Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tải Phân tích giá trị hiện thực đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác - 11 bài văn mẫu Phân tích giá trị hiện thực đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.84 KB, 31 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh - Ngữ văn 11</b>
<b>Bài tham khảo 1</b>


Lê Hữu Trác (1724 – 1791) tên hiệu là Hải Thượng Lãn ông, quê ở làng Liêu Xá,
huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương, nay thuộc huyện Yên Mĩ, tĩnh
Hưng Yên ông là một danh y lừng lẫy trong lịch sử y học Việt Nam. Ý nguyện lớn nhất
của ông là đem tài năng và tâm huyết của mình để cứu người, giúp đời. Danh lợi, phú q
khơng thể làm cho ơng xa rời lí tưởng cao đẹp đó. Sự nghiệp của ơng được tập hợp trong
bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh gồm 66 quyển, biên soạn trong gần 40 năm, là một cơng
trình nghiên cứu y học xuất sắc nhất thời trung đại ở nước ta.


Thượng kinh kí sự nguyên văn bằng chữ Hán, được Lê Hữu Trác viết năm 1782, nội
dung ghi lại những điều mà tác giả tai nghe mắt thấy trong những lần được vời ra kinh đô
Thăng Long chữa bệnh cho cha con chúa Trịnh Sâm. Qua những trang viết sinh động và
sắc sảo, tác giả đã phản ánh chân thực cuộc sống xa hoa của tầng lớp vụa chúa phịng
kiến, đồng thời kín đáo bày tỏ thái độ thờ ơ, coi thường danh lợi của mình.


Mở đầu bài kí là Khung cảnh giàu sang, đẹp đẽ hiếm có cùa phủ chúa Trịnh được tác
giả miêu tả trực tiếp qua quan sát và miêu tả gián tiếp qua ấn tượng mà nó gây ra trong
lịng tác giả: Tơi ngẩng đầu lên: đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh
hoa đua thấm, gió đưa thoang thoảng mùi hương… Tơi nghĩ bụng: Mình vốn con quan,
sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã từng biết Chỉ có
những việc trong phủ chúa là mình chỉ mới nghe nói thơi. Bước chân đến đây mới hay
cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường!


Tuy được mời nhưng vị danh y cũng chỉ được đưa vào phủ bằng lối cửa sau, mỗi
bước đều có người của phủ chúa đi theo. Trên đường đi, ông để ý ghi nhận từng sự vật: Đi
được vài trăm bước, qua mấy lần cửa mới đến cái điếm “Hậu mã quân túc trực”. Điếm
làm bên cái hồ, có những cái cây lặ lùng và những hịn đá kì lạ. Trong điếm cột và bao
lơn lượn vịng, kiểu cách thật là xinh đẹp.



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

cái võng điều. Trước sập và hai bên, bày bàn ghế, những đổ đạc nhân gian chưa từng
thấy… Lại qua một cửa nữa, đến một cái lầu cao và rộng. Ở đây, cột đều sơn son thếp
vàng. Đúng là cảnh lầu son gác tía, cung bạc lầu vàng mà dân chúng chĩ có thể thấy trong
truyện thần tiên hoặc trong tưởng tượng mà thôi.


Khung cảnh trong phủ chúa đã được Lê Hữu Trác khái qt qua mấy câu thơ tức
cảnh:


<i>Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm nhặt,</i>
<i>Cả trời Nam sang nhất là đây!</i>


<i>Lầu từng gác vẽ tung mây,</i>


<i>Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.</i>


Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa Ịại càng khác xa chốn dân gian. Lần đầu tiên
trong đời, với tư cách là khách mời, tác giả được dùng cơm bằng mâm vàng, chén bạc, đồ
ăn toàn là của ngon vật lạ … Khơng một lời bình luận, tác giả để các chi tiết tự toát lên ý
nghĩa hiện thực sâu xa của nó. Thời kì này, chế độ phong kiến lâm vào tình trạng khủng
hoảng, rối ren. Vua Lê nhu nhược chỉ cịn đóng vai trị bù nhìn, mọi quyền lực chính trị
đều rơi vào tay chúa Trịnh, mà chúa Trịnh thì lộng hành, ăn chơi xa xí, hoang dâm vơ độ.
Trong khi đó, dân chúng sống lầm than cơ cực, tiếng oán thán vang lên khắp hang cùng
ngõ hẻm. Quyền lợi của vua chúa khơng cịn đồng nghĩa với quyền lợi của quốc gia, dân
tộc. Vì thế mà người người bất bình. Phong trào khởi nghĩa nơng dân chống lại triều đình
nổi lên ị khắp nơi. Do có nhận thức đúng đắn vể bản chất của triều đình phong kiến
đương thời nên Lê Hữu Trác dứt khoát quay lưng trước con đường hoạn lộ đầy cám dỗ
của danh lợi, phú quý nhưng vinh liền nhục và cũng đầy hiểm hóc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt Xem chừng Thánh thượng thường thường
vẫn ngồi trên ghế rồng này, nay người rút lui vào màn để tồi xem mạch Đơng cung cho


thật kĩ:


Qua hình dáng và bệnh tình của Đơng cung thế tử được tác giả miêu tả khá kĩ, người
đọc cớ thể liên tưởng đến tình trạng suy thối của triều đình phong kiến Việt Nam thời đó:
… thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi.
vả lại, bệnh mắc đã lâu, tinh khí khơ hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, tay chân
gầy gị. Đó là vì ngun khỉ đã hao mòn, thương tổn quá mức. Quả là chế độ phong kiến
tồn tại hàng ngàn năm nay đã già cỗi, lạc hậu và khó bề cứu chữa.


Vốn là một người thơng minh, Lê Hữu Trác đắn đo rất kĩ trong cách chữa bệnh cho
thế tử. Ý kiến của các thầy thuốc trong cung ông nghe ch? để tham khảo. Từ thực trạng
bệnh tình và thể lực của thế tử, ơng phân tích, cân nhắc thiệt hơn rồi tìm ra cách chữa phù
hợp nhất: Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay
phải dùng thuốc thật bổ để bổi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm
nguồn gốc cho cái hậu thiên. Chính khí ở trong mà thắng thì bệnh ở ngồi sẽ tự nó tiêu
dần, khơng trị bệnh mà bệnh sẽ mất.


Điều thú vị hơn cả là nếu suy ngẫm kĩ, chúng ta sẽ thấy nội dung tờ khải của danh y
Lê Hữu Trác nói về cách chữa bệnh cho thế tử nhưng lại chứa đựng một nhận xét cực kì
chính xác về thực trạng của triều đình phong kiến đương thời và đưa ra phương thức chữa
trị những căn bệnh trầm kha của nó: Chầu mạch, thấy sáu mạch tế, sác và vô lực, hữu
quan yếu, hữu xích lại càng yếu hơn. Ấy là tì âm hư, vị hỏa q thịnh, khơng giữ được khí
dương, nên âm hoả đi càn. Vì vậy( bên ngồi thấy cổ trướng, đó là tượng trưng ngồi thì
phù, bên trong thì trống. Nên bổ tì thổ thì yên…


Danh y Lê Hữu Trác thừa sáng suốt để kê một phương thuốc hoà hỗn cho thế tử vì
sợ nếu mình làm kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, khơng làm sao về núi được
nữa. Là một bậc chân Nho, ông tỏ ra nắm rất vững lẽ xuất xử của người quân tử. Quyết
định lánh xa vòng danh lợi của ông trong hoàn cảnh ấy là vô cùng đúng đắn.



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

cuộc sông xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh, đồng thời cũng bộc lộ thái độ coi thường lợi
danh của mình. Đối với ơng thì khơng có gì quý bằng cuộc sống tự do nơi non xanh nước
biếc chốn quê nhà, được đem hết tài năng, nhiệt huyết cống hiến cho y thuật và cứu nhân
độ thế. Cuộc sống nơi cung vua, phủ chúa dẫu giàu sang phú quý tột bậc nhưng rốt cục
cũng chỉ là vào luồn ra cúi, cá chậu chim lồng mà thôi.


<b>Bài tham khảo 2</b>


Lê Hữu Trác xuất thân trong một gia đình q tộc, giỏi binh thư, võ nghệ. Làm quan
dưới thời chúa Trịnh được một thời gian, ông nhận thấy xã hội thối nát, cương thường
lỏng lẻo, nhân khi người anh ở Hương Sơn mất (1746), ông liền viện cớ cáo quan về ni
mẹ già. Từ đó ơng chun nghiên cứu y học vừa chữa bệnh cứu đời, vừa soạn sách và mở
trường dạy học truyền bá y đức, y lí, y thuật.


Ngày 12 tháng giêng năm Cảnh Hưng 43 (1782), Lê Hữu Trác nhận được lệnh chúa
triệu về kinh xem mạch, kê đơn chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Sau đó một thời gian thì
chữa bệnh cho chúa Trịnh Sâm. Những điều Lê Hữu Trác mắt thấy tai nghe trong nhiều
chuyến đi từ Hương Sơn ra Thăng Long đã thôi thúc ông cầm bút


Năm 1783 ông viết xong tập “Thượng kinh kí sự” bằng chữ Hán. Tập kí sự này là một
tác phẩm văn học đích thực, đặc sắc giá, có giá trị sử liệu cao . Đoạn trích “Vào phủ chúa
Trịnh” trong sách Ngữ văn 11- Nâng cao, tập 1 (Nxb Giáo dục, 2007) thể hiện được đầy
đủ những nét độc độc đáo trong bút pháp kí sự của Lê Hữu Trác.


Như ta biết: kí là là tên gọi chung cho một nhóm thể loại có tính giao thoa giữa báo
chí với văn học. Kí viết về cuộc đời thực tại, viết về người thật, việc thật. Người viết kí
miêu tả thực tại theo tinh thần của sử học. Mẫu hình tác giả kí gần gũi với nhà sử học. Tác
giả kí coi trọng việc thuật lại có ngọn ngành và không bao giờ quên miêu tả khung cảnh.
Kí bao gồm nhiều thể văn như: bút ký, phóng sự, du kí, hồi kí, nhật kí, …Trong số đó kí
sự thiên về ghi chép chi tiết, tỉ mỉ sự việc - câu chuyện có thật. Tất nhiên đan xen vào


mạch tự sự cịn có những đoạn thể hiện nhận xét chân thực, tinh tường của nhà văn trước
sự việc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

tiếp cận cung cách sinh hoạt xa hoa của chúa Trịnh. Nhà văn quan sát tỉ mỉ, ghi chép
trung thực, tả cảnh sinh động, thuật việc khéo léo.


