong quỹ đạo của chủ

nghĩa thực dân mới.

Đế quốc Mỹ đã tính toán mọi điều nhưng có mặt điều cơ bản lại chưa tính đến đầy đủ, đó
là đối phương của họ. Họ đã không lường hết hậu quả khi lao vào một cuộc chiến tranh
trên bộ trong thế thua, thế bị dộng để chống lại cả một dân tộc có truyền thống yêu nước,
bất khuất, đã từng chiến đấu và chiến thắng oanh liệt dưới ngọn cờ của đảng Mác-Lênin
dầy dạn, kiên cường và sáng tạo.

Với quyết định tháng 7 của tổng thống Mỹ Giôn-xơn, cuộc chiến tranh xâm lược của đế
quốc Mỹ trở thành một cuộc “chiến tranh cục bộ” quy mô ngày càng lớn. Giới cầm quyền
Mỹ đua cuộc chién tranh xâm lược thực dân mới lên đỉnh cao của nó. Đây mới là cuộc
chiến tranh thực sự của Mỹ, do quân đội Mỹ trực tiếp tiếp tham chiên và giữ vai trò nòng
cốt chủ yếu, đồng thời, nó trở thành một cuộc chiến tranh hao người tốn của và mất lòng
người nhất trong lịch sử nước Mỹ. Kẻ thù sử dụng sức mạnh quân sự đến mức cao nhất mà
chúng có thể huy động được, ôm ấp tham vọng lớn nhưng trong một tình thế bị động về
chiến lược sau bước phá sản của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”.
Với việc thay đổi chiến lược chiến tranh của Mỹ cách mạng Việt Nam trước một tình thế
hiểm nghèo. Lần này, cuộc đụng đầu diễn ra với nước có tièm lực kinh tế và quân sự mạnh
nhất phe đế quốc, có một quân đội trang bị rất hiện đại vốn vẫn khoe khoang chưa từng
nếm mùi thất bại.

Nhân dân ta sẽ đối phó vớ sự thách thức ấy như thê nào đây? Không nghi ngờ gì nữa, vận
mệnh của dân tộc., chiều hướng phát triển của sự nghiệp cách mạng thế giới, phụ thuộc
vào câu trả lời và cách thức chúng ta xử lý tình huống đột biến này.
Chương hai
Quyết tâm thắng Mỹ - chiến lược tiến công
Khi đế quốc Mỹ đưa quân viễn chinh vào ồ ạt tham chiến ở miền nam Việt nam, trong
nước ta và ngoài nước đã có nhữn ý kiến khác nhau. Bạn bè lo lắng cho đất nước ta sẽ bị
sức mạnh của Mỹ đe bẹp, có người còn sợ chiến tranh mở rộng, không muốn ta đánh, ngại
bị lôi kéo vào lò lửa nguy hiểm. Hồ bấy giờ, cũng có người lại nghĩ rằng tiếp nhận sự giao

chiến với quân Mỹ là chúng ta “cưỡi lên lưng hổ”. Trong một số cán bộ cũng có những băn
khoăn, thắc mắc liệu chúng ta có đứng vững nổi hay không, có đương đầu nôi hay không,
đừng nói đến có thể đánh thanứg được lục quân Mỹ và chiến lược “chiến tranh cục bộ”.

14
Nhưng Trung ương Đảng ta đã hạ quyết tâm động viên cả nước kiên quyết đánh thắng
cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc mỹ trong bất kỳ tình huống nào.

Quyết tâm chiến lược của ta được xác định, không phải chỉ theo khí thế cách mạng chung,
mà dựa trên cơ sở thực tiễn và khoa học.

Qua hội nghị lần thứ 9, lần thứ 11, và lần thứ 12 diễn ra suốt mấy năm 1963-1965, Trung
ương đã đi sâu vào phân tích, đánh giá tình thế chung và so sánh lực lượng giữa ta và địch
lúc bấy giowf. Quá trình xem xét đánh giá chiến lược của Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm
lược nước ta cũng đã tính đến khả năng quân chiến đấu Mỹ trực tiếp tham chiến và những
hậu quả có thể có của tình huống này. Trong một phiên họp của Bộ chính trị sau ngày5-8-
1964, Bác Hồ đã nhắc phải đề phòng địch có hành động điên cuồng, khi cần thiết phải
đánh lâu dài 10 năm đến 20 năm và phải có kế hoạch phòng khi đột biến. Tháng 2 năm
1965, bác lại dạy rằng phải đặt vấn đề Mỹ nhất định nhảy vào để tính toán, không sợ
nhưng không khinh địch. Trong bất kỳ tình huống nào cũng phải bồi dưỡng sức dân để
giành thắng lợi.

Giờ đây, khi khả bnăng đó trở thành hiện thực, thì vấn đề quan trọng và bức thiết đặt ra
cho toàn đảng và toàn dân ta là phải phân tích toàn diện những vấn đề mới nảy sinh do việc
Mỹ đưa hàng chục vạn quân viễn chinh vào trực tiếp xâm lược miền nam, dùng không
quân và hải quân để đánh phá miền bắc. Cần đánh giá đúng lực lưọng và khả năng của địch
cũng như của nhân dân ta ở cả hai miền, đặt so sánh thế và lực hai bên trong bối cảnh thời
đại. Trên cơ sở đó mà xác định quyết tâm chiến lược.

Trong lĩnh vực quân sự, lực là cơ sở của thế, thế là phản ánh của lực – bao giờ cũng là thế

của một lực nhất định. Thế nói lên trạng thái, khả năng và xu thế vận động của lực trong
thực tiễn. Thế phản ánh hết quả sự thi đua về nỗ lực chủ quan của hai bên trong việc chỉ
đạo và sử dụng, điều động mọi lực lượng hình thành thế lợi về mình, hẫm đối phương vào
thế bất lợi. Thế lợi thì lực ít thành nhiều, kém hoá hon, yếu thành mạnh. cho nên, khi so
sánh lực lượng giữa nhân dan ta với đế quốc Mỹ không phải chỉ thấy lực mà còn phải thấy
cả thế. Phân tích về thế chiến lược lúc đầu chiến tranh rất quan trọng và trong quá trình lại
càng quan trọng.

