Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Tải Soạn văn 10 bài: Nhưng nó phải bằng hai mày - Soạn bài lớp 10 ngắn gọn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (66.9 KB, 4 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Soạn văn 10 bài: Nhưng nó phải bằng hai mày</b>
<b>1. Soạn văn: Nhưng nó phải bằng hai mày mẫu 1</b>


<b>Hướng dẫn soạn bài</b>


1.1. Câu 1 (trang 80 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1)


a. Quan hệ giữa Cải và thầy lí trước khi xử kiện là mối quan hệ đã được dàn xếp
(Cải đã lót tiền trước cho thầy lí năm đồng). Cải cứ nghĩ là quan sẽ cho mình được
thắng kiện nên rất ung dung. Tuy nhiên khơng ngờ khi xử kiện, Cải lại bị thầy lí
tun bố đánh mười roi. Cải từ thế chủ động chuyển hồn tồn sang bị động nên
đành chịu địn.


b. Sự độc đáo của câu chuyện chính là sự kết hợp giữa hai thứ "ngơn ngữ". Ngơn
ngữ bằng lời nói (ngơn ngữ cơng khai), nói cho tất cả những người có mặt ở đó
nghe. Nhưng thứ "ngơn ngữ" bằng động tác thì chỉ có thầy lí và Cải mới hiểu được.
+ Lẽ phải – Cải xịe năm ngón tay.


+ Lẽ phải được nhân đơi – thầy lí xịe năm ngón thay trai úp lên năm ngón tay phải
Ý nghĩa tố cáo của truyện chính là: lẽ phải đối với người xử kiện được tính bằng
tiền. Đồng tiền đo lẽ phải, tiền càng nhiều thì lẽ phải càng nhiều. Đặc biệt hơn,
thầy lí dùng năm ngón tay trái đập vào năm ngón tay phải - hình ảnh ẩn dụ cho
việc cái sai trái úp lên cái phải, cái đúng và ở đây cái phải bị che mất.


1.2. Câu 2 (trang 80 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1)


Khi Cải khăng khăng "xin xét lại, lẽ phải về con mà!", thầy lí đã khơng hề phủ
nhận điều đó nhưng thầy đưa ra lí lẽ "Tao biết mày phải… nhưng nó lại phải….
bằng hai mày!". Tiếng cười bật ra từ đó. Đối với thầy lí, lẽ phải được đo bằng tiền.
Tiền quyết định lẽ phải. Bởi thế năm đồng là "lẽ phải" nhưng mười đồng là "lẽ phải
gấp đôi".



1.3. Câu 3 (trang 80 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1)


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

nhưng câu chuyện chính là lời phê phán cả hai nhân vật. Sự tham lam của bọn
quan lại sẽ càng ngày càng tráo trở hơn nếu cịn có những người như Ngơ và Cải.
Hành vi tiêu cực của chính họ là nguyên nhân làm cho họ trở nên thảm hại. Trong
sự việc này, họ là những kẻ đáng thương nhưng cũng là những người đáng giận.
1.4. Luyện tập


Có thể thấy rõ đặc trưng thể loại của truyện cười qua việc phân tích lời nói và hành
động của nhân vật trong hai truyện Tam đại con gà và Nhưng nó phải bằng hai
mày.


a. Đối với truyện Tam đại con gà (phân tích ở bài trước)
b. Đối với truyện “Nhưng nó phải bằng hai mày”


- Hành động của nhân vật Cải và Ngơ: hai người đều tìm cách đút lót trước cho
thầy lí mà khơng rõ hành động của người kia.


- Thầy lí tham lam nên nhận tiền của cả hai người.


- Lời nói hài ước của các nhân vật: " Xin xét lại, lẽ phải về con mà!"(Cải nói). "Tao
biết mày phải…nhưng nó lại phải…bằng hai mày!" (lời đáp của thầy lí)


c. Từ hai truyện trên, có thể khái quát mấy đặc trưng chung của thể loại truyện
cười:


- Khai thác những sự việc, hành vi, thói hư tật xấu của một bộ phận đối tượng
trong dân gian.