Mở đầu đoạn trích là một sự kiện cụ thể, chân thực. Tính chất kí trong bút pháp của
Lê Hữu Trác thể hiện rõ ở cách ghi tỉ mỉ sự việc, thời gian.


Nhà văn kết hợp biện pháp kể khách quan với nghệ thuật gợi khơng khí nhằm làm nổi
bật hành động khẩn trương, gấp gáp của nhân vật:


<i>“Mồng một tháng 2. Sáng tinh mơ, tôi nghe tiếng gõ cửa rất gấp. Tơi chạy ra mở</i>
<i>cửa. Thì ra một người đầy tớ quan Chánh đường….”.</i>


Ở đây “trong việc có người”, người gắn chặt với cảnh, với môi trường hoạt động cụ
thể. Câu văn của Lê Hữu Trác ngắn gọn, giàu thông tin, được viết ra một cách nhẹ nhàng,
tự nhiên, không một chi tiết thừa.


Lời văn giản dị, chắc mà bay bổng, vừa “truyền cảm” vừa truyền nhận thức. Người
đọc có thể hình dung được rất rõ một cảnh huống đặc biệt đang xảy ra.


Lần theo mạch tự sự, người đọc có cảm giác hồi hộp lo âu rồi bất ngờ nhận ra một
con người gần gũi, quen thuộc như cảm nhận của nhân vật “tôi” trong tác phẩm này.


Trước mắt ta: hình ảnh nhân vật tơi đã dừng bước với tâm trạng ngạc nhiên, thoáng
một chút thất vọng. Nhịp kể đột ngột chậm lại để ghi người, ghi việc rõ nét hơn, đầy đủ
hơn. Hai chữ “thì ra” vừa tạo ấn tượng về sự khám phá, vừa gọi ra được người thật, việc
thật .



Nhân vật “tôi” không hiện ra qua hình dáng cụ thể. Trước hết anh ta xuất hiện qua
giọng nói, qua cảm nhận về âm thanh, và rõ hơn ở hành động. Nhân vật “tôi”” xuất hiện
với tư cách một người trong cuộc, trực tiếp tham gia vào sự việc được miêu tả trần thuật.


Vì thế ngay từ đầu truyện người đọc đã có cảm giác đây khơng phải câu chuyện hư
cấu, mà chính là bức tranh cuộc sống đang hiện hữu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Lê Hữu Trác coi trọng việc kể lại có ngọn ngành. Nhà văn ưa sắp xếp sự việc cho đầy
đủ mạch lạc có đầu có cuối, nên dường như cứ một đoạn hay một câu nói về hành động
của tên đầy tớ lại tiếp đoạn tự thuật về hành động, cảm nhận của Lê Hữu Trác. <i>“Nghe</i>
<i>tiếng gõ cửa…..tôi chạy ra…”, “người đầy tớ nói…..tơi bèn”, “tên đầy tớ chạy…tơi bị</i>
<i>xóc một mẻ, khổ khơng nói hết”</i>. Mạch văn chặt chẽ nhờ sự thể hiện thành cơng cái lơ gíc
nhân quả của sự kiện, hành động. Ban đầu ta tưởng như nhân vật “tôi” chủ động, nhưng
càng đọc càng thấy nhân vật “tôi” bị cuốn vào hết sự việc này đến sự việc khác.


Mở đầu đoạn trích cấu trúc câu văn ngắn gọn. Mỗi câu văn tương ứng với một tâm
tình, một sự việc, hành động. Người đọc vừa đồng cảm với nỗi vất vả và hành động bất
đắc dĩ của nhân vật tôi vừa đồng tình với Lê Hữu Trác ở thái độ mỉa mai châm biếm sự
lộng quyền, tiếm lễ của chúa Trịnh Sâm lúc bấy giờ.


Quang cảnh và cung cách sinh hoạt trong phủ chúa được ghi lại khá tỉ mỉ qua con mắt
quan sát của một thầy thuốc lần đầu tiên bước chân vào thế giới mới lạ. Không gian nghệ
thuật của tác phẩm ngày càng được mở rộng hơn theo bước chân, và cách nhìn của nhân
vật xưng “tơi”. Bức tranh tồn cảnh về phủ chúa Trịnh khơng chỉ có bề rộng mà cịn có
chiều sâu, với một sức gợi mạnh mẽ.


Theo nhân vật “tôi” quanh cảnh ở phủ chúa cực kì xa hoa, tráng lệ - khơng ở đâu sánh
bằng: Khi vào phủ phải qua nhiều lần cửa với những hành lang quanh co nối tiếp nhau, ở
mỗi cửa đều có vệ sĩ canh gác. Khn viên phủ chúa rộng, có trạm dừng chân được kiến
trúc thật kiểu cách, với cảnh trí thiên nhiên kì lạ. Trong vườn, chim kêu ríu rít, danh hoa


đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Bên trong là những đại đường, gác tía với
kiệu son, võng điều. Đồ dùng của chúa được sơn son thiếp vàng, đồ dùng tiếp khách ăn
uống cũng đều là mâm vàng, chén bạc, của ngon vật lạ…. Đến nội cung của thế tử phải
trải qua 6 lần trướng gấm. Nơi ở của thế tử rất sang trọng, có sập thếp vàng, ghế rồng bày
nệm ấm, xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt…


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

cảnh, tả việc của Lê Hữu Trác ý tứ sâu xa, lời thơ hóm hỉnh, ẩn giấu một nụ cười châm
biếm, mỉa mai.


Lời nhận xét trong văn phẩm khá đa dạng: Trước tiên Lê Hữu Trác đánh giá khái quát
vẻ đẹp. Tiếp theo nhận xét về cảnh giàu sang. Tiếp nữa nêu ấn tượng về cách bày trí, kiến
trúc kiểu cách. Nhà văn dừng lại bình giá tỉ mỉ, sắc sảo các đồ dùng xa hoa từ nhà Đại
đường đến Gác tía. Lời đánh giá nào của lê Hữu Trác cũng đích đáng, tinh tế và có chừng
mực. Nói tác phẩm giàu chất trữ tình vì thế.


Tác giả quan sát các cơng trình kiến trúc, cảnh trí thiên nhiên qua hình khối, dáng vẻ
kích cỡ, tả khn viên chủ yếu qua những ấn tượng về hương thơm âm thanh, kể về mức
độ xuất hiện của thị vệ, quân sĩ để nhấn mạnh vẻ trang nghiêm của nơi đây. Lê Hữu Trác
đặc biệt ưa tả đường đi, lối vào phủ chúa. Ta có cảm tưởng đằng sau mỗi cánh cửa là một
bức tranh. Đoạn trích gồm nhiều bức tranh với những mảnh màu tối sáng, nhạt đậm khác
nhau, nối liền nhau .


Qua mấy lần cửa đầu tiên, trước mắt tác giả giống như một cảnh tiên huyền ảo, cây
cối um tùm, hương hoa thơ mộng. Đi tiếp, cảnh giàu sang của phủ chúa được bày ra chân
thật,đầy đủ hơn. Càng đi sâu vào trong, Lê Hữu Trác càng có dịp quan sát khơng gian nội
thất, không gian cao rộng của lầu gác với các đồ nghi trượng sơn son thếp vàng, nhất là
được biết cái phong vị của nhà đại gia.


“Vào phủ chúa Trịnh” trở thành một quá trình tiếp cận sự thật đời sống xa hoa vương
giả hơn là thăm bệnh, chữa bệnh. Thăm bệnh, chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán tưởng chỉ


như một cái cớ, một dịp may giúp người viết kí hồn thiện bức tranh về cuộc sống thâm
nghiêm, giàu sang đầy uy quyền.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Trong tư cách một người thầy thuốc quê mùa, nhân vật tôi luôn tỏ ra là một người hồ
nhã kính nhường, ham học hỏi y thuật của đồng nghiệp. Sự đối lập về vị thế so với các vị
lương y của sáu cung hai viện, không khiến nhân vật tôi trở nên nhỏ bé, trái lại càng tôn
cao hơn nhân cách và tài năng của nhân vật này. Vẻ đông đúc của lương y nơi triều đình
tự phơi bày hết sự thực ở phú chúa đang tồn tại một hệ thống quan lại bất tài, ăn bám.


Các nhà nho xưa ít khi nói về mình. Nhưng trong đoạn trích này, tác giả đã khơng
ngần ngại để cái “tơi” đóng một vai trị quan trọng. “Vào phủ chúa Trịnh” thể hiện trực
tiếp cái tôi cá nhân người cầm bút. Qua đoạn trích ta thấy tác giả Lê Hữu Trác là một thầy
thuốc giàu kinh nghiệm. Bên cạnh tài năng ơng cịn là một thầy thuốc có lương tâm và
đức độ. Lê Hữu Trác xem nghề thuốc vơ cùng thiêng liêng cao q, người làm thuốc phải
nối tiếp lịng trung của cha ơng mình, phải ln giữ đức cho trong, giữ lịng cho sạch. Lê
Hữu Trác yêu thích tự do, nếp sống thanh đạm. Vượt lên trên những danh lợi tầm thường
ông trở về hành đạo cứu đời với quan niệm: <i>“Thiện tâm cốt ở cứu người. Sơ tâm nào có</i>
<i>mưu cầu chi đâu/ Biết vui, nghèo cũng hơn giàu/ Làm ơn nào phải mong cầu trả ơn”</i>.


<b>Bài tham khảo 3</b>


Chúng ta thường biết đến Hải Thượng Lãn Ông là một người thầy thuốc thế nhưng
ơng cịn là một nhà văn nữa. Cuộc đời ơng sáng tác không nhiều những đã để lại những
tác phẩm có giá trị và giàu ý nghĩa. Tiêu biểu đó là tác phẩm vào phủ chúa Trịnh. Có thể
nói qua tác phầm ấy giá trị hiện thực được thể hiện rất rõ.