Mỹ là nước đế quốc có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh nhất thế giới tư bản. dựa vào
quân lực Hoa Kỳ với con chủ bài lục quana và hải quân tham chiến trên quy mô lớn, Mỹ
hy vọng có thể tạo ra những sức mạnh mới cho toàn bộ cuộc chiến tranh như: lực lượng cơ
động chiến lược được tăng thêm, các căn cứ quân sự của Mỹ xây dựng ở một vị trí chiến
lược quan trọng và lực lượng không quân được tăng gấp bội. Với lực lượng vật chất to lớn,
họ cho rằng có thể cứu vãn tình thế, làm chuyển biễn cục diện, không ngừng ngăn cản
được sự sụp đổ của chế độ nguỵ, mà lại còn có thể tiêu hao và tiêu diệt lực lượng của ta,
nhất là lực lượng vũ trang tập trung. Do đó mà tạo nên những điều kiện thuận lợi để từng
bước ổn định tình hình quân sự và chính trị, thực hiện thành công chính sách thực dân mới
của Mỹ ở miền nam.
Tuy nhiên, đã rõ ràng là tình hình chung trên thế giới cũng như tình hình riêng của nước
Mỹ không cho phép Mỹ sử dụng được hết sức mạnh về kinh tế và quân sự của mình trong
cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Họ không thể tăng quân vào miền nam với số lượng
15
bất kỳ nào mà không tính đến những khó khăn và hậu quả về mọi mặt trên chiến trường,
trên thế giới, cũng như về chính trị do một cuộc chiến tranh xâm lược lớn kéo dài ở xa
nước nước Mỹ gây ra , không thể không ảnh hưởng đến chủ trương và hành động đẩy
mạnh chiến tranh xâm lược ở miền nam nước ta.
Đối với miền bắc nước ta: vì nhiều nguyên nhân sâu xa từ mối quan hệ quốc tế phức tạp và
tế nhị giữa Mỹ và các nướ lớn trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, Mỹ phải tự hạn chế trong
cuộc chiến tranh phá hoại chủ yếu bằng không quân và hải quân, chưa dám mạo hiểm mở
rộng chiến tranh bằng lục quân. Tuy vậy, ngay từ đầu ta vẫn cảnh giác tính toán và chuẩn

bị đề phòng. Có thể vì họ ngại phải đương đầu với cả hệ thống các nướ xã hội chủ nghĩa,
sợ sẽ bị cô lập hơn và thất bại lớn hơn. Cho nên sức mạnh mà Mỹ có thể sự dụng trong
cuộc chiến tranh ở Việt Nam vẫn là sức mạnh có giới hạn. Còn chỗ yếu lại là những mặt cơ
bản không thể nào khắc phục được.
Chỗ yếu cơ bản nhất của đối phương vẫn là về chính trị. Quân đội viễn chính Mỹ càng
được tăng cường trên quy mô lớn để trực tiếp tham gia chiến tranh thì bộ mặt xâm lược
của đế quốc Mỹ và bộ mặt bán nước của quân đội và chính quyền tay sai càng bị bóc trần.
Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai càng gay gắt
hơn. Nhân dân ta càng đoàn kết chặt chẽ, kiên quết chiến đấu để tập trung sức đánh bại đế
quốc Mỹ và bọn bù nhìn, giải phóng miền nam, bảo vệ miền bắc. Mâu thuẫn giữa quân đội
Mỹ và quân nguỵ cũng ngày càng trở nên sâu sắc, hàng ngũ của chúng thêm lủng củng.
Do tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh xâm lược, không phải vì mục đích bảo vệ thế
giới tự do như giới cầm quyền Mỹ tuyên bố khi động viên quân sĩ từ nước Mỹ sáng đánh
nhau ở Việt Nam, quân đội viễn chính Mỹ chiến đấu không có lý tưởng rõ ràng, chính
đáng để sẵn sàng hy sinh,thì tinh thần chiến đâu của họ ắt sẽ không cao. Dù có trang bị
hiện đại đến đâu, và dù lực lượng có tăng cường cao đến bao nhiêu đi nữa, chúng không
thể đương đầu nổi với sức mạnh đoàn kết chiến đấu của quân và dân cả nước ta. Chúng
khó lòng đối phó với chiến lược, chiến thuật của chiến tranh nhân dân của ta. Chúng còn
gặp nhiều khó khăn vì không hiểu được truyền thống, văn hoá của người Việt Nam, không
thuộc địa hình, không quen khí hậu.
Trên chiến trường miền Nam nước ta, quân đội hiện đại của đế quốc Mỹ sẽ buộc phải
chiến đấu trong điều kiện không thuận lợi cho chúng. Hơn nữa, đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân
vào miền nam vào thời điểm chiến lược “ chiến tranh đặc biệt” đã bị phá sản, chiến tranh
nhân dân của ta đã triển khai đang phát triển mạnh mẽ và rộng khắp, giành thắng lợi chiến
lược to lớn. Nguỵ quyền và nguỵ quân vừa bị thất bại nghiêm trọng cả về quân sự và chính
trị, vùng chiếm đóng của chúng bị thu hẹp, còn lực lượng vùng chiếm đóng của chúng bị
thu hẹp còn lực lượng cách mạng miền nam thì đang lớn mạnh nhanh chóng về mọi mặt.
Đặc biệt, trong mấy tháng đầu năm 1965, kể từ ngày các tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ
đổ quân vào Đà Nẵng, chúng đã liên tiếp bị đánh thiệt hại. Trong khi đó cuộc chiến tranh
phá hoại bằng không quân đối với miền Bắc bị giáng trả những đòn đau. Vì vậy, dù đế

quốc Mỹ đưa vào mấy chục vạn quân, về chiến lược chúng vẫn buộc phải phân tán lực
lượng trên các chién trường và ngày càng lâm vào thế bị động.
Đế quốc Mỹ đưa quân và trực tiếp xâm lược miền nam và dùng không quân mở rộng chiến
tranh phá hoại ở miền Bắc thì càng bị cô lập trên thế giới và ngay trong nước Mỹ.
16
Phong trào nhân dân thế giứoi chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ phát triển
mạnh mẽ. Phong trào của nhân dân mỹ chống chiến tranh ngày càng lên cao. Các nước đế
quốc khác lợi dụng lúc đế quốc Mỹ bị giam chân và gặp khó khăn ở Việt Nam để vươn lên
làm giàu, ra sức tranh giành thị trường và khu vực ảnh hưởng với Mỹ. Cho nên, càng kéo
dài chiến tranh xâm lược ở Việt Nam, đế quốc Mỹ càng gặp thêm những khó khăn mới,
không những ở Việt Nam mà cả trên thế giới và trong nước.
Chiến tranh càng phát triển , do những những cố gắng chủ quan của ta, những chỗ mạnh
của Mỹ sẽ giảm dần, những chỗ yếu của chúng bị khoét sâu, cán cân thế và lực sẽ biến
chuyển ngày càng bất lợi đối với Mỹ.
Về phía ta, trải qua quá trình tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nhân dân ta đã sáng tạo nhưng lực lượng to lớn về mọi mặt và đang ở vào thế thuận
lợi.
Ở miền Nam: Mặt trận dân tộc giải phóng nắm vững và giương cao ngọn cờ độc lập và
dân chủ đã có cơ sở rộng rãi và vững chắc trong công nhân, nông dân, tập hợp ngày càng
đông đảo các tầng lớp nhân dân. Mặt trận dân tộc giải phóng là lực lượng chính trị chủ
yếu ở miền nam, ngày càng có uy tín trong nước và cả trên thế giới. Lực lượng vũ trang
cách mạng ở miền nam đã vững mạnh vượt bậc, có tinh thần chiến đấu cao, được rèn luyện
về chiến thuật và kỹ thuật.. Đánh du kích giỏi, đánh vận động tiến bộ, đã triển khai và
đứng vững trên các địa bàn chiến lược quan trọng ở nông thôn và rừng núi. Phong trào
cách mạng ở các đô thị ngày càng phát triển mạnh mẽ, liên tục tiến công địch bằng đấu
tranh chính trị và có nơi đã bắt đầu kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang,
khiến hậu phương địch mất dần sự ổn định. Vùng giải phóng, tuy chưa hoàn chỉnh, nhưng
đã bao gồm phần lớn số dân, ngày càng được củng cố và phát huy ưu thế của chế độ mới.
Ở miền Bắc: trải qua hơn 10 năm thực hiện công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây

dựng chủ nghĩa xã hội, miền bắc đã trở thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng cả
nước, với chế độ chính trị tiên tiến, với lực lượng kinh tế và quốc phòng trên xu thế phát
triển. từ khi đế quốc Mỹ không dùng không quân, hải quân mở rộng chiến tranh phá hoại ra
miền bắc, quân và dân ta ở miền Bắc đã anh dũng chiến đấu, kiên quyết đánh trả máy bay
và tàu chiến của Mỹ, bước đầu làm thất bại âm mưu gây chiến tranh phá hoại của địch.
hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, Chính phủ, nhân dân ta ở miền bắc đã phát động một cao
trào chống Mỹ, cứu nước. Phong trào đó thể hiện kết hợp sản xuất và chiến đấu, chiến đấu
và sản xuất, thực hiện tay cày tay súng, tay búa tay súng, nêu cao phong trào thanh niên ba
sẵn sàng, phụ nữ ba đảm đang, tích cực tham gia sự nghiệp giải phóng miền nam, bảo vệ
miền bắc, góp phần ngày càng to lớn vào thắng lợi chúng của cả nước, tất cả để đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược. ađế quốc Mỹ ngày càng mở rộng và đẩy mạnh chiến tranh xâm
lược thì lòng yêu nước chống ngoại xâm, lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa càng phát triển
mạnh mẽ. Tinh thần kiến quyết chiến đấu và ý chí chiến thắng của nhân dân trong cả nước
ngày càng củng cố và nâng cao, khối đoàn kết dân tộc ngày càng vững chắc và rộng rãi.
Trên thế giới: cuộc chiến tranh cứu nước chính nghĩa của nhân dân Việt Nam ở cả hai miền
càng được sự ủng hộ tích cực, sự giúp đỡ tận tình, có hiệu quả của các nước xã hội chủ
17
nghĩa, được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của các nước dân tộc chủ nghĩa, của nhân dân
yêu chuông hoà bình và công lý, kể cả nhân dân Mỹ.
Phân tích cả hai mặt thuận nghịch, chúng ta đi đến kết luận: Do những thất bại nặng nề của
địch, do những thắng lợi to lớn của ta, mặc dầu đế quốc Mỹ đưa quân vào miền Nam hàng
chục vạn quân viễn chinh, rõ ràng so sánh thế và lực, nhất là thế, giữa ta và địch vẫn không
có sự thay đổi căn bản. Tuy cuộc chiến tranh ngày càng trở nên gay go, ác liệt, chắc chắn
cách mạng sẽ gặp nhiều khó khăn hơn, tăng tóc sẽ tăng lên, phải chịu nhứng tổn thất lớn
hơn, nhưng phải địch muốn làm gì cũng được. Nhân dân ta dã có cơ sở vững chắc để giữ
vững và tiếp tục giữ vững chiến lược tiến công, phát huy thế thắng và quyền chủ động trên
chiến trường,có lực lượng và điều kiện để làm thất bại âm mưu trước mắt và lâu dài của
địch.
Tình thế và so sánh lực lượng mới trong chiến tranh là như vậy, nhưng căn cứ vào đau để
nói rằng nhân dân và lực lượng vũ tranh ta có thể đánh thắng Mỹ về mặt quân sự, trong khi

đếnlúc này lại chưa diễn ra những trận đọ sức lớn giữa quân dân ta với quân chiến đấu Mỹ.
Vấn đề này được đặt ra nghiên cứu rất nghiêm túc. Bộ chính trị Trung ương Đảng đã phải
bàn đi tính lại kỹ lưỡng và sự đánh giá chiến lược của ta ở thời điểm lịch sử này đã xuất
phát từ sự phân tíc cặn kẽ một vấn đề:
Một là, chúng ta thấy rằng đế quốc Mỹ đưa quân chiên đấu vào miền Nam trong lúc ở
trong tình thế đã bị thất bại trong chiến lược “ chiến tranh đặc biệt”, trung lúc nguỵ quân
và nguỵ quyền đang có nguy cơ tan rã và sụp đổ. Còn cách mạng và chiến tranh cách mạng
miền nam thì đang ở trong thế tiến công cả về hai mặt chính trị và quân sự, phát triển mạnh
mẽ thê thắng, thế chủ động trên toàn cục.. Đế quốc Mỹ thay đổi chiến lược chiến tranhm
tiến hành một bước leo thang mới với một sức mạnh mới nhưng là leo thang trên thế thua
và thế bị động.
Hai là, đế quốc Mỹ đua quân viên chinh vào tham chiến trong lúc lực lượng của cách mạng
trên cả nước, lực lưọng cách mạng miền Nam đã lớn lên mọi mặt. Thế chiến thắng làm
phá sản cuộc “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đã tạo ra cho nhân dân ta một sức mạnh to lớn
về chính trị, tinh thần và cả về mặt quân sự. Nói riêng về quân sự, sức mạnh ấy không phải
chỉ thể hiện ở số lượng ba thứ quân phát triển ở trình độ tác chiến và tổ chức chỉ huy đạt
nhưng tiến bộ mới. Quang trọng hơn nữa là khối quân chủ lực đã được hình thành và phát
triển tại chiến trường, đặc biệt từng đơn vị được xây dựng, trang bị và huấn luyện từ miền
Bắc tăng cường vào với quy mô nhiều tiểu đoàn, trung đoàn đến sư đoàn.
Ba là, đế quốc Mỹ đưa quân viễn chinh vào miền Nam trong lúc lực lượng vũ trang nhân
dân ta với ba thứ quân đã được bố trí hợp lý trên các địa bàn chiến lược ở miền Nam. Quân
ta đã chiếm lĩnh các địa thế có lợi, đứng chân vững chắc ở địa bàn rừng núi, nông thôn,
đồng bằng chung quanh và có bộ phận ở ngay trong một số đô thị. Quân chủ lực ta đã làm
chủ các vùng chiến lược quan trọng : ở Tây Nguyên, miền núi và giáp ranh đồng bằng
trung Trung Bộ, ở miền đông Nam Bộ. đó là một thế trận tiến công lợi hại làm cho quân và
dân miền nam có điều kiện giữ vững và phát triển mạnh mẽ quyền chủ động chiến trường
để thực hành tích cực phản công lại quân Mỹ khi chúng ra quân “tìm diệt” chủ lực ta, đồng
thời, chủ động tiến công quân Mỹ trên các hướng khác.
18
Người ta đều biết, trong chiến tranh, làm chủ được các địa bàn chiến lược quan trọng, bố