- Chứa đựng những mâu thuẫn trái quy luật tự nhiên và tiềm ẩn những yếu tố gây
cười.


- Dung lượng ngắn, kết chặt chẽ và kết thúc bằng những sự việc hoặc liên tưởng
bất ngờ.


<b>2. Soạn văn: Nhưng nó phải bằng hai mày mẫu 2</b>
<b>2.1. Câu 1 (trang 80 sgk ngữ văn 10 tập 1)</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

- Sự độc đáo, tính hài hước của truyện sự kết hợp lời nói với hành động (Nhưng nó
lại phải bằng hai mày- thầy lý xịe năm ngón tay trái úp lên năm ngón tay phải)
+ Mối quan hệ logic được người đọc nhìn nhận ra: giữa lẽ phải, những ngón tay và
tiền tạo ra tiếng cười


Ý nghĩa tố cáo của truyện: lẽ phải được mua bằng tiền, càng nhiều tiền thì lẽ phải
thuộc về người đó.


<b>2.2. Câu 2 (trang 80 sgk ngữ văn 10 tập 1)</b>
Nghệ thuật gây cười ở cuối truyện nằm ở việc:


Lời nói của thầy Lí có sự đồng nhất giữa “lẽ phải” với số tiền nhận hối lộ, lẽ phải
có thể đong đếm được


+ Thầy lí nhận hối lộ nhưng vẫn trơ trẽn úp bàn tay trái lên bàn tay phải biện minh
cho hành động nhận đút lót.


- Xây dựng tình huống gây cười đặc sắc: Cải đút lót tiền mà vẫn bị bị đánh, thầy lí
đánh địn


- Truyện tạo ra tiếng cười sảng khoái khi kết truyện có cả ngơn ngữ nói và cả hành


động của thầy lý:


+ Chi tiết thâm thúy, sâu cay khi cười vào thứ được coi là cơng lí của chính quyền
phong kiến trước kia ở nông thôn.


<b>2.3. Câu 3 (Trang 80 sgk ngữ văn 10 tập 1)</b>
Nhân vật Ngô và Cải:


+ Là những người nông dân tội nghiệp, đáng thương


+ Họ đánh nhau nhưng không chịu nhận sai lại muốn đổ tội cho nhau nên đều đút
lót cho thầy lí


+ Nhân vật Cải: vừa đáng thương lại vừa đáng trách- đáng thương khi đã hối lộ mà
vẫn bị ăn đòn. Đáng trách là vì đã tiếp tay cho thói tham lam của quan lí.


+ Nhân vật Ngơ: mất tiền, lâm vào kiện cáo


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>2.4. Luyện tập</b>


Đặc trưng của truyện cười thơng qua hai truyện Nhưng nó phải bằng hai mày và
Tam đại con gà:


- Nội dung: thường châm biếm, chế giễu thói hư tật xấu trong một bộ phận người.
Tạo mâu thuẫn trái tự nhiên để gây cười.


+ Truyện Tam đại con gà chế giễu thầy đồ dốt nát nhưng huênh hoang, ngụy biện
+ Truyện Nhưng nó phải bằng hai mày tố đả kích thói tham những của bọn quan
tham thời xưa



- Nghệ thuật tạo tiếng cười:


+ Kết cấu truyện ngắn gọn, mạch lạc, logic, mâu thuẫn được đẩy lên đỉnh điểm tạo
tiếng cười


+ Mâu thuẫn trong truyện Tam đại con gà là sự dốt nát được che đậy, biện mình
+ Truyện Nhưng nó phải bằng hai mày: việc phân xử, công lý được đong đếm bằng
tiền.




</div>

<!--links-->
soạn bài Tam đại con gà nhưng nó phải bằng hai mày
  • 2
  • 3
  • 18
  • ×