Trước hết vào phủ chứa Trịnh được xảy ra trong hồn cảnh triều đình chúa Trịnh Sâm
vời Lê Hữu Trác vào khám bệnh cho thái tử Trịnh Cán. Mặc dù bản thân không muốn
những ông vẫn phải vào theo lệnh chúa. Và những hiện thực nơi đây được nhìn qua con
mắt của ông khiến cho chúng ta thấy được cuộc sống nơi phủ chúa như thế nào.



Hiện thực phủ chúa được tác giả miêu tả theo quang cảnh của phủ chúa từ ngồi vào
trong, khơng những thế cịn là những cách thức trong cung nữa. Mọi thứ nơi đây hiện lên
thật sự rất cụ thể.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

cây cối ấy toàn những của quý, cây quý cả. Quý như thế mà trong phủ chúa lại có rất
nhiều rất um tùm nữa. Phải nói qua đây ta thấy cuộc sống nơi đầy giàu sang phú q.
Khơng chỉ có những loại cây quý hiếm để làm cảnh đẹp nơi đây thêm phần sang trọng mà
phủ chúa cịn có những lồi chim cũng quý nữa. Nào là danh hoa đua thắm nào là chim
kêu véo von. Có thể nói mới đặt chân vào phủ chúa mà tác giả đã vẽ lên những hiện thực
nơi phủ chúa sang trọng với những loại cây, lồi chim q hiếm. Đó hẳn là người giàu
sang lắm mới có thể trồng những danh hoa kia trong nhà.


Khơng những thế càng đi sâu vào trong phủ thì Lê hữu Trác càng vẽ lên khung cảnh
chúa với sự xa hoa mỹ lệ. Tác giả thấy nhưng không hám muốn danh lợi, đặc biệt ông
cũng thể hiện thái độ không thích sống một cuộc sống tiện nghi quá như thế. Phải chăng
chính vì tiện nghi q cho nên thế tử kia mới mắc bệnh tật. Khung cảnh phủ chúa được
tiếp tục thể hiện qua những đại đường, quyền bổng. Ở đây người ta thấy được những màu
vàng chói lọi. Có thể nói màu vàng thể hiện sự giàu sang phú q và chính vì thế mà
trong phủ chúa những vật từ nhỏ cho đến lớn đều được sơn son thiếp vàng. Cuộc sống vua
chúa nơi đây quả thật chẳng khác nào thiên đường mà nhiều người muốn. Từ những cây
cột ở đại đường đều được sơn thếp sơn vàng. Hay là những đũa chén, mâm ăn cơm,
những vật dụng tưởng chừng nhỏ bé bình thường ấy cũng được mạ vàng. Nếu như có
những mâm vàng chén bạc q giá thì người ta chỉ để làm vật quý giá trưng bày mà thôi
thế mà ở đây là một vật dụng để ăn cơm. Có được một thứ mạ vàng hay bằng vàng là một
sự quý giá lắm rồi thế mà ở đây từ vật to đến vật lớn đều là vàng cả. Cuộc sống hiện lên
thật sự đầy đủ và giàu sang.


Không những thế cung cách trong cung cũng phần nào thể hiện được giá trị hiện thực
của tác phẩm này. Để vào được trong cung thì phải qua nhiều lần bẩm báo trong phủ thì


mới được vào. Những thứ của chúa thì gọi là thánh giống như là nhà vua vậy. Lê Hữu
Trác vào cung vì có thánh chỉ cũng cần phải qua nhiều cửa mới đến nơi. Mọi người ở đây
cung kính với chúa. Riêng bản thân chúa Trịnh Sâm thì có biết bao nhiêu là cung tần mĩ
nữ vây quanh mình để chờ được hầu hạ ngài. Có thể nói cuộc sống ấy đúng là cách sống
của những bậc vua chúa. Tuy nhiên sống như thế thì lấy tiền ở đâu ra?.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

trong cung vậy thôi nhưng những người ngự y dù đã rất già cũng phải vái lạy thái tử rồi
mới được bắt mạch kê đơn. Căn phòng ấy cũng khá lộng lẫy, thái tử thì ở sau những bức
chướng gấm quý giá như để che chở lấy tấm thân gọi là ngọc ngà kia. Những ngự y túc
trực quanh đó và cuối cùng Lê hữu Trác đã tìm ra phương thuốc để chữa bệnh cho Trịnh
Cán.


Trước những sự phản đối của đa số những thầy thuốc trong cung Lê Hữu Trác vẫn thể
hiện sự uyên thâm của bản thân mình khiến cho những ngự y kia phải khâm phục.


Qua đây ta thấy rõ ràng cuộc sống ăn chơi xa hoa nơi phủ chúa. Trả lời cho câu hỏi
vậy những cây cối um tùm danh hoa đua thắm kia là ở đâu ra?, tiền đâu mà có thể có cuộc
sống ăn chơi như thế?. Có thể khẳng định tiền chính là những cống nộp của nhân dân.
Trong tình hình đất nước chia làm hai như thế những chúa Trịnh không lo cuộc sống cho
dân, trị được nước và đi vào lòng dân chúng mà ở đây chúa lại có cuộc sống chỉ biết ăn
chơi hưởng lạc. Qua đây ta thấy được hiện thực đất nước ta trong những năm ấy, trong
khi nhân dân sống một cách khổ cực thì chúa lại có một cuộc sống khơng ai sánh bằng.


Như vậy qua đoạn trích vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác chúng ta thấy tác phẩm
này thấm nhuần giá trị hiện thực của xã hội Việt nam những năm ấy. Cuộc sống vua chúa
ăn chơi, xa đọa hưởng lạc thú mà quên đi nhiệm vụ trị an đất nước của mình.


<b>Bài tham khảo 4</b>


Nhà văn Stanhdal đã từng viết: “Văn chương là tấm gương phản chiếu đời sống xã


hội”. Văn chương mang sứ mệnh của mình là phản ánh hiện thực “nhà văn là thư kí trung
thành của thời đại”. Cũng giống như các thể loại văn học khác, thể kí đã ghi chép trung
thực lại bối cảnh một thời đại của dân tộc. Thể kí trưởng thành thực sự có những nét phát
triển mới ở thế kỉ XVIII với tác phẩm “Thượng kinh kí sự” của Lê Hữu Trác. Tác phẩm
viết về những điều mà tác giả được chứng kiến khi trên đường vào kinh chữa bệnh cho
Thế tử Trịnh Cán. Tiêu biểu là đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” nằm ở phần đầu mang
giá trị hiện thực sâu sắc phản ánh và phê phán cuộc sống xa hoa, quyền quý nơi phủ chúa
đồng thời thể hiện cái nhìn và thái độ sống của tác giả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

tượng đó có thể đồng nhất với thực tại cuộc sống hoặc ít nhiều bị khúc xạ đi bởi lăng kính
tâm hồn của nhà văn. Cùng với giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực làm nên sức sống lâu
bền của tác phẩm văn học, lưu danh mn thở tên tuổi của nhà văn chân chính.


Lê Hữu Trác vốn là một con người “lánh đục về trong” giữa thời buổi loạn lạc, sống trong
một thời đại mục nát ông không màng danh lợi trở về quê ngoại Hương Sơn (Hà Tĩnh) để
chữa bệnh và mở lớp dạy nghề thuốc. Vì tài năng y thuật nổi tiếng mà ông được mời vào
phủ chúa Trịnh chữa bệnh cho Thế tử.


Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” là một bức tranh hiện thực về cuộc sống sang trọng,
quyền uy ở Trịnh phủ với quang cảnh lộng lẫy, xa hoa được tác giả miêu tả chi tiết, tỉ mỉ.
“Đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang
thoảng mùi hương”. Một khung cảnh nên thơ chữ tình, làm say đắm lịng người. Lê Hữu
Trác phải thật là con người có một tâm hồn tinh tế mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp như
tiên cảnh nơi đây. Cùng với đó là một cái nhìn bao quát của “những dãy hành lang quanh
co nối nhau liên tiếp”. Một cung điện nguy nga, tráng lệ hiện ra trước mắt với sự giàu
sang của vua chúa khác hẳn với người thường. Qua mấy lần của mới đến cái điếm trong
ấy có những cây, những hịn đá lạ rồi cột và bao lơn lượn vòng với kiểu cách rất là xinh
đẹp. Tác giả vốn là con nhà quan sinh trưởng ở chốn phồn hoa đô hội nhưng đây là lần
đầu tiên được vào phủ Chúa nên rất ngỡ ngàng, ngạc nhiên có rất nhiều thứ chưa từng
thấy.



</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”


Cứ ngỡ rằng cuộc sống sung túc thì mọi thứ đều tốt đẹp nhưng khơng khí nơi đây lại
khơng hề được trong lành, dù có mùi hương ngào ngạt ấy thế mà lại tù đọng, ngột ngạt vơ
cùng. Chính điều đó là nguyên nhân khiến cho Thế tử_con trời mà mắc bệnh mãi khơng
khỏi. “Vì thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên phủ tạng
yếu đi.” Một con người sống trong nhung trong lụa, ăn sơn hào hải vị mà không vận động
khơng bệnh ắt cũng phải có bệnh. Đây là căn bệnh của người nhà giàu. Tác giả thật tinh
tường khi đã sớm nhận ra cái “khiếm khuyết” ở một nơi tưởng chừng như hoàn hảo nhất
của “Cả trời Nam sang nhất là đây”.


Cuộc sống cung cách sinh hoạt nơi phủ chúa cũng chẳng khác gì hồng cung, mọi thứ đều
đi theo một trật trự, quy củ phép tắc nghiêm ngặt. “Người giữ cửa truyền báo rộn ràng,
người có việc quan qua lại như mắc cửi.Vệ sĩ canh giữ cửa cung, ai muốn ra vào phải có
thẻ”, “Lính nghìn cửa vác địng nghiêm ngặt’ là vậy. Điều đó cho thấy quyền uy của chúa
thật to lớn. Muốn gặp được thế thử đâu phải dễ dàng phải đi qua năm, sáu lần chướng
gấm, phải lạy bốn lạy mới được lui ra. Những luật lệ sinh hoạt nơi đây làm cho tác giả
dường như có phần rụt rè, e ngại mất tự nhiên khi thì chỉ dám “ngước mắt nhìn rồi lại cúi
đầu”, khi thì “nín thở” rồi lại “khúm núm”.