trí lực lượng một cách hợp lý trên chiến trường trong một thế trận tiến công có lợi là đã
thắng được một nửa. Sức mạnh quân sự chỉ có thể phát huy đến mức cao nhất khi có chỗ
đứng chân vững chắc và giữ được thế chủ động. Rõ ràng, ta thấy ở quân Mỹ thiếu cả hai
yếu tố này. Vì các đơn vị chiến đấu Mỹ từ các tiểu đoàn đầu tiên của 2 sư đoàn lính thuỷ
đánh bộ đổ quân lên vùng ven biển khu 5, đến các đơn vị bộ binh và lính dù Mỹ vào miền
đông Nam Bộ đều đang phải gấp rút triển khai thiết lập căn cứ và lo tổ chức bảo vệ cho
được hệ thống căn cứ đó. Tiếp theo mới có thể từng bước tổ chức các cuộc hành quân tìm
diệt chủ lực ta hoàng giành lại quyền chủ động chiến lược đã mất.
Vì lẽ đó mà quân đội Mỹ vào miền nam ngay từ bước đầu đã lâm vào thế bao vây, chia cắt,
bộc lộ những sơ hở và chỗ yếu, bị uy hiếp bởi thế trận chiến lược của chiến tranh nhân dân
miền nam vừa chiến thắng cuộc “chiến tranh đặc biệt” và đang trong tư thế sẵn sàng đón
đánh quân viễn chinh Mỹ.
Bốn là, quân Mỹ và tay sai không phải bị động về mặt chiến lược mà gặp nhiều khó khăn ,
cả về kỹ thuật và chiến thuật. Chúng định phát huy mặt mạnh quan trọng nhất là hoả lực rất
lớn và sức cơ động rất cao, ra sức tận dụng cái mạnh về chiến thuật, sự dồi dào về vật chất
- kỹ thuật và tiếp tế hậu cần, đi từ quyền chủ động về chiến thuật và giành thanứg lợi về
chiến thuật tiến lên giành lại chính quyền chủ động chiến lược. Trên thực tế, qua một trận
đánh thắng của ta ở Núi Thành (Quảng Nam), Vạn Tường (Quảng Ngãi), Bầu Bàng (Thủ
Dầu Một), I-a-đrăng (Plây-me-Gia Lai)... đã cho thấy rằng bộ binh của Mỹ hung hăng
trong những trận đầu nhưng không mạnh như người ta tưởng, tinh thần binh lính không
cao. Còn chiến thuật của quân Mỹ không thích hợp với điều kiện chiến trường và cách
đánh của quân dân ta.
Tóm lại, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Ta đánh Mỹ, lấy ít thắng nhiều được là
nhờ cái thế của ta rất lợi”, lực lượng của chúng ta đang trên đà phát triển lại được tổ chức
một cách thích hợp có chất lượng ngày càng cao. Mỗi thứ quân, mỗi chiến trường đã sáng
tạo ra những lối đánh thích hợp của mình, trên vùng rừng núi cũng như đồng bằng, trong
căn cứ và xung quanh các căn cứ đóng quân của Mỹ, ngay cả vùng ven và trong thành thị.
Chúng ta đã tổng kết được những kinh nghiệm quý báu có giá trị về kỹ thuật, chiến thuật
của cả chiến tranh nhân dân địa phương và tác chiến tập trung của các đơn vị chủ lực nhằm
không ngừng tiêu diệt và tiêu hao lực lượng quân sự của Mỹ - nguỵ, cả sinh lực và phương

tiện chiến tranh của chúng. Tuy nhiên, cũng cần đánh giá đúng mức những mặt còn non
kém của ta lúc đó đã phải tìm mọi cách khắc phục như khả năng tiếp tế hậu cần để bảo
đảm tác chiến liên tục còn có hạn, đánh trong điều kiện chuẩn bị gấp rút và tình huống biến
động bất thường còn kháo khăn, trình độ tác chiến chưa đồng đều giữa các thứ quân, các
chiến trường,....
Giữa ta và địch có sự chênh lệch lớn về số quân, về trang bị kỹ thuật cũng như về tiềm lực
kinh tế và quân sự. Nhưng, do sự cố gắng chủ quan của ta, với thời gian, ta có thể hạn chế
chỗ mạnh, khơi sâu chỗ yếu của địch, từng bước bồi dưỡng và phát triển lực lượng ta, làm
cho ta càng đánh càng mạnh.
Nhất định chúng ta sẽ tiêu diệt được nhiều lực lượng quân sự của cả quân Mỹ và quân
nguỵ, có thể đánh bại các chiến thuật quân sự và biện pháp chiến lược mới của cuộc“
19
chiến tranh cục bộ”. Nhất định chúng ta sẽ đánh thắng Mỹ về mặt quân sự, đập tan ý chí
xâm lược của chúng.
Với việc phân tích đánh giá đúng đắn tình hình như trên, Đảng và nhân dân ta đã chủ động
và kiên quyết chấp nhận cuộc giao tranh quyết liệt với lục quân và cả không quân, hải
quân Mỹ, với chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ.
Thi hành chiến lược chiến tranh cục bộ cuộc chiến tranh của Mỹ đã chuyển sang một giai
đoạn mới, nhưng bản chất cuộc chiến tranh vẫn là chiến tranh xâm lược thực dân mới.
Để đánh bại cuộc chiến tranh cục bộ của Mỹ, Trung ương Đảng ta chủ trương tiếp tục phát
huy chiến tranh nhân dân với những kinh nghiệm ngày càng sáng tạo hơn. Toàn dân ta
đoàn kết chặt chẽ, nam bắc một lòng, lại có kinh nghiệm 20 năm không ngừng chiến đấu
chống các kẻ thù dân tộc từ năm 1945 đến 1965, có miền bắc xã hội chủ nghĩa, có hậu
phương lớn các nước xã hội chủ nghĩa anh em, có lực lượng vũ tranh nhân dân được tôi
luyện và trường thành, nhất định tạo được thành sức mạnh to lớn để giành từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác.
Đế quốc Mỹ là nước đế quốc có sức mạnh lớn về kinh tế và quân sự, đã bỏ nhiều công sức,
tiền của vào miền nam cho nên vẫn cố bán giư. chúng ta có chính nghĩa, có sức mạnh của
cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, nhưng về lực lượng vật chất thì vẫn phải ở
trong điều kiện lấy yếu đánh manh, lấy ít địch nhiều... nhất thiết phải trải qua một qúa trình