Vì những lẽ ấy lại thêm chẳng màng danh lợi mà cuộc đấu tranh nội tâm diễn ra cam go ở
khoảnh khắc kê đơn thuốc. Nếu chữa khỏi ngay thì phải ở lại mà khơng thể về núi nhưng
chẳng thể vì mong muốn cá nhân mà quên đi chữ “Trung” của người làm phận bề tôi, chữ
“Đức”của người nghề thầy thuốc một lịng vì việc cứu chữa bệnh khơng phân biệt giàu
sang hay nghèo hèn, người tốt hay kẻ xấu


“Thiện tâm cốt ở cứu người



Sơ tâm nào có mong cầu chi đâu”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

hoạt làm cho hiện thực càng trở nên thực hơn và thu hút, lôi cuốn người đọc. Nếu như bút
pháp đặc trưng của văn học trung đại là miêu tả ước lệ tượng trưng, khn mẫu quy phạm
thì trong đoạn trích tác giả đã thực hiện “giải quy phạm” khơng cịn những cơng thức
nghiêm ngặt mà trở về với cuộc sống hiện thực với những điều tai nghe mắt thấy.


“Con ơi nhớ lấy câu này


Cướp đêm là giặc cướp ngày là quan”


Bọn vua chúa phong kiến đa số đều là những tên cướp ngày. Chúng cướp của, cướp sức,
cướp cơng, cướp chí của nhân dân ta một cách trắng trợn bằng những thủ đoạn cơng khai
để vinh thân phì gia, để hưởng thụ cuộc sống.


Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” mang giá trị hiện thực sâu sắc một mặt phê phán lối
sống xa hoa, giàu sang với quyền uy tột bậc nơi Trịnh phủ, một mặt đồng cảm thương xót
cho số phận và cuộc sống của những người dân nghèo. Qua đó cũng cho thấy nhân cách
cao thượng, tấm lòng y đức và lối sống thanh cao của Lê Hữu Trác là tấm gương sáng cho
ngành y bác sĩ, xứng đáng là ông tổ của nghề thuốc được người đời sau nhắc đến với một
lịng thành kính nhất.


<b>Bài tham khảo 5</b>


Hải Thượng Lãn Ơng Lê Hữu Trác được biết đến khơng chỉ với danh tiếng của một danh
y lỗi lạc, nhân từ và một ẩn sĩ thanh cao, cứng cỏi mà còn là tác giả của cuốn "Thượng
kinh kí sự" nổi tiếng. Đầu năm 1782, do danh tiếng y thuật vang xa, ông được lệnh triệu
ra kinh đô để chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh Sâm. Nhờ những tư liệu, ghi
chép trong chuyến đi, ơng đã hồn thành tác phẩm "Thượng kinh kí sự" với giá trị hiện
thực sâu sắc. "Vào phủ chúa Trịnh" là một trong những trích đoạn đặc sắc thể hiện rõ điều


này bằng việc lên án, tố cáo cuộc sống xa hoa, quang cảnh lộng lẫy cùng những tầng lớp
vua quan trong bộ máy xã hội phong kiến.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

với kiệu son, võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng và "những đồ đạc nhân gian
chưa từng thấy" cùng "mâm vàng, chén bạc" được dùng lúc tiếp khách ăn uống. Tất cả
khung cảnh vàng son lộng lẫy xa hoa của phủ chúa đã được phóng chiếu qua đơi mắt và
sự quan sát, tinh tế và tỉ mỉ của tác giả.


Không chỉ dừng lại ở đó, giá trị hiện thực của tác phẩm cịn được tạo nên thơng qua
những chi tiết về cung cách sinh hoạt trong phủ chúa. Ngay từ lúc tác giả lên cáng vào
phủ theo lệnh chúa thì điều này đã được làm nổi bật: "có tên đầy tớ chạy đằng trước hét
đường" và "cáng chạy như ngựa lồng". Khi đặt chân vào phủ chúa, tác giả quan sát thấy
cảnh tượng "người giữa cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi".
Quang cảnh đó đã khiến cho tác giả khơng khỏi ngạc nhiên:


"Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm nhặt
Cả trời Nam sang nhất là đây"


Câu thơ của tác giả đã minh chứng rõ thêm về quyền uy nơi phủ chúa. Chính ơng cũng đã
bộc bạch trước cảnh xa hoa đó rằng: "Mình vốn cũng là con em nhà quan, sinh trưởng nơi
phồn hoa, khắp chốn trong cấm thành, chỗ nào cũng từng quen thuộc, duy có quang cảnh
phủ chúa thì chỉ được nghe nói tới mà thôi. Nay được đến đây, mới biết hết là sự giàu
sang của vua chúa, quả là không ai sánh kịp". Những câu thơ hay lời bình luận của tác giả
cũng đã làm nổi bật giá trị về mặt thời gian nghệ thuật của tác phẩm. Đó là sự xuất hiện
của thời gian tâm lí. Bên cạnh thời gian vật lí là những con số về ngày giờ, năm tháng và
niên hiệu, tác giả cịn dành ra những khoảng khơng để chiêm nghiệm về các sự kiện đã
diễn ra, khiến cho mỗi một sự miêu tả trong tác phẩm đều chứa đựng những suy nghĩ và
cảm xúc của tác phẩm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

bệnh ngu dốt, nhưng ảo tưởng, tham lam và nhỏ nhen. Đó là đám "y lại" chuyên đố kị,


dèm pha lẫn nhau, khơng vì đạo làm thuốc mà vì danh lợi. Bằng những nét bút miêu tả
khá tự nhiên, chân thực, Hải Thượng Lãn Ông đã bắt mạch, lên đơn những căn bệnh của
chế độ phong kiến lúc bấy giờ. Bên ngoài lớp vỏ bọc hoàn hảo của quang cảnh xa hoa
lộng lẫy và cung cách sinh hoạt đầy quyền uy, hịa nhống và thịnh trị là những mầm
bệnh đang phát tác, thể hiện sự mục rỗng và báo hiệu sự khủng hoảng tất yếu của chế độ
xã hội phong kiến đương thời.


Giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm "Vào phủ chúa Trịnh" đã làm nên tính chân thực
của "Thượng kinh kí sự" qua bút pháp kí sự vơ cùng đặc sắc của tác giả. Đó là sự kết hợp
thành công của đôi mắt quan sát tỉ mỉ cùng ngòi bút ghi chép trung thực, tả cảnh sinh
động, ngay cả những chi tiết nhỏ nhất để tạo nên cái thần của cảnh và vật thấm đẫm trong
từng con chữ và xuyên suốt trang văn.


Thông qua giá trị hiện thực của tác phẩm, độc giả còn thấy được giá trị nhân đạo ẩn chứa
một cách sâu sắc. Bằng sự quan sát và ghi chép về quang cảnh xa hoa lộng lẫy, tác giả đã
gián tiếp thể hiện sự đồng cảm, thương xót đối với cuộc sống cơ cực, lầm than của nhân
dân. Bức tranh về xã hội phong kiến đã được phác họa trong sự đối lập giữa đời sống của
tầng lớp quan lại và cuộc sống của những người dân. Thông qua tác phẩm này, chúng ta
càng thấm thía hơn nữa câu ca quen thuộc của người xưa về sự tàn bạo và trắng trợn trong
lối sống của đại đa số tầng lớp quan lại:


"Con ơi nhớ lấy câu này


Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan".
<b>Bài làm 6</b>


<i>"Con ơi nhớ lấy câu này</i>


<i>Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan".</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh có một giá trị hiện thực sâu sắc khi phản ánh được cuộc
sống xa hoa, giàu sang, quyền uy tột bậc của nhà chúa.


Thượng kinh kí sự nguyên văn bằng chữ Hán, được Lê Hữu Trác viết năm 1782, nội
dung ghi lại những điều mà tác giả tai nghe mắt thấy trong những lần được vời ra kinh
đô Thăng Long chữa bệnh cho cha con chúa Trịnh Sâm. Qua những trang viết sinh động
và sắc sảo, tác giả đã phản ánh chân thực cuộc sống xa hoa của tầng lớp vua chúa phịng
kiến, đồng thời kín đáo bày tỏ thái độ thờ ơ, coi thường danh lợi của mình. Lê Hữu Trác
sử dụng người trần thuật ngơi thứ nhất,trực tiếp tiếp cận cung cách sinh hoạt xa hoa của
chúa Trịnh. Nhà văn quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động, thuật việc
khéo léo.


Mở đầu bài kí là Khung cảnh giàu sang, đẹp đẽ hiếm có cùa phủ chúa Trịnh được tác giả
miêu tả trực tiếp qua quan sát và miêu tả gián tiếp qua ấn tượng mà nó gây ra trong lịng
tác giả: Tơi ngẩng đầu lên: đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa
đua thấm, gió đưa thoang thoảng mùi hương… Tơi nghĩ bụng: Mình vốn con quan, sinh
trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã từng biết Chỉ có những
việc trong phủ chúa là mình chỉ mới nghe nói thơi. Bước chân đến đây mới hay cảnh
giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường!


Quang cảnh và cung cách sinh hoạt trong phủ chúa được ghi lại khá tỉ mỉ qua con mắt
quan sát của một thầy thuốc lần đầu tiên bước chân vào thế giới mới lạ. Không gian nghệ
thuật của tác phẩm ngày càng được mở rộng hơn theo bước chân, và cách nhìn của nhân
vật xưng "tơi" . Bức tranh tồn cảnh về phủ chúa Trịnh khơng chỉ có bề rộng mà cịn có
chiều sâu, với một sức gợi mạnh mẽ.


Tuy được mời nhưng vị danh y cũng chỉ được đưa vào phủ bằng lối cửa sau, mỗi bước
đều có người của phủ chúa đi theo. Trên đường đi, ông để ý ghi nhận từng sự vật: Đi
được vài trăm bước, qua mấy lần cửa mới đến cái điếm "Hậu mã quân túc trực". Điếm
làm bên cái hồ, có những cái cây lặ lùng và những hịn đá kì lạ. Trong điếm cột và bao


lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp.


Càng vào sâu bên trong, sự ngạc nhiên của tác giả càng lớn:


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

vàng. Trên sập mắc một cái võng điều. Trước sập và hai bên, bày bàn ghế, những đổ đạc
nhân gian chưa từng thấy… Lại qua một cửa nữa, đến một cái lầu cao và rộng. Ở đây,
cột đều sơn son thếp vàng. Đúng là cảnh lầu son gác tía, cung bạc lầu vàng mà dân
chúng chĩ có thể thấy trong truyện thần tiên hoặc trong tưởng tượng mà thôi.