chiến đấu nhiều năm mới đủ sức đánh bại địch. Vì vậy, phương châm chiến lược là đánh
lâu dài, dựa vào sức mnàh là chính, đồng thơi hết sức tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã
hội chủ nghĩa anh em, của phong trào giải phóng dân tộc và tiến bộ xã hội.
Trong qúa trình đánh lâu dài, chúng ta phải phát huy cao nhất cố gắng chủ quan làm cho so
sánh lực lượng ngày càng có lợi cho mình, thực hiện càng đánh càng mạnh cả về thế và
lực. Từ đó, từng bước làm lung lay tiến tới đập tan ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Tất
nhiên ta phải luôn luôn nắm chắc sự phát triển của tình hình, tạo ra được thời cơ thì tạp
trung nỗ lực giành ngay lấy thắng lợi lớn.
Trên chiến trường miền Nam, quân và dân ta tiến hành đấu tranh quân sự kết hợp với đấu
tranh chính trị , triệt đẻ vận dụng ba mũi giáp công (đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị
và binh vận). Ban đầu cũng có ý kiến cho rằng trong tình hình mỹ ngày càng đưa nhiều
lực lượng chiến đấu vào miền nam thì chủ trương như trên có thích hợp hay không? thực tế
chiến trường chứng tỏ nhận thức đó là không đúng, không phản ánh thực chất của tình
hình. Đế quốc Mỹ trực tiếp xâm lược nước ta, lòng căm thù của nhân dân ta càng được
nung nấu, mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai ngày càng phát triển, nội bộ nguỵ
quân, nguỵ quyền thêm phân hoá. Hơn nữa, đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục chính sách xâm lược
thực dân mới, vẫn phải duy trì vai trò của chế độ tay sai, phải dùng chính sách mị dân để
lừa gạt quần chúng. Để đánh thắng ta phải huy động sức mạnh tổng hợp cuả cuộc chiến
tranh nhân dân trong điều kiện hiện đại.
Đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp và giữ vị trí ngày càng quan trọng.
Nhưng đấu tranh quân sự chỉ đạt được kết quả lớn nhất nếu được kết hợp chặt chẽ với đấu
tranh chính trị. Đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị là một quá trình phát triển
20
ở trình độ ngày càng cao, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn đảy địch vào thế lúng túng bị
động thất bại.
Miền Bắc là hậu phương lớn, là căn cứ đại cách mạng cả nước, miền Nam là tiền tuyến
lớn, lực lượng vũ trang miền bắc phải được phát triển mạnh mẽ về cả số lượng và chất
lượng để bảo vệ miền Bắc, không ngừng bổ sung, chi viện và tăng cường sức mạnh chiến
đấu cho chiến tranh cách mạng miền Nam. Phát động rộng rãi chiến tranh nhân dân và thực
hiện nền quốc phòng toàn dân để đánh bại chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải

quân của Mỹ, bảo vệ nhân dân, bảo vệ các đường giao thông chiến lược, bảo vệ các vùng
công nghiệp tập trung. Đồng thời, chuển bị mọi mặt sẵn sàng đánh thắng địch nếu chúng
liều lĩnh đưa lục quân Mỹ đánh ra miền Bắc, mở rộng chiến tranh trên bộ ra cả nước ta.
Chúng ta sắn sàng nhưng luôn luôn kiên trì phương châm giới hạn cuộc chiến tranh xâm
lược của địch trên chiến trường chính là miền Nam Việt Nam.
Với đường lối, quan diểm quân sự và phương châm chiến lược như trên, cùng với nỗ lực
tranh thủ đến cao độ sự đồng tình, ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa, của các dân tộc
Á-Phi-Mỹ la tinh và của nhân dân thế giới yêu chuộng hoà bình và công lý, kể cả nhân dân
tiến bộ Mỹ, đặc biệt là phát triển sự liên minh chặt chẽ với quân và dân Lào, Cam-pu-chia
luôn luôn nắm vững và phất cao ngọn cờ độc lập, hoà bình, quân dân ta tin tưởng một cách
có cơ sở rằng nhất định sẽ đánh thắng đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.
Như vậy là trước tình hình đế quốc Mỹ thay đổi chiến lược, trước những khó khăn, gay
cấn của tình huống quân viễn chinh Mỹ vào ồ ạt tham chiếm, Đảng ta và nhân dân ta
không hề có sự ngập ngừng, do dự hoặc chựng lại cả về tư tưởng và tổ chức, cả về chính
trị và chiến lược. Quân và dân ta triệu người như một, cả nước đồng lòng, quyết đánh Mỹ
và thắng Mỹ, sẵn sàng đón đánh quân Mỹ ngay khi chúng mới đổ quân vào thiết lập chỗ
đứng chân.
Nhưng, để đối chọi thắng lợi với sức mạnh quân sự đổ bộ của Mỹ, Bộ chính trị cùng Ban
chấp hành trung ương Đảng và Quân uỷ trung ương ta đã phải bàn bạc, tính toán kỹ lưỡng
nhiều vấn đề. Và đương nhiên trong những phiên bàn thảo để định chủ trương không phải
là không có ý kiến khác nhau. Đây cũng là điều bình thường. ví như đã có những ý kiến đề
xuất đến việc nên chăng di chuyển căn cứ chiến lược để tránh đòn đánh thọc của quân Mỹ.
Có cả ý kiến đề cập là so sánh lực lượng hai bên đã thay đổi lớn, nên chuyển từ tiến công
chiến lược sang phòng ngự chiến lược, tuy có nhấn mạnh tư tưởng phòng ngự tích cực.
Hoặc giả khi bàn tính đến chọn đối tượng đánh chỗ yếu, không trực tiếp đánh thẳng vào
khối quân chiến đấu Mỹ mà đánh vào quân nguỵ trước.... Kết cục quân và dân ta đã thực
hiện theo phương hướng đúng đắn, sự chỉ đạo chiến lược chính xác sựa trên sự phân tích,
đánh giá chiến lược phù hợp với sự vận động phát triển của thực tiễn chiến tranh lúc đó.
Song chúng ta cũng hiểu rằng việc tìm hiểu đánh giá địch và ngay cả ta nữa không phải
một lần là xong. Đây là lần đầu tiên chúng ta chạm chán với quân sự Mỹ. Chủ trương của