Khung cảnh trong phủ chúa đã được Lê Hữu Trác khái qt qua mấy câu thơ tức cảnh:
<i>Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm nhặt,</i>


<i>Cả trời Nam sang nhất là đây!</i>
<i>Lầu từng gác vẽ tung mây,</i>


<i>Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.</i>


Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa lại càng khác xa chốn dân gian. Lần đầu tiên trong
đời, với tư cách là khách mời, tác giả được dùng cơm bằng mâm vàng, chén bạc, đồ ăn
toàn là của ngon vật lạ … Khơng một lời bình luận, tác giả để các chi tiết tự toát lên ý
nghĩa hiện thực sâu xa của nó. Thời kì này, chế độ phong kiến lâm vào tình trạng khủng
hoảng, rối ren. Vua Lê nhu nhược chỉ cịn đóng vai trị bù nhìn, mọi quyền lực chính trị
đều rơi vào tay chúa Trịnh, mà chúa Trịnh thì lộng hành, ăn chơi xa xí, hoang dâm vơ
độ. Trong khi đó, dân chúng sống lầm than cơ cực, tiếng oán thán vang lên khắp hang
cùng ngõ hẻm. Quyền lợi của vua chúa không còn đồng nghĩa với quyền lợi của quốc
gia, dân tộc. Vì thế mà người người bất bình. Phong trào khởi nghĩa nơng dân chống lại
triều đình nổi lên ị khắp nơi. Do có nhận thức đúng đắn vể bản chất của triều đình
phong kiến đương thời nên Lê Hữu Trác dứt khoát quay lưng trước con đường hoạn lộ
đầy cám dỗ của danh lợi, phú quý nhưng vinh liền nhục và cũng đầy hiểm hóc.



</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt Xem chừng Thánh thượng thường thường
vẫn ngồi trên ghế rồng này, nay người rút lui vào màn để tồi xem mạch Đông cung cho
thật kĩ:


Qua hình dáng và bệnh tình của Đơng cung thế tử được tác giả miêu tả khá kĩ, người
đọc cớ thể liên tưởng đến tình trạng suy thối của triều đình phong kiến Việt Nam thời
đó: … thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu
đi. vả lại, bệnh mắc đã lâu, tinh khí khơ hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, tay
chân gầy gị. Đó là vì ngun khỉ đã hao mòn, thương tổn quá mức. Quả là chế độ phong
kiến tồn tại hàng ngàn năm nay đã già cỗi, lạc hậu và khó bề cứu chữa.


Vốn là một người thông minh, Lê Hữu Trác đắn đo rất kĩ trong cách chữa bệnh cho thế
tử. Ý kiến của các thầy thuốc trong cung ông nghe ch? để tham khảo. Từ thực trạng bệnh
tình và thể lực của thế tử, ơng phân tích, cân nhắc thiệt hơn rồi tìm ra cách chữa phù hợp
nhất: Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải
dùng thuốc thật bổ để bổi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn
gốc cho cái hậu thiên. Chính khí ở trong mà thắng thì bệnh ở ngồi sẽ tự nó tiêu dần,
không trị bệnh mà bệnh sẽ mất.


Điều thú vị hơn cả là nếu suy ngẫm kĩ, chúng ta sẽ thấy nội dung tờ khải của danh y Lê
Hữu Trác nói về cách chữa bệnh cho thế tử nhưng lại chứa đựng một nhận xét cực kì
chính xác về thực trạng của triều đình phong kiến đương thời và đưa ra phương thức
chữa trị những căn bệnh trầm kha của nó: Chầu mạch, thấy sáu mạch tế, sác và vơ lực,
hữu quan yếu, hữu xích lại càng yếu hơn. Ấy là tì âm hư, vị hỏa quá thịnh, khơng giữ
được khí dương, nên âm hoả đi càn. Vì vậy( bên ngồi thấy cổ trướng, đó là tượng trưng
ngồi thì phù, bên trong thì trống. Nên bổ tì thổ thì yên…


Danh y Lê Hữu Trác thừa sáng suốt để kê một phương thuốc hồ hỗn cho thế tử vì sợ
nếu mình làm kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, khơng làm sao về núi được
nữa. Là một bậc chân Nho, ông tỏ ra nắm rất vững lẽ xuất xử của người qn tử. Quyết


định lánh xa vịng danh lợi của ơng trong hồn cảnh ấy là vơ cùng đúng đắn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

tự do quan sát ngắm nhìn mà cả những kẻ hầu cận chúa cũng đưa ta thâm nhập, khám
phá sự thật ở "Đông cung". Những đoạn nhân vật tôi độc thoại tốt lên cái nhìn sắc sảo
và sự cảm nhận tinh tế. Những đoạn kể tả, cho thấy nhân vật tôi bao quát được một
không gian rộng lớn, nắm bắt được thần thái, bản chất của sự vật hiện tượng. Trong tư
cách một người thầy thuốc quê mùa, nhân vật tơi ln tỏ ra là một người hồ nhã kính
nhường, ham học hỏi y thuật của đồng nghiệp . Sự đối lập về vị thế so với các vị lương y
của sáu cung hai viện,không khiến nhân vật tôi trở nên nhỏ bé, trái lại càng tôn cao hơn
nhân cách và tài năng của nhân vật này . Vẻ đơng đúc của lương y nơi triều đình tự phơi
bày hết sự thực ở phú chúa đang tồn tại một hệ thống quan lại bất tài, ăn bám .


Các nhà nho xưa ít khi nói về mình. Nhưng trong đoạn trích này,tác giả đã khơng ngần
ngại để cái "Tơi" đóng một vai trị quan trọng. "Vào phủ chúa Trịnh" thể hiện trực tiếp
cái tôi cá nhân người cầm bút. Qua đoạn trích ta thấy tác giả Lê Hữu Trác là một thầy
thuốc giàu kinh nghiệm. Bên cạnh tài năng ơng cịn là một thầy thuốc có lương tâm và
đức độ. Lê Hữu Trác xem nghề thuốc vô cùng thiêng liêng cao q,người làm thuốc phải
nối tiếp lịng trung của cha ơng mình,phải ln giữ đức cho trong, giữ lịng cho sạch. Lê
Hữu Trác u thích tự do, nếp sống thanh đạm. Vượt lên trên những danh lợi tầm thường
ông trở về hành đạo cứu đời với quan niệm: "Thiện tâm cốt ở cứu người. Sơ tâm nào có
mưu cầu chi đâu/ Biết vui, nghèo cũng hơn giàu/ Làm ơn nào phải mong cầu trả ơn".
"Vào phủ chúa Trịnh" trở thành một quá trình tiếp cận sự thật đời sống xa hoa vương
giả hơn là thăm bệnh,chữa bệnh. Thăm bệnh, chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán tưởng chỉ
như một cái cớ, một dịp may giúp người viết kí hồn thiện bức tranh về cuộc sống thâm
nghiêm, giàu sang đầy uy quyền. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh mang giá trị hiện thực
sâu sắc. Bằng tài quan sát tinh tế và ngòi bút ghi chép chi tiết, chân thực, tác giả đã vẽ lại
một bức tranh sinh động về cuộc sông xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh, đồng thời cũng
bộc lộ thái độ coi thường lợi danh của mình. Đối với ơng thì khơng có gì q bằng cuộc
sống tự do nơi non xanh nước biếc chốn quê nhà, được đem hết tài năng, nhiệt huyết
cống hiến cho y thuật và cứu nhân độ thế. Cuộc sống nơi cung vua, phủ chúa dẫu giàu


sang phú quý tột bậc nhưng rốt cục cũng ch? là vào luồn ra cúi, cá chậu chim lồng mà
thôi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Hải Thượng Lãn Ơng - Lê Hữu Trác ngồi việc là một thầy thuốc nổi tiếng với tác phẩm
Hải Thượng y tơng tâm lĩnh, thì bản thân ơng cũng là một người có tài văn chương, với
những đóng góp đáng ghi nhận trong nền văn học Việt Nam. Một trong những cuốn nổi
tiếng nhất trong bộ sách trên của ơng đó là Thượng kinh ký sự. Ở đó ta sẽ có cơ hội được
nhìn lại lịch sử Việt Nam thê kỷ 18, một thời kỳ mà ở đó có sự phân tranh gay gắt giữa
vua Lê và chúa Trịnh. Người ta ví rằng một triều đình có hai hồng cung cùng song song
tồn tại, điều đó đã đẩy cuộc sống nhân dân vào cảnh khốn cùng. Ta sẽ được tìm hiểu về
một trong hai hồng cung quyền uy, xa hoa tột bậc đó, chính là phủ chúa Trịnh qua lời
của Lê Hữu Trác trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh.


Lê Hữu Trác (1724-1791), hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, quê cha ở Trấn Hải Dương
(Hưng Yên), quê mẹ ở huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh. Ông vừa là một danh y lỗi lạc, vừa
là một nhà văn tài hoa. Tác phẩm của ơng chỉ có một bộ duy nhất là Hải Thượng y tông
tâm lĩnh, rất đồ sộ, là tâm huyết của cả cuộc đời ông viết trong gần 40 năm trời bền bỉ.
Thượng kinh ký sự là quyển vĩ của bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh, viết nhân sự kiện
chúa Trịnh Sâm mời Lê Hữu Trác ra kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán, cuốn sách
chính là kết quả của chuyến đi này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Thế rồi khi bước vào nội cung, Lê Hữu Trác mới biết được cái cung cấm giàu sang
nghiêm ngặt đến như thế nào. Khắp nơi nơi là đình đài, lầu các cao rộng, cảnh cung cấm
được sơn son thếp vàng tỉ mỉ, rực rỡ, chưa kể những đồ vật bày biện bên trong toàn là
những thứ “nhân gian chưa từng thấy”. Rồi thì khơng khí ngào ngạt các mùi hương thơm
của nến, của hoa nhưng lại mang đến cảm giác tù đọng, ngột ngạt vô cùng, thứ nhất là vì
cái khơng khí thâm nghiêm, thứ hai là vì cái vẻ tráng lệ xa hoa phi thực quá mức, khiến
cho mọi thứ khơng cịn giữ được vẻ đẹp tự tại ban đầu. Như vậy, qua đôi mắt quan sát
tinh tường của Lê Hữu Trác ta đã thấy quang cảnh phủ Chúa hiện lên một cách chân
thực và sinh động. Đó là một nơi xa hoa, tráng lệ, rực rỡ, không một nơi nào có thể sánh


bằng, tuy nhiên cái đẹp vượt quá mức thường khiến cho cuộc sống vương giả trở nên
ngột ngạt, tù hãm, dường như mất đi cái phần sinh khí tự nhiên của sự sống.


Đó là về cảnh sắc, về cung cách sinh hoạt nơi phủ chúa ta lại càng thấy được cái mức độ
xa xỉ tột cùng của đấng bề trên lúc bấy giờ. Một mâm cơm để mời các ngự y mà cái chén
cái bát nào cũng bằng vàng, bằng bạc, đồ ăn thì toàn của ngon vật lạ, Lê Hữu Trác thầm
nghĩ “bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”. Rồi thì đường vào phịng bệnh của
thế tử tuyệt nhiên chẳng có một cái cửa nào, mà được phủ bởi năm sáu lần trướng gấm,
cách biệt với bên ngoài. Trong phịng chỉ có một thế tử cùng với chúa vậy mà một đám
người hầu, rồi lại một đám cung nhân chầu trực dù chẳng mấy khi có việc cần. Cũng
chính cái lối sống, sung sướng xa hoa tột độ, nhưng ngột ngạt tù túng ấy đã khiến một
đứa trẻ mới năm sáu tuổi mắc bệnh nặng. Lúc này đây màn che trướng phủ, sơn hào hải
vị, lụa là gấm vóc lại cũng đang khiến con người ta trở nên bệnh tật, thế mới có câu cái
gì q cũng khơng tốt, là vậy.


Rồi thì căn nguyên bênh tật của thế tử cũng là lời sâu xa của Lê Hữu Trác về tình hình
đất nước lúc bấy giờ, “ngun khí đã hao mịn, thương tổn q mức”, khó có thể chữa
chạy. Ông đắn đo rất nhiều trong lúc chữa bệnh cho thế tử, không phải là không chữa
được mà cốt là ông sợ mình bị giữ chân, bị cuốn vào cái vịng danh lợi luẩn quẩn khơng
thể thốt thân được. Cuối cùng, ơng kê một phương thuốc hịa hỗn cho thế tử, bệnh sẽ
khỏi nhưng lại không hết ngay và ông có thể an tâm rút về núi tiếp tục hành nghề mà
không phải hổ thẹn với ơn nghĩa quốc gia bao đời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

hao tột bậc của chúng, để nhân dân phải sống trong cảnh lầm than, kêu trời không thấu,
kêu đất chẳng hay. Lúc này đây cảnh cung cấm tráng lệ nơi phủ Chúa chính là nỗi đau
của của nhân dân, là cái xiềng xích đang ngày đêm đang áp lên đôi vai gầy của những
người dân cùng khổ. Đồng thời đoạn trích cũng là tấm lịng coi thường danh vọng của Lê
Hữu Trác, vị danh y ấy chỉ yêu tha thiết cái cảnh thanh bình, tự do nơi quê nhà, được
hành y cứu người. Còn cái cuộc sống tuy xa hoa, sung sướng kia tuy hào nhống như rốt
cục cũng phải chịu luồn cúi, khn phép thì có hay ho gì đâu.



<b>Bài làm 8</b>


Với lối viết theo thể ký, ghi chép lại những người thật việc thật, đoạn trích Vào phủ chúa
trịnh giúp cho ta có được một tài liệu quý vào thời vua Lê chúa ,Trịnh mà cho tới nay
tồn bộ di tích này hầu như đã biến mất…


Lê Hữu Trác xuất thân trong một gia đình q tộc, giỏi binh thư, võ nghệ. Làm quan
dưới thời chúa Trịnh được một thời gian,ông nhận thấy xã hội thối nát,cương thường
lỏng lẻo, nhân khi người anh ở Hương Sơn mất (1746), ông liền viện cớ cáo quan về
ni mẹ già. Từ đó ơng chun nghiên cứu y học vừa chữa bệnh cứu đời, vừa soạn sách
và mở trường dạy học truyền bá y đức, y lí,y thuật.


Ngày 12 tháng giêng năm Cảnh Hưng 43(1782),Lê Hữu Trác nhận được lệnh chúa triệu
về kinh xem mạch, kê đơn chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Sau đó một thời gian thì
chữa bệnh cho chúa Trịnh Sâm. Những điều Lê Hữu Trác mắt thấy tai nghe trong nhiều
chuyến đi từ Hương Sơn ra Thăng Long đã thôi thúc ông cầm bút.


Năm 1783 ơng viết xong tập “Thượng kinh kí sự” bằng chữ Hán. Tập kí sự này là một
tác phẩm văn học đích thực, đặc sắc giá, có giá trị sử liệu cao . Đoạn trích “ Vào phủ
chúa Trịnh” trong sách Ngữ văn 11-Nâng cao,tập 1(Nxb.Giáo dục,H,2007) thể hiện được
đầy đủ những nét độc độc đáo trong bút pháp kí sự của Lê Hữu Trác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

tự sự cịn có những đoạn thể hiện nhận xét chân thực,tinh tường của nhà văn trước sự
việc.


Đoạn trích “ Vào phủ chúa Trịnh” vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa
quyền quý của chúa Trịnh. Lê Hữu Trác sử dụng người trần thuật ngôi thứ nhất,trực tiếp
tiếp cận cung cách sinh hoạt xa hoa của chúa Trịnh. Nhà văn quan sát tỉ mỉ, ghi chép
trung thực, tả cảnh sinh động, thuật việc khéo léo.



Mở đầu đoạn trích là một sự kiện cụ thể, chân thực. Tính chất kí trong bút pháp của Lê
Hữu Trác thể hiệnrõ ở cách ghi tỉ mỉ sự việc, thời gian.


Nhà văn kết hợp biện pháp kể khách quan với nghệ thuật gợi khơng khí nhằm làm nổi
bật hành động khẩntrương,gấp gáp của nhân vật:


“Mồng một tháng 2. Sáng tinh mơ, tôi nghe tiếng gõ cửa rất gấp. Tôi chạy ra mở cửa .
Thì ra một người đầy tớ quan Chánh đường….” .


Ở đây “trong việc có người”, người gắn chặt với cảnh,với môi trường hoạt động cụ thể.
Câu văn của Lê Hữu Trác ngắn gọn, giàu thông tin, được viết ra một cách nhẹ nhàng, tự
nhiên,không một chi tiết thừa.


Lời văn giản dị, chắc mà bay bổng, vừa “truyền cảm” vừa truyền nhận thức.Người đọc
có thể hình dung được rất rõ một cảnh huống đặc biệt đang xảy ra.


Lần theo mạch tự sự, người đọc có cảm giác hồi hộp lo âu rồi bất ngờ nhận ra một con
người gần gũi, quen thuộc như cảm nhận của nhân vật “ Tôi” trong tác phẩm này.


Trước mắt ta: hình ảnh nhân vật tơi đã dừng bước với tâm trạng ngạc nhiên, thống một
chút thất vọng. Nhịp kể đột ngột chậm lại để ghi người, ghi việc rõ nét hơn, đầy đủ hơn.
Hai chữ “thì ra” vừa tạo ấn tượng về sự khám phá, vừa gọi ra được người thật,việc thật.
Nhân vật “tôi” khơng hiện ra qua hình dáng cụ thể. Trước hết anh ta xuất hiện qua giọng
nói, qua cảm nhận về âm thanh, và rõ hơn ở hành động. Nhân vật “tôi”” xuất hiện với tư
cách một người trong cuộc, trực tiếp tham gia vào sự việc được miêu tả trần thuật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

liệu đời thường, đời tư. Chẳng hạn lời đối thoại của nhân vật người đầy tớ được thể hiện
một cách tự nhiên, đúng với vị thế chức phận của hắn: “có thánh chỉ triệu cụ vào. Quan
truyền mệnh hiện đang ở nhà cụ lớn con, con vâng mệnh chạy đến đây báo tin…”.



Lê Hữu Trác coi trọng việc kể lại có ngọn ngành. Nhà văn ưa sắp xếp sự việc cho đầy đủ
mạch lạc có đầu có cuối, nên dường như cứ một đoạn hay một câu nói về hành động của
tên đầy tớ lại tiếp đoạn tự thuật về hành động, cảm nhận của Lê Hữu Trác. “Nghe tiếng
gõ cửa…..tơi chạy ra…”, “người đầy tớ nói…..tơi bèn”, “tên đầy tớ chạy…tơi bị xóc
một mẻ,khổ khơng nói hết”. Mạch văn chặt chẽ nhờ sự thể hiện thành cơng cái lơ gíc
nhân quả của sự kiện, hành động.


Ban đầu ta tưởng như nhân vật “tôi” chủ động, nhưng càng đọc càng thấy nhân vật “tôi”
bị cuốn vào hết sự việc này đến sự việc khác.


Mở đầu đoạn trích cấu trúc câu văn ngắn gọn. Mỗi câu văn tương ứng với một tâm tình,
một sự việc, hànhđộng. Người đọc vừa đồng cảm với nỗi vất vả và hành động bất đắc dĩ
của nhân vật tơi vừa đồng tình với Lê Hữu Trác ở thái độ mỉa mai châm biếm sự lộng
quyền, tiếm lễ của chúa Trịnh Sâm lúc bấy giờ.


Quang cảnh và cung cách sinh hoạt trong phủ chúa được ghi lại khá tỉ mỉ qua con mắt
quan sát của một thầy thuốc lần đầu tiên bước chân vào thế giới mới lạ. Không gian nghệ
thuật của tác phẩm ngày càng được mở rộng hơn theo bước chân, và cách nhìn của nhân
vật xưng “tơi”.