ta là vừa đón đánh quân Mỹ vừa tìm hiểu, phát hiện và đánh giá cụ thể khả năng và hành
động có thể của chúng. Sau này, trong phần tổng kết thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước, Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng do đồng chí Lê
Duẩn trình bày tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, có nêu rõ: “Trong một cuộc chiến
tranh của nước Mỹ vừa đánh vừa dò, vừa đánh vừa thí nghiệm các chiến lược, chiến thuật
21
của chúng, một cuộc chiến tranh leo thang từng bứớc, không có tiền lệ trong lịch sử thì
việc hiểu địch, hiểu ta là một quấ trình nhận thức ngày càng sâu hơn, sát hơn, rõ ràng hơn,
chắc chắn hơn thông qua thực tế chiến đấu và những diễn biến cụ thể của cuộc đọ sức trên
chiến trường. Trên cơ sở phương hướng chiến lược đúng, hãy làm đi rồi thực tiễn sẽ cho
pháp ta hiểu rõ sự vật hơn nữa”. Đây cũng là một trong những bài học lớn của chúng ta ở
những năm tháng đấu đánh Mỹ.
Trên cơ sở thực hiện chiến lược tiến công của chiến tranh nhân dân và huy động sức mạnh
tổng hợp của chiến tranh toàn dân phát triển cao, lấy nghệ thuật quân sự của chiến tranh
nhân dân đối chọi với nghệ thuật quân sự của đế quốc Mỹ, Bộ chính trị Trung ương Đảng
ta xác định chiến lược quân sự của chiến tranh cách mạng vẫn là chiến lược tiến công.
Bắt đầu từ cao trào đồng khởi Nam Bộ trong những năm 1959 đến 1960, cách mạng miền
Nam chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công về chiến lược. Từ đó, với khí thế
cách mạng tiến công mãnh liệt và thế trỗi dậy phi thường, nhân dân miền nam đã áp dụng
một chiến lược nhất quán” chiến lược tiến công. cách mạng là tiến công. Chiến tranh giải
phóng miền Nam là phương thức tiến hành chiến tranh nhằm tực hiện mục tiêu của cách
mạng giải phóng dan tộc. Chiến lược của nó là chiến lược tiến công, tiến công từ nhỏ mà
lên, từ thất đến cao. Quy luật của nó là phải đi từ nhỏ bé cục bộ, lên to lớn toàn bộ.
Từ năm 1961 đến giữa năm 1965, chiến lược tiến công bằng chính trị và quân sự của chiến
tranh cách mạng miền nam đã đánh bại về căn bản chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của
đế quốc Mỹ, đập vỡ cuộc phản công của 50 vạn quân nguỵ do 3 vạn “cố vấn” Mỹ chỉ huy.
Đến lúc này, Mỹ chuyển sang dùng chiến lược “chiến tranh cục bộ” ồ ạt đưa quân viễn
chinh Mỹ và lính chư hầu vào tham chiến. Chiến tranh cách mạng miền nam vẫn giữ vững
chiến lược tiến công. Ngay trong những ngày đầu quân mỹ hung hăng ra quân để tiến hành
“tìm diệt” chủ lực mà chúng quen gọi là “bẻ gãy xương sống” Việt cộng, quân và dân miễn

nam vẫn giữ vững và phát triển thế tiến công mạnh mẽ, liên tục trên các chiến trường,
giáng cho nhiều đơn vị chiến đấu những đòn choáng váng, bất ngờ.
Xác định tiếp tục giữ vững chiến lược tiến công địch trong khi địch đã chuyển sang chiến
tranh cục bộ, chúng ta dựa trên sự phân tích tỉnh táo so sánh thế và lực và chiều hướng phát
triển của nó trong qua trình chiến đấu, dựa trên khả năng và nghệ thuật huy động tới mức
tối đa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, tạo thế và lực ngày càng hơn địch để giành
thắng lợi.
Nội dung của chiến lược tiến công là: trong điều kiện lấy nhỏ thắng lớn, lấy yếu đánh
mạnh về vật chất- kỹ thuật, trước hết phải biết thắng từng bước. Trên cơ sở đánh lâu dài,
biết kiềm chế và tập trung nỗ lực của cả nước đánh thắng địch trên chiến trường miền nam
càng sớm càng tốt. Quá trình lâu dài là quá trình liên tục tiến công, phát triển thế tiến công
từ thấp lên cao, giành thắng lưọi từng bước, đánh thắng từng kế hoạch chiến lược, từng
chiến lược chiến tranh, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.
Tư tưởng chỉ đạo cơ bản của chiến lược tiến công của chiến tranh nhân dân ta trong kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước là kết hợp tiêu diệt địch và làm chủ, làm chủ để tiêu diệt địch,
tiêu diệt địch để làm chủ ngày càng vững chắc hơn. Chiến tranh cách mạng là phương thức
đấu tranh để giành và giữ chính quyền. Địch đánh ta “kìm kẹp, bình định” và “tìm diệt”
22
chủ lực ta. Nhân dân ta phải nổi dậy giành quyền làm chủ để tiêu địch, tức là làm thất bại
mục tiêu chính trị của địch, đồng thời, làm thất bại chiến lược quân sự của chúng. Tiêu diệt
địch chú trọng cả lực lượng vũ trang, cơ sở hậu cần, phương tiện chiến tranh và cả lực
lượng chính trị, lực lượng kìm kẹp của chúng. Tiêu diệt và làm chủ thể hiện sự thống nhất
giữa yêu cầu của quy luật cách mạng (giành chính quyền) và yêu cầu của quy luật chiến
tranh và đấu tranh vũ trang (tiêu diệt địch), tạo nên điều kiện căng địch ra mà đánhtrên mọi
chiến trường hẹp nhưng với mật độ địch dày đặc.
Đối tượng tác chiến của quân và dân ta là quân Mỹ và quân đội tay sai. Tiếp tục tiêu diệt
địch và làm tan rã các đơn vị quân đội nguỵ, coi đó là một nhân tố cơ bản để đánh sập
chinh quyền tay sai, loại bỏ chỗ dựa quan trọng của Mỹ. Tuy nhiên, phải trực tiếp đánh
thắng quân viễn chinh Mỹ mới bẻ gãy được lực lượng nòng cốt của chiến tranh xâm lược
cục bộ. Đánh quân Mỹ là đánh đúng vào chỗ dựa của quân nguỵ để tiêu diệt và làm tam rã