Bức tranh tồn cảnh về phủ chúa Trịnh khơng chỉ có bề rộng mà cịn có chiều sâu, với
một sức gợi mạnh mẽ. Theo nhân vật “tơi” quanh cảnh ở phủ chúa cực kì xa hoa, tráng
lệ- không ở đâu sánh bằng: Khi vào phủ phải qua nhiều lần cửa với những hành lang
quanh co nối tiếp nhau,ở mỗi cửa đều có vệ sĩ canh gác. Khn viên phủ chúa rộng, có
trạm dừng chân được kiến trúc thật kiểu cách, với cảnh trí thiên nhiên kì lạ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

Lê Hữu Trác khéo kết hợp tả tập trung với điểm xuyết, chọn lọc được những chi tiết đắt,
nói lên quyền uytối thượng cùng nếp sống hưởng thụ cực kì xa xỉ của gia đình chúa
Trịnh Sâm. Giọng kể khách quan, trang nghiêm, đan xen với thái độ ngạc nhiên và hàm


ý phê phán kín đáo chúa Trịnh.


Nhà văn khéo kết hợp giữa văn xuôi và thơ ca. Bài thơ vịnh cảnh, tả việc của Lê Hữu
Trác ý tứ sâu xa, lời thơ hóm hỉnh ,ẩn giấu một nụ cười châm biếm, mỉa mai. Lời nhận
xét trong văn phẩm khá đa dạng: Trước tiên Lê Hữu Trác đánh giá khái quát vẻ đẹp.
Tiếp theo nhận xét về cảnh giàu sang. Tiếp nữa nêu ấn tượng về cách bày trí, kiến trúc
kiểu cách. Nhà văn dừng lại bình giá tỉ mỉ,sắc sảo các đồ dùng xa hoa từ nhà Đại đường
đến Gác tía. Lời đánh giá nào của lê Hữu Trác cũng đích đáng,tinh tế và có chừng mực.
Nói tác phẩm giàu chất trữ tình vì thế.


Tác giả quan sát các cơng trình kiến trúc, cảnh trí thiên nhiên qua hình khối, dáng vẻ
kích cỡ, tả khuôn viên chủ yếu qua những ấn tượng về hương thơm âm thanh, kể về mức
độ xuất hiện của thị vệ, quân sĩ để nhấn mạnh vẻ trang nghiêm của nơi đây. Lê Hữu Trác
đặc biệt ưa tả đường đi, lối vào phủ chúa. Ta có cảm tưởng đằng sau mỗi cánh cửa là
một bức tranh.


Đoạn trích gồm nhiều bức tranh với những mảnh màu tối sáng, nhạt đậm khác nhau, nối
liền nhau. Qua mấy lần cửa đầu tiên, trước mắt tác giả giống như một cảnh tiên huyền
ảo, cây cối um tùm, hương hoa thơ mộng. Đi tiếp, cảnh giàu sang của phủ chúa được bày
ra chân thật,đầy đủ hơn. Càng đi sâu vào trong, Lê Hữu Trác càng có dịp quan sát khơng
gian nội thất, khơng gian cao rộng của lầu gác với các đồ nghi trượng sơn son thếp vàng,
nhất là được biết cái phong vị của nhà đại gia.


“Vào phủ chúa Trịnh” trở thành một quá trình tiếp cận sự thật đời sống xa hoa vương giả
hơn là thăm bệnh, chữa bệnh. Thăm bệnh, chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán tưởng chỉ như
một cái cớ, một dịp may giúpngười viết kí hồn thiện bức tranh về cuộc sống thâm
nghiêm, giàu sang đầy uy quyền.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

thật ở “Đông cung”. Những đoạn nhân vật tôi độc thoại tốt lên cái nhìn sắc sảo và sự
cảm nhận tinh tế. Những đoạn kể tả, cho thấy nhân vật tôi bao quát được một không gian


rộng lớn, nắm bắt được thần thái, bản chất của sự vật hiện tượng.


Trong tư cách một người thầy thuốc quê mùa, nhân vật tơi ln tỏ ra là một người hồ
nhã kính nhường, ham học hỏi y thuật của đồng nghiệp. Sự đối lập về vị thế so với các vị
lương y của sáu cung hai viện, không khiến nhân vật tôi trở nên nhỏ bé, trái lại càng tôn
cao hơn nhân cách và tài năng của nhân vật này. Vẻ đông đúc của lương y nơi triều đình
tự phơi bày hết sự thực ở phú chúa đang tồn tại một hệ thống quan lại bất tài, ăn bám
.Các nhà nho xưa ít khi nói về mình. Nhưng trong đoạn trích này,tác giả đã khơng ngần
ngại để cái “Tơi”đóng một vai trị quan trọng.


“Vào phủ chúa Trịnh” thể hiện trực tiếp cái tơi cá nhân người cầm bút. Qua đoạn trích ta
thấy tác giả Lê Hữu Trác là một thầy thuốc giàu kinh nghiệm. Bên cạnh tài năng ơng cịn
là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ. Lê Hữu Trác xem nghề thuốc vơ cùng thiêng
liêng cao q,người làm thuốc phải nối tiếp lịng trung của cha ơng mình,phải ln giữ
đức cho trong, giữ lòng cho sạch . Lê Hữu Trác yêu thích tự do, nếp sống thanh đạm.
Vượt lên trên những danh lợi tầm thường ông trở về hành đạo cứu đời với quan niệm :
“Thiện tâm cốt ở cứu người. Sơ tâm nào có mưu cầu chi đâu/ Biết vui, nghèo cũng hơn
giàu/ Làm ơn nào phải mong cầu trả ơn”.


<b>Bài làm 9</b>


Lê Hữu Trác (Hải Thượng Lãn Ông) là một danh y có tâm huyết và đức độ. Đồng thời,
ông cũng là một nhà văn, nhà thơ có những đóng góp đáng ghi nhận cho văn học nước
nhà. Tiêu biểu trong số đó là đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” trong “Thượng kinh kí
sự” đã để lại những giá trị hiện thực sâu sắc.


Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” nằm ở phần mở đầu tác phẩm kể về việc Lê Hữu Trác
tới kinh đô được dẫn vào phủ để bắt mạch kê đơn cho chúa Trịnh Cán. Ở đây, ông đã
chứng kiến được cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa. Hiện thực trong phủ chúa được ông
miêu tả theo quang cảnh của phủ chúa từ ngoài vào trong, khơng những thế cịn là những


cuộc sống sinh hoạt nơi phủ chúa. Tất cả đều hiện lên vô cùng chân thực.


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

“Hậu mã quân túc trực”. “Điếm làm bên cái hồ, có những cái cây lạ lùng và những hòn
đá kỳ lạ. Trong điếm cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp”. Rồi khi vào
bên trong, tác giả lại càng bất ngờ bởi sự xa hoa hơn cả bên ngoài. “Qua dãy hành lang
phía tây, đến một cái nhà lớn thật là cao và rộng. Hai bên là hai cái kiệu để vua chúa đi.
Đồ nghi trượng đều sơn son thếp vàng. Ở giữa đặt một cái sập thếp vàng. Trên sập mắc
một cái võng điều. Trước sập và hai bên, bày bàn ghế, những đồ đạc nhân gian chưa
từng thấy… Lại qua một cửa nữa, đến một cái lầu cao và rộng. Ở đây, cột đều sơn son
thếp vàng.”


Nhưng thế đã là gì, cung cách sinh hoạt trong phủ chúa lại cịn khiến ta thêm ngạc nhiên
hơn nữa. Khi tác giả được cáng vào phủ: “tên đầy tớ chạy đằng trước hét đường và cáng
chạy như ngựa lồng”, “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc
cửi”. Mỗi lời lẽ nhắc đến chúa đều phải nhẹ nhàng, khn phép thể hiện sự cung kính và
lễ độ. Bữa cơm sáng của chúa đầy những của ngon, vật lạ còn đồ dùng trên mân đều
bằng vàng bằng bạc. Chúa Trịnh ln có phi tần hầu chầu chực xung quanh. Thế tử nếu
có bị bệnh cũng phải đến bảy tám vị thầy thuốc phục dịch và lúc nào cũng có mấy người
đứng hầu hai bên. Khi xem bệnh không được thấy mặt thế tử, chỉ được làm theo mệnh
lệnh do quan chánh đường truyền tới. Trước khi vào xem bệnh cho thế tử phải lạy bốn
lạy, muốn xem thân hình của thế tử phải có viên quan nội thần đến xin phép.


Khi khắc họa cuộc sống nơi phủ cháu như vậy, đặt trong sự so sánh với cảnh ngộ lầm
than của nhân dân ngồi kia. Nhà văn cịn muốn qua đó tố cáo xã hội phong kiến mục
rỗng đã đẩy cuộc sống của nhân dân vào khổ cực.


Tóm lại, “Vào phủ Chúa Trịnh” là một bức tranh hiện thực sắc nét về sinh hoạt của vua
chúa thời xưa. Cụ thể là những uy quyền và cuộc sống xa hoa của chúa. Qua đoạn trích,
chúng ta cũng thấy được bức chân dung tự họa của tác giả. Đó là một con người trung
thực, một danh y có tài và thờ ơ với vinh hoa phú quý, một lòng lo cho nhân dân xã tắc.


<b>Bài làm 10</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

kinh ki sự là một tác phẩm kí độc đáo, mang giá trị hiện thực sâu sắc. Ta có thể cảm
nhận giá trị ấy qua đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của tác phẩm.


Lê Hữu Trác sinh năm 1724, mất năm 1791, nghĩa là cuộc đời ơng nằm trọn trong thời kì
lịch sử nhiều biến động thăng trầm nhất của lịch sử nước nhà: thời kì các tập đồn phong
kiến Lê – Trịnh tranh giành quyền lực, nhân dân cực khổ trăm bề, khởi nghĩa nông dân
bùng nổ dữ dội,… Đặc biệt, sự xa hoa, trụy lạc, chuyên quyền nơi phủ chúa Trịnh càng
khiến bức tranh lịch sử vốn đã đẫm màu đau thương nay lại thêm phần tối đen, xám xịt.
Là một danh y tài năng nức tiếng xa gần, Hải Thượng Lãn Ông đã được mời vào cung
chữa bệnh cho thế tử nơi phủ chúa Trinh – chữa thứ bệnh con nhà giàu, vì dư ăn thừa
mặc mà mắc phải. Sự thực ấy đặt vào hoàn cảnh dân chúng lầm than cơ cực, bị bóc lột
đến tận xương tủy chỉ khiến người ta thấy đau đớn, chua xót và bất bình. Nhân chuyến
lên kinh – một lần mà nhớ mãi, và cảm thán mà Lãn Ơng đã viết Thượng kinh kí sự ghi
lại những điều tai nghe mắt thấy và những suy nghĩ cảm xúc của mình nơi sang nhất trời
Nam.


Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh ghi lại ngày đầu Lê Hữu Trác được triệu vào phủ chúa.
Qua miêu tả cảnh vật và cung cách sinh hoạt chốn quyền uy lừng lẫy, đoạn trích đã thể
hiện giá trị hiện thực sâu sắc.


Cảnh vật phủ chúa là điều đầu tiên tác giả cảm nhận được. Nó là dấu hiệu đầu tiên đánh
dấu sự khác biệt nơi đế đô hoa lệ và chốn dân gian cát bụi. Vạn vật mới đẹp đẽ, xinh
xắn, lộng lẫy làm sao! “Đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua
thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”. Nhưng đó khơng phải thứ cây cối hoang dại
bụi bờ, không phải giống chim sâu, chim sẻ,… Đó đều là giống cỏ lạ chim quý “những
cái cây lạ lùng và những hịn đá kì lạ”, tất thảy đều “thật là xinh đẹp”. Chưa hết. Thành
quách nơi này mới thực lầu son gác tía. Kiểu cách xây dựng thật công phu “Mấy lần
cửa” tiếp nhau, “những dây hành lang quanh co nối tiếp”. Nó tạo nên những phủ chúa


cao rộng, lộng lẫy, nguy nga “cái nhà lớn thật là cao và rộng”, “sập sơn son thếp vàng.
Cảnh vật ấy khiến tác giả khơng cầm lịng được phải ngợi ca:


Lầu từng gác vẽ tung mây,


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói địi phen.


Đây thực là nơi “Cả trời Nam sang nhất là đây”!


Đáng lưu ý là ở tâm sự của tác giả: Ông từng là kẻ xuất thân cao quý, chốn phồn hoa đi
lại cũng nhiều, “sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã
từng biết”; vậy mà chốn phủ chúa này đã khiến ông phải choáng ngợp, trầm trồ “Bước
chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường” Lê
Hữu Trác tự thấy mình như kẻ “quê mùa” lần đầu đến nơi “cung cấm”, như chàng “ngư
phủ” gặp chốn “đào nguyên”. Sự liên tưởng ấy thật đắt giá biết chừng nào. Điều đó phản
ánh một sự thực lịch sử: trong cuộc tranh giành quyền lực lịch sử, nhà Trịnh đang giành
thế thượng phong, uy quyền phủ chúa lấn át cả cung vua, trong khi phủ chúa lộng lẫy, xa
hoa, cung vua chẳng khác nào một cái nhà lớn rỗng trong, tứ bề gió lùa hoang phế.
Cịn nhớ trong Vũ trung tùy bút, Phạm Đình Hổ đã có lần ngậm ngùi “Buổi ấy, bao
nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chôn dân gian,
chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì”. Như vậy hỏi sao chốn đây khơng thơm
lừng hoa thơm cỏ lạ cho được? Cảnh vật nơi này, bên cạnh vẻ đẹp của chốn non Bồng
nước Nhược, nó cịn phản ánh một sự thực là lịng tham vơ đáy, sự ích kỉ hẹp hịi của
phường quan chúa. Cũng trong Vũ trung tùy bút, một sự thực đất nước khi đó được phản
ánh thật đau lịng. Nhân dân phải “chịu hại về việc binh đao đến mười tám năm”, nhiều
nơi "ruộng đất hầu thành rừng rậm”. Tình cảnh ấy tất yếu dẫn đến thảm cảnh “Những
người dân sống sót phải đi bóc vỏ cây, bắt chuột mà ăn”. Thậm chí, có bậc nho sinh trên
đường đi ghé vào một hàng cơm, khi ăn thì thấy “trên mặt nước bát canh thịt nổi sao lên
như hình bán nguyệt (…) thấy có con rận chết ở trên mặt bát mới biết là thịt người…”.


Chao ôi! Vậy mà phủ chúa vẫn rộn ràng, bình n như thế, có ai lắng nghe thấy tiếng
khóc hờ của những oan hồn thảm khốc chốn dân gian?


Đồng điệu với cảnh vật chốn này nhưng thêm ngàn lần tương phản với đời sống nhân
dân trăm họ là những con người nơi phủ chúa và cung cách sinh hoạt cầu kì, kiểu cách,
xa hoa, bệnh hoạn của họ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

Tác phong làm việc của họ thật khó hiểu! Đi đón một danh y chữa trị cho bậc vua chúa,
họ “gõ cửa rất gấp” “vừa nói vừa thở hổn hển” vào “buổi sáng tinh mơ”. Thời gian ấy,
cách gọi cửa ấy khiến ta ngỡ tình trạng người bệnh đà nguy kịch lắm. Đó là chưa nhắc
đến cách vội vã khi đi đường của họ “cáng chạy như ngựa lồng, tơi bị xóc một mẻ, khổ
khơng nói hết”. Thân già, phận thấp, tác giả đành cam lòng chứ còn biết làm sao?!


Nhưng thật bất ngờ! Vào đến phủ chúa, ta khơng khỏi kinh ngạc. Những tưởng nó thê
lương, đau đớn vì sắp mất đi một người thân (gọi, “mời” thầy thuốc vội vã đến thế kia
mà?) nhưng không, vội và, “hổn hển” là ai kia, là lũ lính hầu, bọn “đầy tớ” “giữ cửa”,
“vệ sĩ”,… chứ không phải bậc quan, bậc chúa. Trước khi vào hầu mạch cho thế tử, Hải
Thượng Lãn Ông phải “đi qua mấy lần cửa”, qua “những dãy hành lang quanh co nối
tiếp nhau”, rồi lại “qua mấy lần cửa” (có lẽ vì nhiều cửa quá không thê nhớ hết, đếm
hết), đến điếm “Hậu mà quân túc trực”, tiếp tục “đến một cái cửa lớn” “qua dãy hành
lang phía tây đến một cái nhà lớn thật cao và rộng”, lại “qua một cửa nữa, đến một cái
lầu cao và rộng”,… Theo bước chân Quan Chánh đường ta tưởng như tác giả đang đi
vào một mê cung chứ đâu phải nơi người ở. Chúng còn kiểu cách đến mức đặt tên cho
mỗi nơi, mỗi chốn: nhà “Đại đường”, nhà “Quyển bồng”, “Gác tía”, riêng vì kiêng chữ
“thuốc” nên Gác tía cịn được gọi là “phịng trà”. Đi qua những nơi ấy nhưng vẫn chưa
được gặp được người cần gặp. Phủ chúa cao rộng sâu và xa q, có lè vì vậy mà tiếng
khóc mn dân khơng vang tới, nó chặn kín con đường họ Trịnh về với cái Nhân, cái
Thiện của con người. Đến “phòng trà” mới biết còn “bảy, tám người” ngự y cũng đang
túc trực. Vậy mới biết, cách sinh hoạt của phủ chúa cầu kì, rườm rà, câu nệ vơ cùng. Chỉ
vì một người mà làm khổ đến bao người. Từ một ông thầy thuốc “quèn” phải dậy từ tinh


mơ, “chịu xóc một mẻ, khổ khơng nói hết”, phải đi bộ qua qng đường lê thê những
lính canh, lính kiểm đến những ngự y phải túc trực hàng ngày, hao tốn thì giờ nơi đây.
Trong khi ấy dân gian vẫn rên xiết, khổ đau. Chưa hết, vượt một quãng đường khó khăn,
dài dặc như vậy đến, chỉ vì quanh thế tử khi ấy có “Thánh thượng” cùng các phi tần đang
ở xung quanh, họ lại phải quay trở lại điếm Hậu mã! Việc ăn uống nơi này xa hoa vô
cùng “mâm vàng chén bạc, đồ ăn toàn của ngon vật lạ”. Thật cơm nhà giàu đổ cho chó
để chốn dân gian người chết đói vơ cùng! Sau bao nhiêu chờ đợi, cuối cùng người đọc
cũng được tiếp kiến mặt rồng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

khuất tất, lạ lùng. Thứ ánh sáng duy nhất tác giả thấy được là ánh sáng của nến sáp, từ
đây ánh mặt trời khơng chiếu tới. Điều đó hàm một ý rất tinh: Mặt trời mang sự sống cho
mn lồi nhưng rõ ràng kẻ trong này không được thần Dương ban ánh sáng, không
được ban phúc lành, tất sẽ ốm đau bệnh hoạn. Điều đó được chứng minh ngay bởi dáng
vẻ thân hình của thế tử “ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no mặc quá ấm nên
tạng phủ yếu đi (…) tinh khí khơ hết, da mặt khơ, rốn lồi to, gân thời xanh, tay chân gầy
gị”. Tình cảnh ấy thật thảm thương. Đứa trẻ thiếu ăn thiếu mặc gầy gị ốm yếu đã đành,
nay chỉ vì dư ăn dư mặc mà ốm yếu thì thật mỉa mai đau xót. Nhìn con người ấy mặc thế
tử ấy hỏi sao đảm đương được việc triều chính, gánh sao cho được sơn hà? Lối sinh hoạt
nơi phủ chúa xa hoa, nghi thức mà ám muội, bệnh hoạn quá mức.


Qua miêu tả đời sống nơi phủ chúa, Lè Hữu Trác hàm một ý phê phán nhẹ nhàng lối
sống xa hoa, cầu kì nơi phủ chúa. Đặt đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung vào
hồn cảnh lịch sử ta mới thấy hết giá trị hiện thực của ngòi bút Hải Thượng Lãn Ơng.
Tác phẩm đã tố cáo sự ích kỉ, chuyên quyền của phủ chúa, đời sống nơi này chính là
nguyên nhân gây nên mọi tai vạ đau thương cho đất nước.


Lê Hữu Trác bằng Thượng kinh ki sự đà chứng minh bản thân ông không chỉ là một
người thầy thuốc có tài mà cịn là một ngịi bút có tâm, có tấm lịng nhân ái, vì dân mà
trách kẻ có tội. Thượng kinh kí sự đã ghi danh thêm tên tuổi một văn nhân có tài vào lịch
sử văn học nước nhà.



</div>

<!--links-->

×