chúng, ngược lại, tiêu diệt và tan rã quân nguỵ để tạo điều kiện đánh thắng quân Mỹ. Mục
tiêu nhằm đánh thắng lực lượng quân sự của địch. Đương nhiên, không có nghĩa và chưa
có khả năng để tiêu diệt hầu hết số lượng lớn quân Mỹ và quân Nguỵ, mà là tiêu diệt một
bộ phận quan trọng buộc chúng phải sa lầy trong đường hầm và làm tan rã tinh thần của
chúng. Từ đó, từng bước đập tan ý chí chiến đấu của chúng. Đánh thắng Mỹ là làm cho
quân Mỹ không thực hiện được mục đích quân sự và chính trị, buộc phải từ bỏ chí xâm
lược, và cuối cùng phải chịu rút quân khỏi miền nam nước ta. Đó là cách thắng có lợi nhất,
là tính toán chiến lược sáng suốt của ta dựa trên cơ sở phân tích đúng đắn so sánh thế và
lực địch ta và hình thái trên chiến trường chiến lược chung của cả hai bên và các mối quan
hệ quốc tế phức tạp của thời đại ở thời điểm đó.
Trong chỉ đạo tác chiến, chúng ta chủ trương xây dựng một thế trận vững chắc và liên hoàn
của chiến tranh nhân dân để luôn hãm địch vào thế trận xen kẽ, bảo đảm lực lượng ta
không nhiều mà vẫn có thể chủ động đánh địch ngày càng mạnh. Từ đó, chú trọng vận
dụng một cách sáng tạo và kết hợp khôn khéo các phương thức và hình thức tác chiến để
đánh địch và thắng chúng.
1.Tiến công địch bằng cả quân sự và chính trị để đánh thắng chúng về mặt quân sự. Đó là
thể hiện sức mạnh tiến công tổng hợp của bạo lực cách mạng theo nguy luật kết hợp đấu
tranh quân sự với đấu tranh chính trị, lực lượng quân sự với lực lượng chính trị. Sự kết hợp
và hỗ trợ lẫn nhau giữa tiến công quân sự với tiến công chính trị trong chiến lược tiến công
tạo nên hiệu lực tiến công tổng hợp rất to lớn của chiến tranh cách mạng. Quân và dân
miền nam cùng một lúc tiến công vào cả lực lượng quân sự (cả quân Mỹ, quân chư hầu và
quân nguỵ) và lực lượng chính trị của địch, tiêu diệt lực lượng quân sự của chúng và giành
quyền làm chủ ở khắp nơi, làm cho thế và lực của chiến tranh cách mạnh luôn ,uôn pháp
triển, có những bước phát triển nhảy vọt làm chuyển cục diện chiến tranh.
2. Tiến công trên cả ba vùng chiến lược rừng núi, nông thôn đồng bằng và thành thị. Đây
chính là thể hiện sự kết hợp nông thôn với thành thị của phương pháp cách mạng miền
nam. Trong cuộc chiến tranh cách mạng miền nam, mỗi vùng có một vị trí, tác dụng của nó
đối với sự phát triển của toàn cuộc chiến tranh. Các cuộc tiến công bằng cả quân sự và
chính trị ở cả nông thôn và thành thị phối hợp chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng và thúc đẩy
lẫn nhau rất sâu sắc và mạnh mẽ. Quá trình tiến công địch trên cả ba vùng cũng là quá trình

23
làm cho thế và lực tiến công của chiến tranh cách mạng không ngừng lớn mạnh nhân
chóng, tạo thế chiến lược mới ngày càng có lợi để có thể tiến công tổng tiến công trên cả
ba vùng, giành thắng lợi chiến lược to lớn.
3. Tiến công kiên quyết, liên tục từ nhỏ bé, cục bộ lên to lớn, toàn bộ. Chiến lược tiến công
của ta là chiến lược của một cuộc chiến tranh cachs mạng lâu dài. Lực lượng tổng hợp về
chính trị và quân sự của chiến tranh cách mạng ngay từ đầu đã có sức mạnh để tiến công
địch nhưng chưa thể đủ mạnh để đè bẹp chúng trong một vài keo. Chúng ta phải tấn công
địch bằng nhiều keo, nhiều đợt và hoàn toàn có khả năng giành thắng lợi trong từng keo,
từng đợt đó. Phải tiến công từ nhỏ bé, cục bộ, đánh thắng quân địch từng bước, đánh gục
chúng từng bộ phận tiến lên tiến công to lớn, toàn bộ, đánh thắng chúng hoàn toàn. Đó là
đường đi, nước bước của cách mạng và chiến tranh cách mạng miền nam nhằm đánh thắng
kẻ thù lớn mạnh là đế quốc Mỹ, cũng như trực tiếp đánh thắng quân đội viễn chính Mỹ
hung hãn có số quân đông, binh khí kỹ thuật nhiều và hiện đại hơn ta. đó là quá trình tiến
công liên tục từ thấp đến cao, với quy mô sử dụng lực lượng từ nhỏ, vừa đến lớn và kết
hợp các quy mô đó, với sự kết hợp chặt chẽ các phương thức tiến công của cuộc đấu tranh
quân sự và đấu tranh chính trị gây càng rộng và phong phú, lần lượt đánh thắng quân địch
trong từng keo đọ sức.
4. Đẩy mạnh chiến tranh du kích rộng khắp, làm cơ sở để phát triển chiến tranh chính quy
và kết hợp chặt chẽ với chiến tranh chính quy.
Từ những hình thức đánh lẻ, đánh nhỏ, phát triển thành chiến tranh nhân dân địa phương,
mở các hoạt động du kích để tiêu diệt địch lớn hơn và giành quyền làm chủ vững chắc hơn.
Xây dựng và sử dụng các qủ đấm của khối chủ lực để làm chuyển biến hẳn so sánh lực
lượng một cách có ý nghĩa: lập các vành đại du kích diệt Mỹ (quanh Đà Nẵng, ở Củ
Chi,...), mở rộng đánh phá bình định ở khu 5, đồng băng Nam Bộ, ở đồng bằng trung
Trung Bộ), đánh phá các hậu cứ, kho tàng, sân bay, triệt phá giao thông...có những mũi
tiến công vào cơ quan đầu não, vào những sinh lực cao cấp địch ngay ở nội thành Sài Gòn,
đồng thời đánh những đòn của chủ lực như ở Vạn Tường, Bầu Bàng, Plây-me...
Để thực hiện chiến lược tiến công, trong tổ chức quân sự, chúng ta tăng cường việc xây
dựng và phát triển lực lượng, nhất là bộ đội chủ lực, củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức

chỉ đạo, chỉ huy, tổ chức thiết bị các chiến trường (bao gồm việc thành lập chiến trường
mới và phân chia lại những chiến trường đã có ở miền nam), mở rộng tuyến vận tải chiến
lược Trường Sơn gắn với việc tổ chức bố trí mạng lưới hậu cần tiếp tế cho các chiến
trường.
Cho đến thời điểm trực tiếp đọ sức với quân viễn chính mỹ và bộ máy quân sự đổ sộ, hiện
đại hoá đến mức cao của chiến lược chiến tranh cục bộ vào giữa năm 1965, quân đội ta đã
thực hiện một bước quan trọng cuộc cách mạng về tổ chức và kỹ thuật, đã trở thành một
quân đội gồm ba quân chủng: lục quân, hải quân, phòng không – không quân xây dựng
theo phương hướng chính quy, hiện đại, đã thực hiện một cuộc cải tiến lớn về vũ khí, kỹ
thuật. Đội ngũ cán bộ, nhân viên kỹ thuật có trình độ tác chiến hiệp đồng binh chủng phát
triển nhanh. Lực lượng hậu bị được xây dựng khá hùng hậu.
Về xây dựng lực lượng, ta chủ trương nhanh chóng phát triển số lượng, đặc biệt chủ trọng
nâng cao chất lượng các lực lượng vũ trang thứ ba quân mà nòng cốt là bộ đội chủ lực.
24
Dành ưu tiên đưa bộ đội tập trung ở chiến trường miền nam lên số lượng cao hơn hẳn
trước đó. Thu – đông năm 1965, Quân uỷ trung ương và Bộ quốc phòng quyết định thành
lập tại chiến trường miền nam năm sư đoàn bộ binh, một đơn vị pháo tương đương cấp sư
đoàn. Nhiều trung đoàn bộ binh với đầy đủ biên chế, trang bị và một số đơn vị binh chủng:
pháo binh, đặc công, công binh, thông tin.... được điều động từ miền bắc vào chiến trường.
Trên miền bắc, ta phát triển lực lượng phòng không, pháo cao xạ, không quân, tên lửa, ra
đa, thông tin, công binh và vận tải làm nòng cốt chi chiến tranh nhân dân đát đối không
nhằm đánh thắng chiến tranh phá hoại của Mỹ. Các lực lượng này phát huy tác dụng tích
cực trong cuộc chiến đấu quyết liệt với không quân mỹ, giữ vững các đường giao thông
chiến lược, thực hiện tốt kế hoạch chi viện người và vật chất - kỹ thuật cho miền nam,
chuẩn bị tốt cho các đơn vị hành quân đường dài vào chiến trương chiến đấu và động viên
mở rộng lực lượng khi cần thiết.
Công tác động viên lực lượng được thực hiện trên quy mô lớn do dựa vào lực lượng hậu bị
tổ chức tốt và mạng lưới dân quân tự vệ phát triển rộng. Các trung tâm huấn luyện quân bổ
sung cho các chiến trường mở rộng từ một đoàn (338) thành nhiều đoàn trong toàn quân.
Các binh đoàn dự bị chiến lược được xây dựng sẵn ở miền bắc lần lượt ra mặt trận tăng

cường cho các chiến trường. Hệ thống tổ chức đảng trong quân đội được xây dựng vững
mạnh lãnh đạo chiến đấu tốt. Công tác đảng, công tác chính trị tiến hành với lực lượng cao.
Vào nửa năm 1965, quân đội ta đã xây dựng và bố trí khối chủ lực cơ động đứng chân
vững chắc ở các địa bàn chiến lược Tây Nguyên, miền đông Nam Bộ và đồng bằng khu 5.1
Để góp phần tăng cường bộ máy lãnh đạo, chỉ huy quân sự ở các chiến trường miền nam,
Bộ chính trị, Quân uỷ trung ương, Bộ quốc phòng đã cử thêm nhiều cán bộ cao cấp vào
miền nam. 9 trung đoàn bộ binh, 3 trung đoàn pháo mặt đát cùng một số đơn vị binh chủng
pháo,
__________
1. Miền đông Nam Bộ có 2 sư đoàn ( 9 và 5), Tây Nguyên một số sư đoàn (1), khu 5 có 2
sư đoàn (2 và 3).
phòng quân, công binh, thông tin với đầy đủ số quân, vũ khí, trang bị, được lệnh hành quân
gấp vào chiến trường, tăng cường cho các khối chủ lực cơ động ở Tây Nguyên, khu 5 và
miền đông Nam Bộ.
Đi đôi với xây dựng phát triển lực lượng, hoàn thiện bộ máy tổ chức lãnh đạo, chỉ huy
quân sự, chúng ta chú trọng đặc biệt đến việc tổ chức chiến trường tác chiến. Tổ chức
chiến trường mới có mặt trận Tây Nguyên, mặt trận đường số 9 bắc quảng trị. ta phân chia
lại các chiến trường đã có cho phù hợp với yêu cầu đặc biệt đánh thanứg chiến lược mới
của Mỹ, như tách phân khu nam của khu 5 thành chiến trường khu 6 gồm 4 tỉnh: Ninh
Thuận, Bình Thuận, Tuyên Đức, Lâm đồng, tách Quảng Trị, Thừa Thiên thuộc phân khu
bắc của khu 5 thành quân khu Trị Thiên....
Về vị trí nhiệm vụ của từng chiến trường, ta xác định miền đông Nam Bộ, Tây Nguyên,
mặt trận đường số 9 bắc Quảng Trị (thành lập tháng 6 năm 1966) là chiến trường trọng
điểm tiêu diệt địch. Ở đây cần xây dựng từng bức và có trọng điểm hệ thống giao thông
vận tải và kho tàng dự trữ, chuẩn bị cho bộ đội chủ lực vào đứng chân và cơ động tác chiến
. Ở đồng bằng Nam Bộ và Trung Bộ, lực lượng vũ trang ba thứ quân phát triển cách đánh
25

×